Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Một số đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Y Điêng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.98 KB, 104 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







NGUYỄN THỊ THUÝ




MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT TRONG SÁNG TÁC
CỦA Y ĐIÊNG








LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN














THÁI NGUYÊN, NĂM 2012



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGUYỄN THỊ THUÝ




MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT TRONG SÁNG TÁC
CỦA Y ĐIÊNG

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN






Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS. Nguyễn Đức Hạnh








THÁI NGUYÊN, NĂM 2012


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung
nêu trong Luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ
một công trình nào khác.
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Thuý




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ văn, phòng
Quản lý và Đào tạo sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều
kiện cho tôi học tập.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS - TS. Nguyễn Đức Hạnh, người trong
suốt thời gian qua đã tận tình giúp đỡ và động viên rất nhiều để tôi có thể hoàn
thành Luận văn này.
Lời cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân, bạn bè đã động viên, khuyến
khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thuý




















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục i

PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 7
Chƣơng 1. SÁNG TÁC CỦA Y ĐIÊNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 7
1.1. Vài nét về văn xuôi miền núi thế kỉ XX 7
1.1.1. Văn xuôi miền núi đang có sự mở rộng đề tài, chủ đề, tuy chƣa
thực phong phú. 7
1.1.2. Sự phát triển của đội ngũ tác giả. 8
1.1.3. Giá trị nội dung và nghệ thuật 11
1.1.4.Vài nét khái quát về văn học Tây Nguyên 12
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Y Điêng 14
1.2.1 Cuộc đời của nhà văn Y Điêng 14
1.2.2 Tác phẩm và giải thƣởng 16
1.3. Hình tƣợng con ngƣời Tây Nguyên trong sáng tác của Y Điêng 17
1.3.1. Hình tƣợng con ngƣời Tây Nguyên anh hùng 17
1.3.2 Hình tƣợng con ngƣời Tây Nguyên nhân hậu, thủy chung, tình nghĩa 18
1.3.3. Hình tƣợng con ngƣời Tây Nguyên mộc mạc, ít nói và thƣờng
bộc lộ tâm trạng cùng tính cách qua những hành động quyết liệt 21
1.3.4. Hình tƣợng con ngƣời Tây Nguyên với tƣ chất nghệ sĩ 23
1.4. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con ngƣời trong sáng tác
Y Điêng 24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
Chƣơng 2. BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƢỜI
TÂY NGUYÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA Y ĐIÊNG 28
2.1. Bức tranh hiện thực Tây Nguyên với xung đột lịch sử dân tộc và in
đậm bản sắc văn hóa Tây Nguyên 28
2.1.1. Bức tranh hiện thực Tây Nguyên với xung dột lịch sử dân tộc

sâu sắc 28
2.1.2. Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong sác tác của Y Điêng 33
2.2. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Y Điêng 38
2.2.1. Kiểu nhân vật anh hùng đƣợc miêu tả với vẻ đẹp khỏe khoắn
dữ dội 39
2.2.2. Kiểu nhân vật nhỏ bé, có số phận bất hạnh 43
2.2.3. Kiểu nhân vật phản diện, tiêu cực tha hóa 46
Chƣơng 3 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT VỀ NGHỆ THUẬT TRẦN
THUẬT TRONG CÁC SÁNG TÁC CỦA Y ĐIÊNG 49
3.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong sáng tác của Y Điêng 49
3.1.1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình 49
3.1.2. Miêu tả nhân vật qua hành động, ngôn ngữ 55
3.1.3. Miêu tả nhân vật qua tái hiện đời sống nội tâm 57
3.2. Kết cấu phân tuyến – đối lập 60
3.3. Không gian và thời gian nghệ thuật 62
3.3.1. Không gian nghệ thuật 63
3.3.2. Thời gian nghệ thuật 70
3.4. Ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác Y Điêng 77
3.4.1. Các biện pháp tu từ 77
3.4.2. Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại 82
3.5. Giọng điệu 85

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
3.5.1. Giọng điệu chủ đạo là giọng điệu ngƣỡng mộ, ngợi ca Đảng –
Cách mạng và ngƣời anh hùng 85
3.5.2. Giọng điệu cảm thƣơng, xót xa giành cho những con ngƣời
Tây Nguyên bị áp bức bóc lột. 87
3.5.3. Giọng điệu căm thù, tố cáo tội ác của thực dân đế quốc và bè

lũ tay sai 90
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, trên nhiều kênh thông tin khác nhau đã
xuất hiện nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về văn học dân tộc thiểu số nói
chung, văn xuôi các dân tộc thiểu số nói riêng. Các công trình, bài viết đã quan tâm
đến tiến trình phát triển, vấn đề tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, đội ngũ tác
giả…có thể nói là mọi khía cạnh của mảng văn xuôi các dân tộc thiểu số. Tiêu biểu
nhƣ: Văn xuôi miền núi, một thắng lợi mới trong văn học các dân tộc thiểu số
(1972) của Vũ Minh Tâm; Sự hình thành văn xuôi (trong cuốn 40 năm văn hóa
nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 – 1985) của Phong Lê; Văn học và
miền núi (2000) của Lâm Tiến; Tuyển tập văn xuôi dân tộc và miền núi thế kỉ XX
(2000) – Nhiều tác giả; Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kì đổi mới
(2007) của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam; Triều Ân – tác
giả, tác phẩm và dư luận (2008) của Hồng Thanh… Nhìn chung, các công trình, bài
viết kể trên đã phác thảo đƣợc bức tranh về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam
nhƣng vẫn chƣa thật sự bao quát đầy đủ và nhiều chỗ còn chung chung, đơn giản.
Bởi vậy, có thể khẳng định rằng, so với mảng văn xuôi viết về miền núi của các tác
giả ngƣời Kinh, văn xuôi các dân tộc thiểu số chƣa thu hút đƣợc sự quan tâm đúng
mức cùng những nghiên cứu có chiều sâu học thuật từ phía các nhà nghiên cứu, phê
bình văn học. Phong Lê khẳng định: "Thành tựu của văn xuôi miền núi đã đƣợc xác
định ở cố gắng của ngƣời viết nhằm đi sâu nắm bắt cho đƣợc những nét riêng trong

