TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ
KHOA MÁC-LÊNIN
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
(TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ)
HUẾ, 1998
1
Lời nói đầu
- Căn cứ vào thông báo số 7785/CTCT ngày 12.9.1998 của Bộ giáo dục và
Đào tạo về việc dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
năm học 1998-1999.
- Căn cứ vào nhu cầu về tài liệu học tập của sinh viên và học viên Cao học,
nghiên cứu sinh không chuyên ngành Mác-Lênin, Bộ môn Triết học Trường Đại
học Khoa học Huế biên soạn cuốn: “Hướng dẫn ôn tập Triết học Mác – Lênin”.
Đây là tài liệu giúp cho người học nắm được một cách có hệ thống những
nguyên lý cơ bản của Triết học Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng ta vận
dụng vào cách mạng Việt Nam.
Tập thể tác giả xin được đón nhận sự hợp tác và những ý kiến trao đổi, xây
dựng của bạn sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và đồng nghiệp.
Bộ môn Triết học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ
2
Phần A
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ THẾ GIỚI
Câu 1: Triết học là gì? Phân tích vấn đề cơ bản của triết học?
1. Khái niệm triết học:
“Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là trí (bao gồm sự hiểu biết sâu rộng
về vũ trụ và nhân sinh), theo chữ Hy Lạp là “yêu mến sự thông thái”. Khái niệm
“triết học” có những biến đổi nhất định trong lịch sử, nhưng lúc nào cũng bao hàm:
yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ trụ, về con người và sự giải thích bằng hệ
thống tư duy) và yếu tố nhận định (đánh giá về đạo lý để con người có thái độ và
hành động).
Theo quan điểm mácxít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội;
là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của
thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đặc điểm nổi bật của triết học là cách nhìn chung về thế giới, là sự nghiên
cứu thế giới xét như một chỉnh thể, cho nên tri thức triết học trước hết là những tri
thức phổ quát. Từ cách xem xét đó, triết học có vai trò giải thích bản chất, nguyên
nhân và những quy luật phát triển của thế giới; vừa có vai trò vạch ra con đường,
những phương tiện để nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Về mặt nhận thức, triết học xuất
hiện khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất định, cho
phép họ tổng kết và khái quát những tri thức riêng lẻ thành hệ thống quan niệm,
quan điểm chung. Về mặt xã hội, triết học xuất hiện khi sản xuất vật chất của loài
người phát triển đến trình độ làm nảy sinh quá trình phân công lao động trí óc và
lao động chân tay; nhưng quá trình phân công lao động này trong thực tế chỉ diễn
ra khi lịch sử nhân loại bước vào giai đoạn có phân chia giai cấp.
3
2. Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa
tồn tại và tư duy, hay là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này
có hai mặt:
- Mặt thứ nhất, đó là vấn đề giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước? cái
nào quyết định cái nào? Tùy theo cách giải quyết vấn đề này mà triết học chia
thành hai trào lưu chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, nên vật chất có
trước, tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức; còn ý thức là thuộc tính, là
sự phản ánh vật chất. Chủ nghĩa duy vật trải qua nhiều giai đoạn phát triển với năm
hình thức lịch sử cơ bản: duy vật cổ đại (mộc mạc, chất phác), duy vật tầm thường
thế kỷ V-XV, duy vật cơ học máy móc thế kỷ XVII-XVIII, duy vật siêu hình thế kỷ
XIX và duy vật mác-xít (biện chứng).
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tinh thần) là bản chất của thế giới, nên ý
thức là cái có trước và quyết định vật chất; còn vật chất là cái có sau, là sự “biểu
hiện” của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản: duy tâm chủ quan
(coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là ý thức của con người nằm trong
con người) và duy tâm khách quan (cũng coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng
đó là một thực thể tinh thần tồn tại bên ngoài con người và độc lập với con người).
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật: là sự phát triển của tri thức, của khoa học;
là lợi ích và cuộc đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội tiến bộ, cách
mạng ở mỗi giai đoạn phát triển của lich sử. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: là
sự tuyệt đối hóa một hình thức hay một giai đoạn của quá trình nhận thức dẫn đến
tách nhận thức và ý thức khỏi thế giới hiện thực khách quan; thông thường là lợi
ích và sự phản kháng của các giai cấp, các lực lượng bảo thủ trước tiến bộ xã hội.
- Mặt thứ hai, là vấn đề về khả năng nhận thức của con người.
Toàn bộ các nhà triết học duy vật và đa số những nhà triết học duy tâm đều
thừa nhận rằng thế giới có thể nhận thức được. Nhưng các nhà duy vật cho rằng,
4
nhận thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan trong bộ óc con người. Còn
các nhà duy tâm thì cho rằng, nhận thức chỉ là sự ý thức về bản chất ý thức.
Trả lời vấn đề này còn có những nhà triết học theo nguyên tắc bất khả tri
(không thể biết). Những người này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa tính tương đối
của tri thức dẫn đến phủ nhận khả năng nhận thức của con người.
- Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên (duy vật và duy tâm) giải thích
thế giới từ một bản nguyên, hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết
học nhị nguyên luận. Nhị nguyên luận cho rằng thế giới được sinh ra từ hai bản
nguyên độc lập với nhau, bản nguyên vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, bản
nguyên tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Nhị nguyên luận thể hiện lập
trường dung hòa giữa duy vật và duy tâm, đó chỉ là khuynh hướng nhỏ trong lịch
sử triết học và trong cuộc đấu tranh triết học nó càng trở nên gần với chủ nghĩa duy
tâm.
Câu 2: Phân tích sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện
chứng
- Phương pháp triết học là phương pháp nhận thức thế giới nói chung, là hệ
thống những nguyên tắc dùng để nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể. Trong
lịch sử triết học có hai phương pháp cơ bản đối lập nhau: phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng.
Thuật ngữ “siêu hình” (metaphysics), đầu tiên được Aristote dùng để chỉ bộ
phận quan trọng nhất trong hệ thống triết học của mình. Theo đó, nó được hiểu là
học thuyết về những gì vượt ra ngoài giới hạn của “kinh nghiệm”, về những đối
tượng đằng sau các sự vật hữu hình. Vì vậy, cho đến thời Phục hưng người ta vẫn
coi siêu hình học đồng nghĩa với triết học. Đến thế kỷ XVII-XVIII, sự phát triển
của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải phân chia giới tự nhiên thành những lĩnh vực
riêng biệt để nghiên cứu. Chính cách nghiên cứu ấy đã đem lại cho các nhà khoa
học một thói quen, xét sự vật và quá trình trong trạng thái cô lập ở ngoài mối liên
hệ, vận động và phát triển của chúng. Khi cách xem xét này được các nhà duy vật
đưa vào triết học thì nó đã tạo ra phương pháp siêu hình. Như vậy, thuật ngữ
5
“phương pháp siêu hình” được dùng để chỉ phương pháp triết học đặc trưng cho
chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII. Phương pháp siêu hình là cách xem xét thế
giới trong sự cô lập tác biệt lẫn nhau hoặc không vận động, hoặc không phát triển,
hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép kín.
Thuật ngữ “biện chứng” (dialectics), đầu tiên được Platon dùng để chỉ một
nghệ thuật trong tranh luận, theo đó nó được hiểu là những thủ đoạn biện bác chủ
quan. Tuy vậy ở thời cổ đại đã có những tư tưởng biện chứng khách quan (triết học
Hêraclít), nhưng vẫn còn mang tính tự phát và chưa trở thành hệ thống. Đến thế kỷ
XVIII, những tư tưởng biện chứng được phục hồi và được xây dựng thành hệ
thống, đặc biệt là ở trong các học thuyết của những nhà triết học duy tâm cổ điển
Đức. Từ lúc này những tư tưởng biện chứng mới hợp thành một phương pháp triết
học đối lập với phương pháp siêu hình. Đến giữa thế kỷ XIX, khái quát hiện thực
xã hội, tổng kết những thành quả lý luận và khoa học, Mác và Ăngghen xây dựng
lại phương pháp biện chứng trên lập trường duy vật đã sáng tạo ra phương pháp
biện chứng mácxít. Phương pháp biện chứng là cách xem xét thế giới trong mối
liên hệ phổ biến quy định ràng buộc nhau và luôn vận động và luôn phát triển.
- Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng diễn ra
trong cách giải quyết mọi vấn đề triết học, song có thể khái quát ở những nội dung
chính sau đây:
Thứ nhất: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái cô lập của
các sự vật hiện tượng; cái này được xét tách rời cái kia mà không thừa nhận rằng
giữa chúng có sự ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy
tính cá biệt mà không nắm được mối liên hệ, thấy được sự khác biệt mà không nắm
được sự thống nhất giữa các sự vật hiện tượng; chỉ thấy cái bộ phận, cái đơn nhất,
cái riêng mà không nắm được cái toàn thể, cái phổ biến, cái chung. Trái lại,
phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong mối liên hệ, ràng buộc giữa các
yếu tố của nó và với cái khác. Vì vậy, phương pháp biện chứng nhìn nhận sự vật
toàn diện hơn, thấy được cả sự khác biệt và sự thống nhất giữa các sự vật, hiện
6
tượng, nắm được cả cải bộ phận và cái toàn thể, cái đơn nhất và cái phổ biến, cái
riêng và cái chung.
Thứ hai: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái tĩnh; sự vật
hiện tượng chỉ được xét như cái gì ổn định nằm ngoài sự vận động và phát triển
của chúng. Cách xem xét này cho phép phương pháp siêu hình nắm được tính xác
định và ổn định của sự vật, hiện tượng, nhưng mặt khác cũng dẫn đến những sai
lầm nghiêm trọng: đó là quan điểm phủ nhận sự vận động, phát triển của thế giới;
là quan điểm cho rằng thế giới có sự tăng giảm về lượng, sự lặp lại, mà không có
sự chuyển hóa về chất, không có sự xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
Vì vậy phương pháp siêu hình không thể vạch ra được bản chất thật sự của mọi sự
vật, hiện tượng; không vạch ra được nguồn gốc, động lực, quy luật và xu hướng
vận động phát triển của chúng. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới
trong trạng thái vận động, chuyển hóa không ngừng; sự vật, hiện tượng nào cũng
được xét như một quá trình, trong sự tự vận động, tự phát triển của nó. Thừa nhận
sự phát triển, phương pháp biện chứng cho rằng: không chỉ có sự tăng giảm về
lượng mà còn có sự phát triển về chất; có sự ra đời của cái mới thông qua phủ định
cái cũ; nguồn gốc, động lực của mọi sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt
đối lập của sự vật, hiện tượng. Nhờ cách xem xét ấy, phương pháp biện chứng,
vạch ra được bản chất đích thực của sự vật, hiện tượng; nắm bắt được nguồn gốc
và động lực bên trong của mọi sự vận động, phát triển.
Vì vậy, Lênin nhận xét rằng chỉ có quan điểm biện chứng về sự phát triển là
sâu sắc, sinh động và chỉ có phép biện chứng mới là chìa khóa để nghiên cứu sự
phát triển.
Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa phép biện chứng mà phủ nhận vai trò
của phép siêu hình. Trong thực tế, có những mối liên hệ, có những mặt, có những
lúc đặc biệt lại rất cần đến phép siêu hình.
Câu 3: Trình bày những tiền đề ra đời của triết học Mác-Lênin
* Tiền đề kinh tế-xã hội
7
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, thời kỳ mà chủ
nghĩa tư bản đã trở thành hệ thống kinh tế thống trị ở các nước Tây Âu và giai cấp
vô sản đã bước lên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập.
Mác nhận xét rằng, đến thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã trở thành một cơ thể
hoàn chỉnh, làm bộc lộ đầy đủ các mâu thuẫn trong bản chất của nó. Trước hết là
mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội với quan hệ sản xuất
có tính chất tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã
hội là mâu thuẫn xung đột giữa lao động với tư bản, giữa giai cấp vô sản với giai
cấp tư sản. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó, đã
tạo ra một cơ sở hiện thực cho những phân tích và khái quát lý luận trong học
thuyết của Mác và Ăngghen.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó kéo theo
sự phát triển của phong trào công nhân. Đến cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ
XIX, phong trào công nhân ở các nước Tây Âu đã có bước phát triển mới về số
lượng và chất lượng. Sự tập trung tư bản cùng với sự hình thành những trung tâm
công nghiệp lớn thu hút công nhân thành lực lượng đông đảo, mâu thuẫn giữa lao
động và tư bản trở nên gay gắt làm xuất hiện những cuộc đấu tranh chính trị ngày
càng có tổ chức và tự giác. Các cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức), ở
Liông và Pari (Pháp), phong trào Hiến chương (Anh) vào những năm 30-40 chứng
minh rằng: giai cấp công nhân trở thành lực lượng quyết định các quá trình kinh tế-
xã hội-chính trị của thời đại và bước lên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị
độc lập. Phong trào công nhân thời kỳ này làm bộc lộ sai lầm của quan niệm tư sản
về sự hân hoan chung giữa lao động và tư sản, tạo nên những thay đổi căn bản
trong quan niệm về lịch sử của Mác và Ăngghen; mặt khác, nó đề ra nhu cầu giải
thích về những thực tế của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản về tổ chức, con đường và phương tiện cách mạng của giai cấp
vô sản. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng những đòi hỏi này.