cảnh sắc sinh hoạt, trong nét dáng tâm lý và ngôn ngữ con ngƣời - những nét hẳn
chỉ là ngƣời viết dân tộc mới có khả năng làm ánh lên đƣợc" [25]
Văn xuôi Tây Nguyên nói riêng và văn học của các tác giả dân tộc thiểu số
nói chung vừa là một bộ phận hợp thành vừa đóng góp lớn lao cho thành tựu chung
của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nhƣng việc nghiên cứu, đánh giá thành
tựu và hạn chế của bộ phận văn học này chƣa nhiều, cũng chƣa tƣơng xứng với tầm
vóc của nó. Ngoài việc nghiên cứu một số tác giả tiêu biểu của nền văn học thiểu số
Việt Nam nhƣ sáng tác của Cao Duy Sơn, thơ của Y Phƣơng, tiểu thuyết của Mạc
Phi, thơ của Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu và Bàn Tài Đoàn…Rất nhiều tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
giả ngƣời dân tộc thiểu số chƣa đƣợc hoặc ít đƣợc đề cập đến mà sáng tác của Y
Điêng là một minh chứng cho điều đó. Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn
phần nào khắc phục những khuyết điểm ấy.
1.2. Văn học địa phƣơng là tiền đề, là nền móng góp phần tạo nên thành tựu
trung cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Nhƣng những tác giả xuất sắc của văn
học địa phƣơng, đặc biệt là các tác giả vùng sâu, vùng xa vẫn ít nhiều bị bỏ sót
trong nghiên cứu và phê bình văn học, dù học đã âm thầm suốt đời sáng tác, cống
hiến cho thành tựu chung của nền văn học nƣớc nhà. Y Điêng là một tác giả xuất
sắc của văn học Tây Nguyên. Tác phẩm của ông bám sát và mang hơi thở nóng hổi
của từng chặng đƣờng cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn tiêu biểu: Kháng
chiến chống Pháp, Mĩ với những tác phẩm nhƣ: Em chờ bộ đội Awa Hồ, Ông già K
Rao, Đ’rai H Linh đi về phía sáng, Chuyện trên bờ sông Hinh….; Công cuộc xây
dựng Chủ nghĩa Xã hội với tác phẩm Người buôn Tría…. Ông đã nhận rất nhiều
giải thƣởng văn học của Trung ƣơng và địa phƣơng. Nhƣng đến nay chƣa có công
trình hay bài báo nào tìm hiểu toàn diện và sâu sắc sáng tác của Y Điêng. Đề tài của
chúng tôi muốn thông qua việc khảo sát, đánh giá các tác phẩm của Y Điêng để
nhận diện, khẳng định thành tựu đóng góp cũng nhƣ hạn chế trong sáng tác của nhà

văn này. Từ đó, chúng tôi muốn góp phần khẳng định vị trí và đóng góp của văn
xuôi Tây Nguyên vào thành tựu của văn học Việt Nam hiện đại.
1.3. Văn học địa phƣơng đã đƣợc đƣa vào giảng dạy trong trƣờng phổ thông
ở các cấp học, nhƣng việc thiếu giáo trình giảng dạy thống nhất cho việc giảng dạy văn
học địa phƣơng ở từng tỉnh (trong đó có các tỉnh thuộc vùng văn hóa Tây Nguyên) là
một thực tế đáng buồn đã và đang xảy ra. Qua việc thực hiện đề tài này, chúng tôi
mong muốn, đóng góp một tƣ liệu tham khảo bổ ích cho những ai quan tâm đến công
tác dạy và học phần văn học địa phƣơng ở các tỉnh Tây Nguyên trong nhà trƣờng.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có một số bài báo, bài viết nghiên cứu một cách khái quát toàn bộ quá
trình sáng tác cũng nhƣ nghiên cứu một số đặc sắc về phƣơng diện nội dung và nghệ
thuật trong tác phẩm của Y Điêng. Nhƣng cho đến nay, chƣa có một công trình khoa
học nào đi sâu vào nghiên cứu toàn bộ sáng tác của ông một cách có hệ thống. Hầu hết
các bài viết mới chỉ rất sơ lƣợc, mang tính điểm xuyết sơ bộ sáng tác của ông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Trƣớc hết đó là những bài viết mang tính giới thiệu khái quát về sáng tác của
nhà văn Y Điêng
Tác giả Nguyễn Thị Thu Trang trong Sách văn học Phú Yên thế kỉ XX đã có
bài viết khái quát về tác giả Y Điêng cũng nhƣ văn phong của ông. Y Điêng là một
trong những tác giả trụ cột của văn xuôi Phú Yên, tập trung cho đề tài về đồng bào
dân tộc miền núi. Sự giao thoa về văn hóa giữa các vùng miền, các dân tộc khiến
cho Y Điêng, nhà văn của núi rừng Tây Nguyên tiếp nhận đƣợc “tinh thần hiện đại
của văn học mà vẫn giữ đƣợc màu sắc riêng trong cách diễn đạt, cảm nhận của dân
tộc mình. Yếu tố thực luôn đƣợc đan xen trong cái kì ảo của các huyền thoại vốn rất
giàu có ở một vùng còn hoang sơ mà hùng vĩ” [44]. Trong đội ngũ những nhà văn
hiện đại, Y Điêng nổi bật ở tƣ cách là một đại diện ƣu tú của khu vực miền Trung,
Tây Nguyên. Tác phẩm của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những vẻ đẹp

truyền thống của dân tộc và tinh thần hiện đại của văn học trong việc thể hiện, phản
ánh hiện thực cuộc sống và con ngƣời Tây Nguyên.
Trong bài viết Y Điêng – bậc trưởng lão của dòng văn học miền núi Phú
Yên, tác giả Bằng Tín cũng đã đƣa ra những nhận xét khái quát về sáng tác của ông
“Từng trang, từng trang viết của Y Điêng thấm đẫm tình yêu thiết tha, sâu nặng với
mảnh đất, con sông quê hƣơng làm xúc động ngƣời đọc ” [43]. Qua đó, tác giả
khẳng định tình yêu quê hƣơng, lòng tự hào dân tộc thể hiện trong những sáng tác
của Y Điêng.
Với Một ánh núi Y Điêng, tác giả Triệu Lam Châu cũng đã nhận định “Đọc
truyện, đọc thơ của Y Điêng tôi thấy hiện lên biết bao là ánh núi. Ánh núi hiện lên
từ tiếng cồng chiêng âm vang cả núi rừng và lòng ngƣời. Ánh núi long lanh hiện lên
từ ánh mắt nao lòng của ngƣời con gái Ê đê khi trao chiếc cong cho ngƣời yêu. Ánh
núi hiện lên từ dòng Sông Hinh thẳm sâu huyền thoại buôn làng cùng những bản
trƣờng ca ngân nga suốt đêm thâu ” [13]
Nhƣ vậy, các tác giả mới chỉ đƣa ra những nhận định mang tính chất khái
quát nhất về sáng tác của nhà văn về một khía cạnh, đặc điểm nào đó chứ chƣa đi
sâu vào phân tích, tìm hiểu sâu sắc về những biểu hiện đó trong các tác phẩm của ông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Bên cạnh đó là những bài viết đi vào khái quát một số đặc điểm chính về nội
dung và nghệ thuật trong sáng tác của Y Điêng
Trong bài báo - Nhà văn Y Điêng: Bóng cây kơ nia đại thụ giữa núi rừng
Tây Nguyên của Phan Thế Hữu Toàn cũng đã đề cập đến cấu trúc nghệ thuật trong
các sáng tác của ông. “Với cấu trúc thứ tự theo mạch thời gian, chất văn mộc mạc,
cốt cách diễn đạt giản dị nhƣ những pho tƣợng gỗ trong những ngôi nhà mồ của
đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên” [43], tập truyện dài Hờ Giang phản ánh
gƣơng chiến đấu kiên cƣờng của đồng bào dân tộc thiểu số ở xã Ea Ama ở TP Buôn
Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - nơi nhà văn đã từng sống và chiến đấu. “Bằng lối viết kể