Những phân tích và khái quát lý luận về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
và phong trào công nhân vào nửa đầu thế kỷ XIX là một bộ phận quan trọng trong
8
học thuyết của Mác và Ăngghen. Vì vậy, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và
phong trào công nhân thời kỳ đó là những điều kiện kinh tế-xã hội cho sự ra đời
của triết học.
* Tiền đề lý luận
- Sự ra đời của triết học Mác trước hết có kế thừa những thành quả của triết
học cổ điển Đức. Mác và Ăngghen luôn thừa nhận rằng trong sự phát triển trí tuệ
của mình, hai ông đã chịu ơn nhiều nhà triết học Đức, trong đó nổi bật là Hêghen
và Phoiơbắc.
Công lao to lớn của Hêghen là ở chỗ: Ông đã phê phán những hạn chế cơ
bản của phương pháp siêu hình, đã xây dựng phép biện chứng thành hệ thống và
xem nó là phương pháp luận đúng đắn của mọi nhận thức khoa học. Nhưng Mác và
Ăngghen cũng chỉ ra rằng, triết học Hêghen có những hạn chế lớn, đó là sự giải
thích duy tâm về hiện thực; là sự biện hộ cho những thực tế lịch sử lỗi thời, cho tôn
giáo; là triết học tự biện, trừu tượng, xa rời hiện thực và thực tiễn. Cho nên khi
sáng lập triết học của mình Mác và Ăngghen đã không kế thừa toàn bộ triết học
Hê-ghen mà chỉ kế thừa hạt nhân hợp lý, đó là phép biện chứng, đồng thời cải tạo
và xây dựng lại phép biện chứng trên lập trường duy vật.
Đánh giá về Phoiơbắc, Mác và Ăngghen cho rằng chính nhờ đọc được các
tác phẩm của ông mà họ đã cương quyết đoạn tuyệt với triết học Hêghen. Công lao
của Phoiơbắc là ở sự phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm-tôn giáo (nhất là phê
phán Hê-ghen), là sự khẳng định cương quyết tính đúng đắn của các nguyên lý duy
vật, là việc giải thích trên lập trường duy vật bản chất con người, bản chất tôn giáo
và đề cao chủ nghĩa nhân đạo. Nhưng Phoiơbắc cũng có những hạn chế lớn, đó là
phương pháp tư duy siêu hình, (khi phê phán Hêghen, ông đã không thấy được
phép biện chứng là hạt nhân hợp lý nên đã bác bỏ và chuyển sang quan điểm siêu
hình); quan điểm trực quan, trừu tượng, phi lịch sử về bản chất con người, duy tâm
trong lĩnh vực xã hội. Vì vậy khi sáng lập ra triết học của mình, Mác và Ăngghen
cũng không kế thừa toàn bộ triết học Phoiơbắc mà chỉ kế thừa hạt nhân cơ bản
9
đúng đắn đó là nguyên lý duy vật, đồng thời cải tạo và xây dựng lại chủ nghĩa duy
vật dựa trên quan điểm biện chứng.
- Sự ra đời triết học Mác không chỉ do ảnh hưởng của triết học Hêghen và
triết học Phoiơbắc. Mác và Ăngghen khi tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản đã rút ra những tài liệu thực tiễn phong phú cho những kết luận duy
vật-biện chứng của mình. Ngoài ra, việc hai ông đi sâu nghiên cứu kinh tế-chính trị
học cổ điển và chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán, đã góp phần không nhỏ
cho sự hình thành và hoàn thiện thế giới quan triết học của mình.
* Tiền đề khoa học tự nhiên
Sự ra đời triết học Mác còn được chuẩn bị bởi những thành quả của khoa
học tự nhiên. Những thành quả của khoa học tự nhiên từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu
thế kỷ XIX làm bộc lộ những hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình, ngày
càng chứng minh tính đúng đắn của các nguyên lý duy vật và biện chứng.
Phát hiện bằng thực nghiệm của Maye (được Lômônôxốp công bố) về sự
bảo toàn vật chất và vận động, lý luận của Cantơ về sự hình thành thái dương hệ đã
góp phần khẳng định quan điểm biện chứng về lịch sử vũ trụ và giới tự nhiên: mặt
khác đả phá quan niệm duy tâm, tôn giáo siêu hình về thế giới.
Từ những năm 30 đến 50 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những
thành tựu to lớn. Thời kỳ này có ba phát minh vĩ đại đóng vai trò quan trọng trong
cuộc đấu tranh chống quan điểm siêu hình và chuẩn bị cho sự ra đời của chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX phát minh ra quy luật bảo toàn và chuyển
hóa năng lượng. Quy luật này chứng minh rằng: lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện,
từ các quá trình hóa học, nghĩa là các hình thức khác nhau của vận động vật chất
không tách rời nhau, mà liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau nên không hề mất đi. Nó
chứng minh rằng không có sự sinh ra và mất đi của năng lượng, mà chỉ có sự
chuyển hóa năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Như vậy quy luật này là cơ sở
khoa học tự nhiên cho quan điểm biện chứng về thế giới.
10
Vào những năm 30 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã phát minh ra học
thuyết cấu tạo tế bào của cơ thể sống. Học thuyết này bác bỏ quan niệm siêu hình
về sự khác biệt tuyệt đối giữa thực vật và động vật. Ngược lại, nó khẳng định sự
thống nhất về nguồn gốc và hình thái giữa thực vật và động vật, giải thích quá trình
phát triển của chúng, đặt cơ sở cho quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển
của toàn hệ sinh học.
Phát minh lớn thứ ba là học thuyết tiến hóa của sinh giới ra đời vào những
năm 50 của thế kỷ XIX. Học thuyết tiến hóa chứng minh rằng sinh giới không phải
là bất biến mà thường xuyên biến đổi, nằm trong quá trình tiến hóa không ngừng
của giới tự nhiên. Nó khẳng định sự tiến hóa của sinh giới diễn ra theo con đường
chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Lênin đánh giá rằng thuyết tiến hóa đánh
dấu sự cáo chung của quan niệm siêu hình về tính bất biến của các loài và quan
niệm về nguồn gốc thần thánh của sinh giới đem lại cơ sở thật sự khoa học cho
sinh học. Mác và Ăngghen xác nhận rằng thuyết tiến hóa đem lại cái cơ sở lịch sử
tự nhiên cho học thuyết của hai ông, đã đập tan thần học trong học thuyết về sự
phát triển của thực vật và động vật; rằng trước đó chưa hề có một sự chứng minh
nào thành công to lớn như thế về sự phát triển lịch sử trong giới tự nhiên.
Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX cũng
là tiền đề cho các quan điểm duy vật và biện chứng về thế giới của Mác và
Ăngghen.
Câu 4: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong
lịch sử triết học?
Khái quát hiện thực xã hội, kinh nghiệm của phong trào công nhân và những
thành tựu của khoa học tự nhiên, nghiên cứu có phê phán những tư tưởng triết học
trước đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo ra triết học của mình, thực hiện một bước
ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. Điều đó thể hiện ở những nội dung sau
đây:
- Triết học Mác ra đời lần đầu tiên đem lại cho giai cấp vô sản một hệ tư
tưởng; một lý luận dẫn đường thực hiện bước giải phóng giai cấp vô sản về mặt
11
tinh thần. Mác cho rằng, nếu trái tim của sự giải phóng nhân loại là giai cấp vô sản,
thì khối óc sự giải phóng đó là triết học của giai cấp vô sản, là thế giới quan của
nó. Triết học Mác là vũ khí lý luận chung cấp cho giai cấp vô sản những công cụ
nhận thức và cải tạo thế giới, cho nên Mác viết: “giống như triết học tìm thấy ở
giai cấp vô sản là một vũ khí vật chất, giai cấp vô sản tìm thấy ở triết học là một vũ
khí tinh thần”. Như vậy, với sự ra đời ở triết học Mác, phong trào vô sản đã có một
bước ngoặt, từ chỗ là một phong trào tự phát, chưa có lý luận, bị lệ thuộc vào tư
tưởng, nó trở thành một phong trào tự giác, có lý luận và độc lập về tư tưởng.