chuyện một cách dung dị, Y Điêng diễn tả mối tình giữa chàng trai Y Thoa với cô
gái Hờ Linh trong tiểu thuyết Chuyện trên bờ sông Hinh thật hồn nhiên, trong trẻo
nhƣ mạch suối rừng” [43]. Những buổi họ cùng làm nƣơng rẫy, cùng hát múa dƣới
trăng khuya, cùng uống rƣợu cần trong lễ đâm trâu - đều có một sức lay động lạ kỳ
đối với ngƣời đọc. Nổi bật lên rực rỡ đó là phẩm chất tâm hồn đậm đà chất núi rừng
của họ.
Nhà văn Mã A Lềnh cũng đã đƣa ra những nhận xét về tác phẩm của Y
Điêng. Tập truyện dài H’Giang với “lối cấu trúc theo mạch thời gian giản dị truyền
thống, không cầu kì sắp đặt, không xen cài, không phức tạp hóa những cảnh ngộ, đó
là một bức tranh phẳng, thật thà tựa nhƣ những bức tƣợng gỗ thô mộc trong khu nhà
mồ của ngƣời Tây Nguyên. Lối diễn đạt, giọng điệu nguyên xi nhƣ ngƣời dân tộc
nói, tạo nên hiệu quả đến thẳng ngƣời đọc, không cần suy nghĩ vòng vo, không cần
vận nhiều triết tự, không quá ƣ triết luận về nghệ thuật cao siêu” [26]. Lối văn của
Y Điêng “ngay thẳng nhƣ cây giữa rừng, thật thà nhƣ cỏ sƣờn núi, trong veo lóoc
róc nhƣ suối nguồn, là một phong cách chứ ?” [19].
Những phƣơng diện về nội dung và hình thức trong sáng tác của Y Điêng
đƣợc một số tác giả đề cập đến qua từng tác phẩm cụ thể, riêng lẻ mà chƣa có sự
khái quát chung nhất một cách toàn diện, sâu sắc xuyên suốt toàn bộ hệ thống tác
phẩm của ông. Những nhận xét mới chỉ bƣớc đầu dừng lại ở mức độ mang tính chất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
chung chung do dó, chƣa làm nổi bật lên đƣợc những đặc điểm mang cá tính sáng
tạo trong sáng tác của ông.
Nhƣ vậy, hầu nhƣ chƣa có một bài báo, một công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, hệ thống các sáng tác của Y Điêng. Đây là một khó khăn của chúng tôi
khi thực hiện đề tài.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung tìm hiểu, đánh giá một số đặc điểm nổi bật ở cả hai
phƣơng diện nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Y Điêng gồm tiểu thuyết và
truyện ngắn của nhà văn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung khảo sát, nghiên cứu các tác phẩm tiêu biểu nhất của Y
Điêng nhƣ:
Chuyện trên bờ sông Hinh, NXBVHNT Đắc Lắc, 1994.
Hơ Giang, NXB VHNT Đắc Lắc, 1987
Trung đội người Bahnar, NXB VHNT Đắc Lắc, 2000
Lửa trong tay chúng tôi, NXB VHNT Đắc Lắc, 2005
Người buôn Tría, NXB VHNT Đắc Lắc, 2005
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng đối sánh tác phẩm của Y Điêng với
tác phẩm của một số nhà văn khác cùng viết về đề tài dân tộc thiểu số ở miền núi.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Qua việc khảo sát và đánh giá về một số đặc điểm trong sáng tác của Y
Điêng, chúng tôi chỉ ra và làm rõ cá tính sáng tạo độc đáo và bản sắc văn hóa Tây
Nguyên trong sáng tác của Y Điêng. Từ đó, chúng tôi khẳng định đóng góp của nhà
văn vào thành tựu văn xuôi của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng và văn xuôi
Việt Nam hiện đại nói chung. Chúng tôi cũng hi vọng, Luận văn sẽ là tài liệu tham
khảo hữu ích cho những ai yêu thích văn xuôi Y Điêng cũng nhƣ cho các giáo viên
trong chƣơng trình dạy học văn học địa phƣơng ở Tây Nguyên.
Luận văn mong muốn góp một phần nhỏ bé vào hoạt động nghiên cứu thành
tựu của văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung, văn xuôi dân tộc thiểu số
Tây Nguyên nói riêng – một mảng sáng tác còn ít đƣợc quan tâm nghiên cứu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp xã hội học

Đƣợc vận dụng để nhìn nhận cơ sở xã hội của sáng tác và tiếp nhận, từ đó
phân tích hiệu quả nghệ thuật của mối quan hệ tƣơng tác giữa xã hội và văn học. Cơ
sở xã hội của văn học viết về Tây Nguyên chính là xã hội Tây Nguyên trong một khung
thời gian nhất định làm nền cho những giá trị văn hóa và con ngƣời trong văn học.
5.2. Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
Từ đặc trƣng thể loại của truyện ngắn và tiểu thuyết mà phân tích, đánh giá
các truyện ngắn và tiểu thuyết của Y Điêng, chỉ ra những đặc sắc riêng của nhà văn
ở hai thể loại này.
5.3. Phương pháp liên ngành
Để vấn đề đƣợc nhìn nhận, đánh giá một cách thấu đáo, ngƣời viết vận dụng
những kiến thức về xã hội học, dân tộc học, lịch sử, tôn giáo, chính
trị để giải mã, cắt nghĩa hiện tƣợng văn học Y Điêng. Trong quá trình tìm hiểu,
phân tích những giá trị văn hóa và đặc điểm con ngƣời, ngƣời viết không tách rời
tác phẩm văn chƣơng với môi trƣờng, thời đại và đặc trƣng thẩm mỹ của văn học.
5.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu
So sánh tác phẩm viết về Tây Nguyên với tác phẩm viết về các vùng đất
khác. So sánh sáng tác của tác giả với các tác giả dân tộc khác để thấy đƣợc “dòng
riêng giữa nguồn chung” của nhà văn từ đó khẳng định đƣợc cá tính sáng tạo độc
đáo cũng nhƣ những đóng góp của Y Điêng đối với nền văn học hiện đại nƣớc nhà.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài ba phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần nội dung của
Luận văn gồm ba chƣơng sau đây:
Chương 1: Sáng tác của Y Điêng và một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
Chương 2: Bức tranh hiện thực đời sống và con người Tây Nguyên trong
sáng tác của Y Điêng
Chương 3: Một số đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật trần thuật của sáng tác
Y Điêng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
SÁNG TÁC CỦA Y ĐIÊNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Vài nét về văn xuôi miền núi thế kỉ XX
Ngoài một số truyện ra đời trƣớc 1945, đề tài dân tộc và miền núi trong văn
xuôi Việt Nam hiện đại đƣợc hình thành, phát triển chủ yếu từ sau cách mạng tháng
Tám. Đây là một đề tài văn học lớn, từng đem lại những tác phẩm đứng ở vị trí
hàng đầu trong nền văn học cách mạng.
Đáng chú ý là, trong khi văn học miền xuôi và đô thị đang phát triển khá
phong phú cùng xu hƣớng đô thị hoá của không ít cây bút trẻ, nhiều tác phẩm văn
xuôi giành đƣợc giải thƣởng văn học cao trong nƣớc và quốc tế những năm gần đây
lại là các tác phẩm viết về miền núi. Điều đó cho thấy mảng đề tài vốn bình dị, có mối
liên hệ bền chặt với truyền thống này vẫn thể hiện sức sống, bản lĩnh riêng của nó.
1.1.1. Văn xuôi miền núi đang có sự mở rộng đề tài, chủ đề, tuy chưa thực
phong phú.
Một số tiểu thuyết trở lại khai thác hiện thực miền núi những năm đầu cách
mạng với cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân các dân tộc nhƣ: Nhớ Mai Châu
(sau đổi thành Đà Bắc, Mai Châu ngày ấy) (1987) của Tô Hoài, Chuyện trên bờ
sông Hinh (1994) của Y Điêng, Gió Mù Căng (1995) của Hà Lâm Kỳ……, hay đi
vào hiện thực những năm chống Mĩ nhƣ Lạc rừng (1999) của Trung Trung Đỉnh.
Nhìn chung, các tác phẩm tìm cảm hứng ở quá khứ này đều xoay quanh những vấn
đề phổ quát của chiến tranh cách mạng: sức sống và bản lĩnh của dân tộc, tình đoàn
kết và tinh thần cộng đồng, con đƣờng thu phục lòng dân và cảm hoá tầng lớp lang
đạo ở miền núi. Bên cạnh đề tài chiến tranh cách mạng, nhiều tác phẩm hƣớng về
công cuộc xây dựng đời sống, phát triển kinh tế ở miền núi nhƣ các tiểu thuyết Mũi
tên ám khói (1991), Gió hoang (1992) của Ma Trƣờng Nguyên, tập bút kí Cao
nguyên trắng (1992) của Mã A Lềnh và các tập truyện ngắn Vùng đồi gió quẩn