- Với sự ra đời của triết học Mác, lần đầu tiên thực tiễn trở thành phạm trù
trung tâm của triết học. Điều đó làm biến đổi tận gốc vai trò xã hội của triết học và
khắc phục được những thiếu sót căn bản của triết học trước kia. Trung tâm chú ý
của triết học Mác không chỉ là giải thích, mà còn và chủ yếu là vạch ra con đường,
những phương tiện cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng. Đối với triết học
Mác thì thực tiễn có vai trò quyết định mọi sự phát triển xã hội, khoa học và cả
triết học. Không một nhà triết học nào trước Mác hiểu được vai trò quyết định của
thực tiễn đối với lý luận và đối với toàn bộ lịch sử nhân loại. Vì hạn chế đó, các
nhà duy vật trước Mác đã rơi vào quan điểm duy tâm siêu hình khi đề cập đến
những vấn đề xã hội. Chủ nghĩa duy tâm phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị bảo
thủ, cho nên nó xa rời thực tiễn, tách khỏi hiện thực, làm cho quần chúng không
thấy được những cơ sở vật chất của các quan hệ bóc lột.
Chỉ ra vai trò quyết định của thực tiễn, Mác và Ăngghen cũng luôn nhấn
mạng vai trò to lớn của hoạt động tinh thần, của lý luận. Vì vậy hai ông đã phát
triển học thuyết cân đối về mối liên hệ giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách
mạng. Lý luận cách mạng có vai trò chỉ đạo thực tiễn, làm cho thực tiễn từ tự phát
thành thực tiễn cách mạng, tự giác. Khi lý luận cách mạng thâm nhập vào quần
chúng sẽ đem lại cho họ những hiểu biết quy luật của đời sống xã hội, hướng dẫn
họ thực hiện một cách tự giác những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh thực tiễn, lúc đó
trở thành sức mạnh vật chất.
12
Là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản, triết học Mác có
sự thống nhất sâu sắc giữa tính Đảng, tính cách mạng và tính khoa học. Triết học
Mác là sự phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động; đồng thời nó
là lý luận cho cuộc đấu tranh của họ nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người,
đưa nhân loại lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là tính Đảng, tính cách mạng của triết
học Mác không đối lập với tính khoa học của nó. Khi phản ánh lợi ích của giai cấp
vô sản và phục vụ cho cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản, triết học Mác phản
ánh đúng yêu cầu và những quy luật khách quan của lịch sử.
Sự ra đời của triết học Mác cũng là sự sáng lập chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phép biện chứng duy vật. Đây là những hình thức cao của chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng, khắc phục những thiếu sót căn bản của triết học trước kia.
Trước Mác chủ nghĩa duy vật thì siêu hình, còn phép biện chứng thì lại gắn với lập
trường duy tâm, như vậy chúng tách rời, thậm chí đối lập nhau, chỉ khi triết học
Mác ra đời mới có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, tạo ra
một triết học phát triển cao hơn về chất so với trước đó.
- Sự ra đời triết học Mác cũng là sự sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đây là biểu hiện rõ rệt nhất của cuộc cách mạng triết học do Mác và Ăngghen thực
hiện. Chỉ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử xuất hiện thì chủ nghĩa duy vật nói chung
mới trở thành triệt để. Nó không chỉ khắc phục lập trường duy tâm về xã hội trong
triết học trước đó, mà còn là cơ sở lý luận về phương pháp luận khoa học cho toàn
bộ xã hội học, cho hoạt động thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và đảng
của nó.
- Sự ra đời triết học Mác làm thay đổi căn bản tính chất của triết học, đối
tượng và mối quan hệ của nó với các khoa học khác. Truyền thống trước đó, triết
học được coi là khoa học của mọi khoa học, hòa lẫn hoặc tách rời với các khoa học
cụ thể khác. Triết học Mác không hòa lẫn vào các khoa học cụ thể mà cũng không
tách rời chúng. Trong sự hình thành và phát triển của mình, triết học Mác không
chỉ dựa trên sự khái quát thực tiễn xã hội, mà còn dựa trên sự khái quát của những
thành tựu khoa học cụ thể (cả tự nhiên và xã hội). Khoa học cụ thể cung cấp những
13
tài liệu hết sức phong phú cho triết học Mác nghiên cứu các quy luật chung nhất
của hiện thực khách quan. Đồng thời triết học Mác cung cấp những hiểu biết về
các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan sẽ giúp cho các khoa học cụ thể
nghiên cứu có hiệu quả các quy luật đặc thù.
Câu5: Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin và ý nghĩa khoa học của
định nghĩa này.
Tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những
thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, về
mặt triết học trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật
chất, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
* Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (V.I.Lênin toàn tập, T.18,
NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1980, tr.151).
* Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau
đây:
a. “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan…”
- “Vật chất” là một phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức.
+ Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không
phải dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai
lầm khi đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất
thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hằng ngày.
+ Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường.
Về mặt nhận thức luận, Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan
hệ với phạm trù đối lập của nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa
14
thông qua cái đối lập với nó). (Xem thêm chương khái niệm ở giáo trình Lôgic
hình thức)
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan, Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của
các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất có ở tất cả
các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó là đặc tính “tồn tại
với tư cách là thực tại khách quan”, tồn tại ở ngoài ý thức con người và độc lập với
ý thức. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản để phân biệt vật chất với cái không phải là
vật chất.
- Tính trừu tượng của phạm trù vật chất: Phạm trù vật chất khái quát đặc tính
chung nhất của mọi khách thể vật chất xét trong quan hệ với ý thức nên về hình
thức nó là cái trừu tượng. Vì thế, không được đồng nhất vật chất với các dạng cụ
thể của nó giống như quan niệm của các nhà duy vật trước Mác.
b. Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.
Trong phần này, Lênin đã giải quyết được những điều sau đây:
- Thứ nhất, Lênin đã giải quyết được mối quan hệ giữa tính trừu tượng và
tính hiện thực cụ thể cảm tính của phạm trù vật chất. Vật chất không phải tồn tại vô
hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện thực, được biểu hiện cụ thể dưới dạng các sự
vật, hiện tượng cụ thể mà các giác quan của chúng ta có thể nhận biết một cách
trực tiếp hay gián tiếp.
- Thứ hai, Lênin đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học
trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thực tại khách quan đưa lại cảm
giác cho con người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan.
Điều đó có nghĩa là, vật chất là cái có trước và đóng vai trò quyết định, nội dung
khách quan của ý thức.
c. Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
15
Đến đây, Lênin đã khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được
thế giới hiện thực khách quan. Tức là Lênin đã giải quyết được mặt thứ hai của vấn
đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
- Giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường
chủ nghĩa duy vật và biện chứng.
- Khắc phục được những quan niệm trực quan, siêu hình, máy móc về vật
chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác và những biến tướng của nó trong trào lưu
triết học tư sản hiện đại.
- Chống lại tất cả các quan điểm duy tâm và tạo ra căn cứ vững chắc để
nghiên cứu xã hội.
- Khẳng định thế giới vật chất là khách quan và vô cùng, vô tận, luôn luôn
vận động và phát triển không ngừng nên nó đã có tác dụng định hướng, cổ vũ các
nhà khoa học khi sâu vào nghiên cứu thế giới vật chất, để ngày càng làm phong
phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Câu 6: Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức?
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của
quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử-xã hội. Do đó, muốn hiểu được nguồn gốc
và bản chất của ý thức, cần phải xem xét trên cả mặt tự nhiên và xã hội.
I. Nguồn gốc ý thức:
1. Nguồn gốc tự nhiên:
a. Ý thức là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ
não người.
- Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ lại,
tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác
16
và ngược lại. Nó được thực hiện trong sự tác động qua lại giữa các hệ thống vật
chất.
- Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Phản ánh của giới vô sinh. Phản ánh này đơn giản, thụ động, không có
chọn lọc.
+ Trên cơ sở phản ánh của thế giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh
mới cao hơn về chất, đó là phản ánh của giới hữu sinh. Hình thức phản ánh này
gắn liền với quá trình chuyển hóa từ giới vô sinh qua giới hữu sinh. Hình thức này
có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao: kích thích, cảm ứng, tâm lý sơ cấp
của động vật và cùng với quá trình vượn biến thành người, phản ánh của động vật
cấp cao chuyển hóa thành phản ánh ý thức của con người.
Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hóa càng cao thì sự
phản ánh càng cao; ý thức chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ
chức cao là bộ não của con người, chứ không phải với mọi dạng vật chất; ý thức
chỉ là thuộc tính phản ánh của vật chất, do đó, không được đồng nhất vật chất với ý
thức và cũng không được tách ý thức ra khỏi vật chất.
b. Khách thể vật chất bên ngoài
Bộ não con người với tư cách là hệ thống phản ánh. Vì vậy, muốn có ý thức
thì phải có sự tác động của khách thể vật chất bên ngoài vào bộ não của con người.
Thế nhưng, tại sao con vật cũng có sự tác động của khách thể vật chất bên
ngoài lên bộ não của nó mà lại không có ý thức? Sở dĩ như vậy là vì khác với tâm
lý động vật, ý thức con người ngoài nguồn gốc tự nhiên còn có nguồn gốc xã hội.