(1995), Chuyện ở chân núi Hồng Ngài (2005) của Sa Phong Ba. Ngoài hai mảng đề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
tài quen thuộc này, nhờ sự dân chủ hoá của văn học đổi mới, các phạm vi hiện thực
đƣợc mở ra rộng hơn. Những mặt trái, những mảng tối văn học trƣớc đây từng né
tránh đƣợc phơi bày. Mạnh mẽ, táo bạo và bi phẫn, tiểu thuyết Đàn trời (2006) của
Cao Duy Sơn công khai hé mở thực trạng về sự nghèo đói truyền kiếp của ngƣời
dân vùng cao, vạch trần thói mị dân, sự sa đoạ cùng hành vi đen tối của quan tham
cao cấp thời đại mới. Cùng sự hiện hữu của cái nghèo, cái ác, tác động tiêu cực của
kinh tế thị trƣờng đối với vùng cao là vấn đề đƣợc nhiều tác phẩm quan tâm. Đáng
chú ý là ngoài những vấn đề mang tính xã hội, một số tác phẩm đã đi vào các khía
cạnh của đời tƣ con ngƣời. Có thể kể đến tập truyện Số phận đàn bà (1990) của
Hoàng Thị Cành với những thân phận đàn bà nhỏ nhoi, yếm thế hoặc gặp trắc trở,
bất hạnh trong hôn nhân; tập truyện Tiếng chim kỷ giàng (2004) của Bùi Thị Nhƣ
Lan với những mảnh đời phụ nữ bị trói buộc bởi lƣơng tâm và bổn phận, hi sinh
hạnh phúc riêng vì ngƣời khác. Vốn nhạt nhoà trong văn xuôi cách mạng, chuyện
tình yêu gặp luồng gió đổi mới đã bừng nở trong không ít truyện ngắn, tiểu thuyết
của Cao Duy Sơn, Hà Lý, Hoàng Thế Sinh. Việc khai thác vấn đề số phận cá nhân
đã làm giàu thêm chất văn xuôi, chất tiểu thuyết cho các tác phẩm và nêu cao tinh
thần nhân văn, nhân bản đang là xu thế chung của văn học đổi mới.
1.1.2. Sự phát triển của đội ngũ tác giả.
Những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, sau nhiều năm thiếu vắng ngƣời
viết, ở một số vùng miền đã xuất hiện những cây bút mới. Ở Tây Nguyên trƣớc kia
chỉ có Y Điêng, nay có Hlinh Niê (tức Linh Nga Niê Kđăm, ngƣời Êđê) với tập
truyện Con rắn màu xanh da trời (1997) và tập kí Trăng Xí Thoại (1999), Kim Nhất
(ngƣời Bahnar) với các tập truyện Động rừng (1999), Hồn ma núi (2002) và Niê
Thanh Mai (ngƣời Êđê) với tập truyện Về bên kia núi (2007). Kim Nhất là nhà văn
đi tiên phong trong việc chỉ ra thực trạng về sự mông muội, mê tín dị đoan nặng nề

bị kẻ ác lợi dụng và tố cáo những luật tục vô nhân đạo còn tồn tại ở Tây Nguyên
đang bắt đầu bị lớp trẻ chống đối. Truyện ngắn Niê Thanh Mai phản ánh tâm trạng
của lớp trẻ Tây Nguyên trƣớc sự tác động của văn minh đô thị, trong đó xu hƣớng
từ bỏ buôn làng nghèo khó, thân thuộc đi về phía phồn hoa diễn ra với bao nỗi băn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
khoăn, day dứt, chạnh buồn. Phố phƣờng không phải miền đất hứa - đó là thông
điệp trong các truyện của nữ nhà văn trẻ - nơi đó luôn tiềm ẩn những bất an đối với
cuộc sống và nhân cách con ngƣời. Ở phía Nam, gần đây có sự xuất hiện tác phẩm
văn xuôi của một số dân tộc thiểu số nhƣ truyện kí Chân dung người Hoa ở thành
phố Hồ Chí Minh (1994) của Lý Lan (ngƣời Hoa), tiểu thuyết Chân dung Cát
(2006) của Inrasara (nhà thơ dân tộc Chăm) và một số truyện ngắn, kí của Trà Vigia
(ngƣời Chăm). Chân dung Cát đƣợc viết theo lối hậu hiện đại, “cắt dán” những
mảnh văn bản rời lại với nhau, sử dụng giọng điệu giễu nhại, bỡn cợt. Về cơ bản, đó
là bản phác thảo diện mạo tinh thần dân tộc Chăm qua một tập hợp chân dung hoạt
kê những trí thức bình dân Chăm nhiều khát vọng nhƣng không tƣởng và bế tắc, giữa
một đời sống còn lạc hậu và một nền văn hoá từng huy hoàng nay đã chìm khuất.
Ở các vùng Việt Bắc và Tây Bắc có sự tiếp nối thế hệ nhà văn là ngƣời dân
tộc thiểu số. Sang thời kì đổi mới, ngoài Triều Ân, Vi Hồng, Mã A Lềnh, Sa Phong
Ba còn sung sức trong sáng tạo, các cây bút văn xuôi còn lại của lớp nhà văn dân
tộc thiểu số thời kì đầu (xuất hiện từ đầu thập kỉ 60 thế kỉ trƣớc) đều viết ít hoặc
ngừng viết. Kế tục lớp nhà văn này, có sự xuất hiện của nhiều gƣơng mặt văn xuôi
mới. Đó là các cây bút ngƣời Mƣờng nhƣ Hà Trung Nghĩa với Hoàng hôn (tập
truyện, 1995) và Lửa trong rừng sa mu (tiểu thuyết, 1996); Bùi Minh Chức với Sự
tích một câu nói (tập truyện, 2001) và Hà Lý (hiện sống ở Hà Nội) với Ngọt đắng vị
Mường (tập truyện, 2002). Tác phẩm của Hà Trung Nghĩa và Hà Lý đi vào các khía
cạnh của hiện thực đƣơng đại theo hƣớng khai thác đời tƣ nhân vật, trong đó Lửa
trong rừng sa mu phản ánh khá cụ thể cuộc sống của giáo viên, cán bộ quân y và bà

con dân tộc ở vùng cao. Trong đội ngũ tác giả, ngƣời Tày luôn chiếm số đông.
Ngoài các nhà văn đã nêu nhƣ Ma Trƣờng Nguyên, Hà Lâm Kỳ, Bùi Thị Nhƣ Lan,
Hữu Tiến, còn có Đoàn Lƣ với Kỉ niệm về một dòng sông (tập truyện, 1997) và
Ngựa hoang lột xác (tập truyện, 1998); Hoàng Hữu Sang với Người đánh gấu trên
núi Suối Mây (tập truyện, 1997) và Cửa rừng (tiểu thuyết, 2000). Truyện ngắn Đoàn
Lƣ dành ngôi vị trung tâm cho những nhân vật hảo hán, những nông dân miền rừng
khoẻ mạnh có võ nghệ cao cƣờng, với đề tài ƣa chuộng là sự đối đầu giữa ngƣời và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
dã thú. Cốt truyện của Đoàn Lƣ thƣờng đơn giản, có khi nhƣ những mảnh cắt ngẫu
nhiên từ đời sống, nhƣng khá chi tiết khi dựng cảnh lao động, sinh hoạt của con
ngƣời giữa môi trƣờng tự nhiên hoang sơ ở miền núi. Đóng góp cho văn xuôi còn
có các cây bút ngƣời Nùng nhƣ Hoàng Quảng Uyên với Vọng tiếng non ngàn (kí,
2001), Mặt trời Pắc Bó (tiểu thuyết, 2011), Địch Ngọc Lân với Ngôi đình bản
Chang (tiểu thuyết, 1999) và Hoa mí rừng (tiểu thuyết, 2001). Nhƣ vậy, cho đến
nay Việt Bắc và Tây Bắc vẫn là hai miền đất vàng của văn chƣơng miền núi, nơi
ngƣng tụ nguồn mạch chính của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Tuy chƣa
có đƣợc những tài năng xuất sắc, những phong cách đích thực, nhƣng những cây
bút trên đã thực hiện đƣợc sứ mệnh nuôi giữ ngọn lửa văn chƣơng của dân tộc
mình. Là nhà văn dân tộc Tày, hiện sống ở Hà Nội nhƣng Cao Duy Sơn vẫn chung
thủy với đề tài miền núi bằng sự xuất hiện đều đặn và thuyết phục. Với một hành
trình từ Người lang thang (1992), Cực lạc (1995), Những chuyện ở lũng Cô Sầu
(1996), Hoa mận đỏ (1999), Những đám mây hình người (2002), Đàn trời (2006)
đến Ngôi nhà xưa bên suối (tập truyện ngắn đoạt giải thƣởng Hội Nhà văn Việt
Nam năm 2008, giải thƣởng văn học ASEAN năm 2009), Chòm ba nhà (2009), các
tiểu thuyết và truyện ngắn của Cao Duy Sơn sâu lắng trong các mối quan hệ con
ngƣời với đủ đầy ân oán, thiện ác, từ đó thể hiện những quan niệm nhân sinh,
phƣơng cách ứng xử nhân ái và cao thƣợng. Văn ông giàu trải nghiệm, cái nhìn và

giọng điệu ấm áp trữ tình. Có thể nói, ở thời điểm hiện tại, Cao Duy Sơn là gƣơng
mặt tiêu biểu nhất trong đội ngũ văn xuôi các dân tộc thiểu số.
Tham gia viết về miền núi từ đầu thời kì đổi mới đến nay còn có một số nhà
văn ngƣời Kinh, chủ yếu tập trung ở miền Bắc. Sau nhiều năm ngừng viết, Nguyên
Ngọc trở lại với Tây Nguyên trong một số tập bút kí, ghi chép nhƣ Tản mạn nhớ và
quên (2005), Nghĩ dọc đường (2006), Bằng đôi chân trần (2008). Trên các trang
sách hiện lên một Nguyên Ngọc với nỗi ƣu tƣ văn hoá trƣớc các câu hỏi: làm gì để
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, để tạo sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên.
Những “góc văn hoá” mang tâm hồn Tây Nguyên cùng những cảnh báo về xung đột
giữa bảo tồn và phát triển, về việc đánh mất không gian thực của các thực thể văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
hoá… đƣợc đặt ra. Ngoài Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp và các
cây bút đã nêu nhƣ Đoàn Hữu Nam, Hoàng Thế Sinh, đội ngũ tác giả ngƣời Kinh
còn có Vũ Xuân Tửu với nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết, gần đây nhất là Chuyện
ở bản Piát (tập truyện, 2007); Trịnh Thanh Phong với Dưới chân núi Bắc Quan (kí,
2000); Nguyễn Khắc Đãi với Chớp núi (tập truyện, 1998); Nguyễn Anh Tuấn với
Lũ muộn (tập truyện, 2007); Hồ Thủy Giang với Nhà có năm người (tập truyện,
2008); Tống Ngọc Hân với Khu vườn yên tĩnh (tập truyện, 2009); Phạm Duy Nghĩa
với Cơn mưa hoa mận trắng (tập truyện, 2006) và Đường về xa lắm (tập truyện,
2007). Nhà văn nữ ngƣời Kinh viết về miền núi hiện nay rất hiếm, tiêu biểu hơn cả
là Đỗ Bích Thúy ở miền Bắc, Thu Loan ở Tây Nguyên. Với tiểu thuyết Bóng của
cây sồi (2005) và tập truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (2006), ngòi bút Đỗ Bích
Thúy hƣớng vào những hay dở, đƣợc mất ở miền núi do tác động của kinh tế thị
trƣờng và trong cái nhìn của ngƣời viết, sự vồ vập thái quá khi tiếp nhận cái mới ở
vùng cao hay quan niệm bảo thủ muốn giữ nguyên lề thói cũ đều không phải là giải
pháp tích cực cho đời sống con ngƣời miền núi.
1.1.3. Giá trị nội dung và nghệ thuật

Nhƣ vậy, văn xuôi miền núi vừa kế thừa, vừa phát huy tốt nhất những thành
tựu, những kinh nghiệm nghệ thuật đã có trong quá trình phát triển của nó. Bao quát
các mảng đề tài gắn với cuộc sống và con ngƣời miền núi qua những giai đoạn lịch
sử ở các tác phẩm thành công, văn xuôi miền núi đã chú ý đến những phạm vi,
phƣơng diện, vấn đề nổi bật của đời sống, ghi nhận miêu tả hình ảnh chân thực và
sinh động về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, phóng khoáng của con ngƣời các dân tộc
vùng núi. Văn xuôi miền núi đã phản ánh đƣợc những đóng góp thầm lặng, nghĩa
tình, bền bỉ, to lớn của ngƣời dân vùng cao vào sự nghiệp cách mạng, kháng chiến
cả nƣớc; đã phản ánh đƣợc những thay đổi của cuộc sống, con ngƣời các dân tộc ít
ngƣời miền núi trong những thay đổi chung của đồng bào cả nƣớc. Khát vọng độc
lập, tự do, cuộc sống thanh bình, hạnh phúc đã là nguồn cội sâu xa đã tạo nên sức
mạnh và vẻ đẹp cải tạo thiên nhiên, xã hội, tham gia cách mạng, xây dựng cuộc
sống mới Xã hội Chủ nghĩa của con ngƣời vùng cao. Văn xuôi miền núi cũng khắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
họa và miêu tả những bình diện đời sống vật chất, tinh thần đậm đà bản sắc văn hóa
dân tộc độc đáo của các dân tộc ít ngƣời, chứng tỏ sức sống và sự đa dạng, phong
phú của văn hóa và con ngƣời Việt Nam. Có thể nói văn xuôi miền núi đã đóng góp
vào văn học Việt Nam nói chung những giá trị độc đáo, đặc sắc không thể thay thế
dù chƣa thật nhiều.
Về mặt nghệ thuật, không ít những tác phẩm văn xuôi miền núi đã đóng góp
vào thành tựu nghệ thuật chung của văn xuôi Việt Nam trên các chặng đƣờng phát
triển. Trong những trang viết của cây bút văn xuôi ngƣời dân tộc, ta có thể nhận ra,
chắt lọc những vẻ đẹp độc đáo, bất ngờ - nhƣ hái lƣợm những sắc màu, hƣơng vị
riêng, không thể trộn lẫn, làm tăng vẻ đẹp và giá trị của sáng tác văn học.
Trong những năm qua, một số tác giả, tác phẩm văn học của các dân tộc
thiểu số đã mang đến cho văn học nghệ thuật Việt Nam những sáng tạo đƣợc thể
hiện dƣới nhiều hình thức mới, giọng điệu mới, tạo đƣợc những dấu ấn nhất định

trong lòng độc giả, đƣợc công chúng tiếp nhận và yêu mến.
1.1.4.Vài nét khái quát về văn học Tây Nguyên
Nếu nhƣ trƣớc năm 1975, chỉ mới có các nhà văn Vũ Hạnh, Nguyên Ngọc,
Thu Bồn, Y Điêng Kpă Hô Di và tác giả một bút ký chiến trƣờng là Nay Nô, bằng
ngòi bút của mình, qua những trang viết, phác hoạ nên chân dung Tây Nguyên qua
hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, thì sau 1975, văn học Tây Nguyên là một
mảnh đất hầu nhƣ trống vắng. Ngoài nhà Văn Y Điêng , sau đó chuyển về Khánh
Hoà, cùng với tác giả Nay Nô hoàn toàn “ngủ yên” cho đến tận hôm nay, chỉ có sự
xuất hiện trên văn đàn một thời gian của tác giả Phạm Kim Anh, với những tiểu
thuyết về đời sống ngƣời dân tộc Mạ, mà trong quá trình là một chiến sỹ an ninh,
ông có điều kiện tiếp cận sâu. Sau đó là Nguyễn Trần Thiết với những truyện ký về
Phulrro rất đƣợc bạn đọc chú ý. Những năm giữa thế kỷ XX, các bút ký của Bùi
Bình Thi, truyện và tiểu thuyết của Trung Trung Đỉnh, nhƣ những gạch nối khắc
hoạ vào bức tranh văn học Tây Nguyên.
Đội ngũ sáng tác văn học Tây Nguyên chỉ bắt đầu manh nha phát triển từ khi
các Hội văn học nghệ thuật tại các tỉnh đƣợc thành lập, tập hợp các tác giả từ nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
miền quê đến công tác và sinh sống tại Tây Nguyên , sau đó mới có một vài tác giả
ngƣời bản địa.
Bằng năng khiếu cá nhân và sự đam mê của các tác giả, với sự hỗ trợ ngày
một tích cực của các Hội văn học nghệ thuật Trung Ƣơng và địa phƣơng, đến đầu
thế kỷ XXI này bộ mặt văn học Tây Nguyên đã dần dần lộ diện, làm hiện lên vóc
dáng và diện mạo văn chƣơng của một vùng đất không dễ lẫn.Tuy nhiên, cho đến
tận hôm nay, ở mỗi tỉnh Tây Nguyên, đội ngũ những ngƣời thực sự là tác giả tạm gọi là
tiêu biểu, vẫn chỉ rất ít. Tác giả văn học ngƣời các dân tộc bản địa lại càng ít ỏi.
Có thể kể đến, ngoài những tác giả đã định hình , tiế p tụ c bổ sung hà nh trang
sáng tạo của mình bằng nhiều tập sách in riêng nhƣ : Già làng Y Điêng cây đại thụ

của “ Làng văn” dân tộ c thiể u số Trƣờ ng Sơn – Tây Nguyên viế t liề n hai tậ p tiể u
thuyế t N’Trang Lơng và Chuyện bên bờ Sông Hin h. Và còn gây sửng sốt cho bạn
yêu văn họ c bở i tậ p thơ dày dặn Thơ Y Điêng. Nƣ̃ nhà văn Kim Nhấ t ngƣờ i dân tộc
Bahnar quê Bì nh Đị nh nhƣng mê mả i lậ p nghiệ p văn chƣơng tạ i Buôn Ma Thuộ t, đã
xuấ t bả n thêm 8 tậ p truyệ n ngắ n , bao gồ m cả truyệ n viế t cho thiế u nhi , đò ng thờ i
hoàn thành bản thảo hai tiểu thuyết Hoa dạ i đạ i ngà n và Luậ t củ a rừ ng . Nƣ̃ sỹ
H’Linh Niê, dân tộ c Êđê có lẽ vì quá cả m mế n gió lộ ng cao nguyên mà trong mƣờ i
năm vƣ̀ a qua, liên tiế p giớ i thiệ u vớ i bạ n bè yêu văn họ c hai tậ p truyệ n ngắ n ( Gió
đỏ và Pơ Thi mênh mang mù a gió ), cùng hai tập bút ký văn học ( Đi tìm hồ n chiêng
và Nhân danh ai). Không chị u thua ké m bạ n bè , nhà thơ đầy nữ tính dân tộc Hrê
Nga Ri Vê ở Quả ng Ngã i in thêm tậ p thơ Khát vọng và mộ t tậ p truyệ n ký . Cây bú t
trẻ Êđê Niê Thanh Mai in liền ba tập truyện ngắn khẳn g đị nh vị trí không dễ lẫ n củ a
mình trên văn đàn không chỉ trong khu vực.
Về thể loại, từ lúc chỉ có những tập thơ, tập truyện ngắn đến cuối thế kỷ XX,
một số các trƣờng ca của Nguyễn Hoàng Thu, Văn Công Hùng, Nguyễn Văn Tao,
Lê Vĩnh Tài tiểu thuyết của Thu Loan, Nguyễn Hoàng Thu, Lê Khôi Nguyên mở
rộng thêm không gian văn học và đời sống văn chƣơng Tây Nguyên.
Tuy nhiên, điều đáng nói trƣớc hết ở đây là nội dung và chủ đề tác phẩm của
các tác giả Tây Nguyên. Mặc dù đã có hình hài và dáng vóc của cuộc sống vùng dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
tộc, cao nguyên, nhƣng vẫn nhạt nhoà và không mấy gây đƣợc sự chú ý. Phổ biến
trong các tập thơ, tập truyện ngắn, và ngay cả tiểu thuyết của tác giả tại chỗ, Tây
Nguyên chỉ đƣợc đề cập tới một cách rất ít ỏi. Một phần cũng do tình trạng chung
về điều kiện in ấn xuất bản, phát hành và phổ biến của tác phẩm văn học ở khu vực,
phần nữa cũng do các tác giả không có điều kiện lẫn kinh phí để đi thực tế thu thập
tài liệu. Nhất là còn thiếu sự hiểu biết và né tránh những đề tài “nóng”. Đặc biệt là
những vấn đề nhƣ lâm tặc phá rừng, cuộc chuyển cƣ của đồng bào các dân tộc phía

bắc, vấn đề an ninh chính trị trên địa bàn, sự suy đồi của đạo đức xã hội trong thời
buổi kinh tế thị trƣờng có ảnh hƣởng đến Tây Nguyên, miền núi. Ngay cả sự đƣợc
mất về văn hóa trong cuộc sống hôm nay của đồng bào dân tộc thiểu số bản địa, mà
với chức năng cảnh báo của văn học, lẽ ra phải đƣợc các nhà văn đề cập tới, thì hầu
nhƣ không có. Những đề tài đó, chắc chắn sẽ không chỉ đƣợc bạn yêu văn học tìm
đọc, mà còn là mối quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc để thông qua đó hiểu thêm về
đời sống Tây Nguyên, mà hoạch định ra những chính sách, chủ trƣơng nhằm giúp
cho Tây Nguyên phát triển ổn định và bền vững.
Với những thành tựu và hạn chế của mình, hi vọng văn xuôi miền núi nói
chung và văn xuôi Tây Nguyên nói riêng sẽ có những hƣớng đi mới phong phú cả
về đề tài, thể loại cũng nhƣ đội ngũ sáng tác, góp một “dòng riêng” vào “nguồn
chung” của nền văn học nƣớc nhà.
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Y Điêng
1.2.1 Cuộc đời của nhà văn Y Điêng
Nhà văn Y Điêng cất tiếng khóc chào đời vào ngày 15/2/1928 ở buôn Thung,
xã Đức Bình Đông, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Cách mạng Tháng Tám thành
công khi ông đang ở độ tuổi "bẻ gãy sừng trâu", nhƣng đã đảm đƣơng công việc thƣ
ký xã bộ Việt Minh ở Ea Bia. Hai năm sau, ông chuyển sang làm cán bộ tuyên
truyền và dạy học ở Trƣờng Tiểu học kháng chiến.
Gần bảy năm bám trụ vùng đất phía Đông Tây Nguyên, trƣớc khi khoác ba
lô theo những ngƣời con miền Nam tập kết ra Bắc, ông từng đảm nhiệm công việc
giám thị trại giam tề ngụy thuộc Ty Công an Đắk Lắk.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Đặt chân lên đất Bắc, chàng thanh niên Y Điêng đƣợc đi học chính trị -
nghiệp vụ ở trƣờng đào tạo của Bộ công an tại Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang rồi về
làm cảnh sát tiếp quản Hà Nội sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi. Vài
tháng sau, ông nhận quyết định sang Trƣờng Dân tộc Trung ƣơng và đƣợc đi học bổ

túc văn hoá suốt ba năm, đến cuối thu năm 1958, mới về công tác tại Đài tiếng nói
Việt Nam. Duyên nợ với nghiệp văn đến với ông khi đƣợc cử đi học lớp viết văn
khoá 1 ở Quảng Bá cùng thời với các nhà văn Lƣơng Sĩ Cầm, Lê Tri Kỷ, Nguyễn
Quang Sáng… Năm 1963, Y Điêng về làm phóng viên Đài phát thanh khu tự trị
Tây Bắc, đồng thời nghiên cứu văn hoá dân gian, nhƣng chỉ một năm sau đó, Y
Điêng trở lại chiến trƣờng Nam Bộ và đƣợc phân công làm thƣ ký riêng của cụ Y Bi
Aleo - Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ƣơng Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam.
Đất nƣớc thống nhất, ông trở về Tây Nguyên, đảm trách chức vụ Phó chủ
tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đắk Lắk suốt 6 năm mới chuyển về
xuôi làm Phó chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Phú Khánh. Dù có thừa tiêu chuẩn để
đƣợc ƣu tiên nhận một căn hộ trong khu tập thể ở thành phố biển Nha Trang, nhƣng
hình ảnh núi rừng huyền ảo trong buổi sớm mờ sƣơng, tiếng suối róc rách đều đều
trong mùa khô, ầm ào giận dữ trong mùa lũ đã thôi thúc ông về lại buôn làng miền
núi quê nhà.
Còn nhớ trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại, Y Điêng bày tỏ: "Với tôi,
dòng sông Hinh quê hƣơng nơi tôi sinh ra, gắn bó suốt tuổi thơ cùng bạn bè đã trở
thành máu thịt, tôi nhớ hoài khi phải xa nó… Quê hƣơng vùng sông Hinh của tôi lại
là cái nền của các trƣờng ca sử thi, không một lúc nào không có những nghệ nhân
hát trƣờng ca, hát giao duyên, hát về ký ức nghèo đói của mình. Trƣờng ca thấm
đẫm trong tôi. Những buổi đầu tham gia cách mạng, văn hoá quá thấp, tiếng phổ
thông chƣa thạo, nên tôi không dám nghĩ đến viết văn. Chỉ đến khi tôi về công tác ở
Đài Tiếng nói Việt Nam, công việc đòi hỏi tôi phải đọc, phải dịch, phải viết. Khi
dịch và đọc báo chí, tôi thấy quê hƣơng tôi lớn đẹp hơn nhiều so với suy nghĩ của
tôi trƣớc đây. Tôi mạnh dạn cầm bút thử sức mình bằng tuỳ bút viết về con sông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Hinh quê hƣơng. Chuyện của dân tộc mình phải chính mình viết. Mình không viết,

không nói là mắc nợ với quê hƣơng, với ngƣời thân". [17]
Dù đã trải nghiệm qua hơn chục tác phẩm văn học, nhƣng Y Điêng vẫn giãi
bày: "Nghề viết khó quá! Tôi tự ví mình nhƣ ngƣời làm rẫy. Cứ làm dần, mỗi năm
vỡ thêm một ít, rẫy thì không có bờ thẳng tắp nhƣ đồng ruộng dƣới xuôi, nên phải
viết lại nhiều lần, mỗi lần sửa nhƣ là viết lại cái mới" [43].
Có lẽ vì trƣờng ca và hƣơng sắc Tây Nguyên đã thấm đẫm trong máu thịt của
ông, nên sau khi nhận quyết định nghỉ hƣu cách đây 13 năm, ông từ giã chốn phồn
hoa đô thị để trở về với buôn làng quê hƣơng. Ngoài thời gian viết văn, ông luôn
dành quỹ thời gian để dịch từ tiếng Êđê sang tiếng Việt phổ thông các trƣờng ca
Tây Nguyên nhƣ Đăm Di, Khinh Dú, Y Ban, Y Brao, H'Bia Mlin và truyện cổ tích
dân tộc Êđê.
Nhƣ vậy, Y Điêng – một cây Knia đại thụ của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ
đã giành trọn cuộc đời mình cống hiến âm thầm cho những trang viết, đóng góp một
phần không nhỏ làm nổi bật lên chủ nghĩa anh hùng của những con ngƣời nơi Tây
Nguyên, cả trong chiến đấu cũng nhƣ trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Ông cũng góp phần làm nổi bật những nét văn hóa đặc sắc nơi đây bằng tình yêu
quê hƣơng, yêu tiếng nói dân tộc tha thiết của mình.
1.2.2 Tác phẩm và giải thưởng
H’Giang (tiểu thuyết, 1978): Tặng thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam và Dân
tộc Trung ƣơng
Chuyện trên bờ sông Hinh (tiểu thuyết, 1994): giải B Hội văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Đ’Rai H Linh đi về phía sáng, NXB VHNT Đắc Lắc, 1985
Em chờ bộ đội Awa Hồ, NXB VHNT Đắc Lắc, 1962
Như cánh chim K’way, NXB VHNT Đắc Lắc, 1974
Trung đội người Bahnar, NXB VHNT Đắc Lắc, 2000
Lửa trong tay chúng tôi, NXB VHNT Đắc Lắc, 2005
Người buôn Tría, NXB VHNT Đắc Lắc, 2005

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17
Về mảng dịch thuật: ông dịch từ tiếng Ê đê ra tiếng phổ thông, các trƣờng ca
Tây nguyên: Xinh nhã, Đăm di, Khinh Dú, Y Ban, Y Prao (1961). Truyện cổ tích
dân tộc Ê đê (1988).
1.3. Hình tƣợng con ngƣời Tây Nguyên trong sáng tác của Y Điêng
1.3.1. Hình tượng con người Tây Nguyên anh hùng
Văn học cách mạng 1945 – 1975 của chúng ta đã song hành với những bƣớc
đi của lịch sử và đã xây dựng đƣợc bức tranh chung của cuộc chiến đấu chống Pháp
và chống Mĩ trên nhiều vùng quê của đất nƣớc. Nằm trong dòng chảy ấy Nguyên
Ngọc, Anh Ngọc, Vũ Hạnh và Y Điêng là những ngƣời đầu tiên phản ánh khí thế
cách mạng hào hùng của đồng bào dân tộc Tây Nguyên.
Sống giữa mênh mông đất trời và bạt ngàn rừng núi, ngƣời Tây Nguyên tự
do đi săn con thú trên rừng, tự do đi chơi, tự do đi làm rẫy…Lối sống của họ là lối
sống tự do, phóng khoáng, họ không chịu nổi bất cứ sự lệ thuộc nào. Điều đó giải
thích vì sao khi ngƣời Pháp, ngƣời Mĩ xâm chiếm Tây Nguyên ngay lập tức xuất
hiện những Ma Trang Lơn, Núp, H’Giang …Họ đã đứng lên lãnh đạo nhân dân
kháng chiến.
Để tạo ra một hình ảnh Tây Nguyên anh hùng, tác giả đã có ý thức xây dựng
các thế hệ anh hùng nối tiếp nhau trùng trùng lớp lớp nhƣ cây rừng làm nền tảng
vững chắc cho công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Con ngƣời anh hùng Tây
Nguyên tồn tại ở cả thế hệ ngƣời già và thế hệ trẻ hết lớp này đến lớp khác liên tiếp
đứng lên chống chọi với kẻ thù.
Trong các sáng tác của mình, lớp ngƣời già nhƣ ông già Kơ Rao, ông Ma
Xuyên, Ma Thin, bác a ma Ka, a ma Tƣ là hiện thân của truyền thống, đại diện cho
tinh thần và sự trƣờng tồn của cộng đồng. Họ là những nhân vật có sự chuẩn mực
của lời nói, chuẩn mực của hành động, suy nghĩ. Họ đứng giữa cộng đồng nhƣ cây
cổ thụ vững chãi không sức mạnh nào tàn phá đƣợc. Họ hiện lên trong tác phẩm
nhƣ những ngƣời giữ ngọn lửa truyền thống anh hùng, truyền lại và thổi bùng nó
trong lòng con cháu. Nếu thế hệ ngƣời già là cây cổ thụ thì thế hệ trẻ là mầm xanh

vƣơn lên mạnh mẽ với sức sống dồi dào. Những Hơ Linh, Y Thoa trong Chuyện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
trên bờ sông Hinh; Y Hun, H’Yec trong Ông già Kơ Rao; Y Thanh, Siu Nay, Phi
Ôm, H’Guê trong Trung đội người Bahnar đều thể hiện bản lĩnh khí phách của
ngƣời Tây Nguyên anh hùng không cam chịu kiếp đời nô lệ.
Nhân vật anh hùng thế hệ sau nối tiếp thế hệ trƣớc là kiểu nhân vật trung tâm
trong văn xuôi Tây Nguyên nói riêng và văn học cách mạng 1945 -1975 nói chung.
Sự thể hiện con ngƣời anh hùng theo yêu cầu lịch sử này không tránh khỏi những
công thức, những khuôn mẫu. Đôi khi những con ngƣời nhƣ Hơ Linh, Y Thoa, Y
Hun, H’Yec, H’Giang…Họ .không khác nhau là mấy từ hình thức đến tính cách.
Khuynh hƣớng sử thi đã xây dựng những tính cách điển hình có tính lý tƣởng hóa
chứ không phải là điển hình từ đời thƣờng. Với cái nhìn hiện tại, có thể xem đó là
một hạn chế của văn học cách mạng. Tuy nhiên với quan niệm “văn học là một thứ
vũ khí đấu tranh cách mạng, nhà văn là một chiến sĩ tiên phong” của thời kì này thì
nhà văn Y Điêng không thể đi theo một lối khác. Và cũng chính nhờ vậy mà các
sáng tác của ông đã khắc họa đƣợc không khí của một thời hào hùng. Nó cũng làm
nên một diện mạo Tây Nguyên anh hùng trong chiến đấu của thời đại chiến tranh
cách mạng.
1.3.2 Hình tượng con người Tây Nguyên nhân hậu, thủy chung, tình nghĩa
Điều dễ nhận thấy ở con ngƣời Tây Nguyên là tình cảm mộc mạc và chân
thành, dẫu nghèo về vật chất nhƣng không nghèo về lòng nhân ái. Với một nền văn
hóa phong phú và đậm chất nhân văn, với môi trƣờng tự nhiên trong lành và môi
trƣờng xã hội cộng đồng giàu tình nghĩa đã tạo nên cho con ngƣời Tây Nguyên một
nhân sinh quan tốt đẹp, một lối sống luôn lấy chữ nhân làm đầu. Chữ nhân mang
đậm tính hồn nhiên chứ không hề pha tạp sự tính toán nhƣ biểu hiện của một số dân
tộc phát triển. Đối với ngƣời Tây Nguyên tình cảm cộng đồng là tình cảm lớn nhất.
Thƣớc đo quan trọng nhất của ngƣời Tây Nguyên chính là ở chỗ họ ứng xử với

cộng đồng nhƣ thế nào. Do tính cộng đồng cao và sự phân biệt giàu, nghèo, sang,
hèn chƣa lớn lắm nên ngƣời Tây Nguyên sẵn sàng đặt lợi ích cộng đồng lên quyền
lợi cá nhân. Lòng nhân ái của con ngƣời biểu hiện rõ nhất khi cuộc sống có sự biến
động nào đó. Sự biến động càng lớn tính cách, phẩm chất con ngƣời càng bộc lộ rõ.

×