2. Nguồn gốc xã hội.
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ
não con người dưới ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ.
a. Lao động:
17
- Lao động là phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người, là hoạt
động đặc thù của con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác.
+ Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử
dụng các công cụ đó để tạo ra của cải vật chất.
+ Lao động là hành động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan
nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một
cách tích cực, chủ động và sáng tạo.
- Trong quá trình lao động, bộ não con người phát triển và ngày càng hoàn
thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát
triển.
- Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau,
làm nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát
triển cùng với lao động.
b. Ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là “vỏ vật chất” của tư duy, là
phương tiện, là công cụ để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh khái quát sự
vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi chúng giữa các thế hệ.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội, do đó, nếu không có ngôn ngữ thì ý thức
không thể hình thành và phát triển được.
- Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: “Sau lao động, đồng thời
với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ
não của loài vật thành bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức”
(Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, NXB Sự thật, Hà Nội,1974, tr. 257)
II. Bản chất của ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh thế
giới khách quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của
ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo, tích
18
cực và chủ động về thế giới khách quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ bản của ý
thức con người so với tâm lý động vật và sự “suy nghĩ” của máy móc.
Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy
định. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ
và theo tính chất của quy luật phản ánh.
Con người khác với động vật là thông qua hoạt động thực tiễn có mục đích,
có định hướng, tác động vào sự vật, hiện tượng trong thế giới, buộc chúng phải bộc
lộ đặc tính, kết cấu, quy luật lao động để phản ánh và nhận thức. Khi con người
nhận thức được quy luật, thì con người vận dụng tri thức đó vào việc cải biến thế
giới khách quan nhằm phục vụ cho cuộc sống của mình.
Câu 7: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về vận động của
vật chất.
a. Vận động là gì?
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến
đổi nói chung.
b. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà nó
biểu hiện sự tồn tại của mình. Nói cách khác, không thể có vật chất mà không có
vận động.
Vận động của vật chất là tự thân vận động. Vật chất không do ai sáng tạo ra
và nó không thể bị tiêu diệt, mà vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên
vận động cũng không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Nếu một hình thức
vận động nào đó của một sự vật nhất định mất đi thì tất yếu sẽ nảy sinh một hình
thức vận động khác thay thế, nghĩa là các hình thức vận động của vật chất chỉ
chuyển hóa lẫn nhau mà thôi, chứ vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng
với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
c. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất:
19
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân
chia vận động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động lý học, vận
động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội. Vận động xã hội là hình thức
có trình độ cao nhất.
Mỗi hình thức vận động nói trên, có trình độ cao thấp khác nhau. Do đó,
chúng ta sẽ phạm sai lầm nếu quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động
thấp và ngược lại.
Tuy có sự khác nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận động có sự liên
hệ, tác động chuyển hóa qua lại. Thông qua sự liên hệ, chuyển hóa phổ biến của
mọi hình thức vận động trong vũ trụ mà vận động vật chất được bảo toàn.
Những dạng vật chất phức tạp như cơ thể sống, xã hội loài người bao hàm
nhiều hình thức vận động trong sự liên hệ tác động qua lại, nhưng bao giờ cũng
được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản xác định. Ví dụ, trong cơ thể
sống bao gồm các hình thức vận động cơ học, lý học, hóa học, sinh học, song hình
thức vận động sinh học là hình thức đặc trưng cơ bản quy định sự khác nhau giữa
cơ thể sống với những dạng vật chất khác.
d. Vận động và đứng im.
Trong khi coi vận động là thuộc tính bên trong vốn có của vật chất, chủ
nghĩa duy vật không phủ nhận sự đứng im, mà coi đứng im như một trường hợp
riêng của vận động. Không có đứng im tương đối thì không thể hình thành các sự
vật, hiện tượng riêng lẻ, cụ thể.
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Đứng im là tương đối bởi vì:
- Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định chứ không
phải trong mọi quan hệ cùng một lúc.
- Đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động trong một lúc nào đó,
chứ không phải đối với tất cả mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
20
- Đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động: vận động trong
thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, khi nó còn là nó mà chưa chuyển thành cái
khác.
- Vận động tuyệt đối. Do đó, nó làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng
biến đổi, làm cho sự đứng im tương đối luôn luôn bị phá vỡ. Đứng im chỉ là tạm
thời vì: vận động cá biệt có xu hướng trở thành cân bằng, vận động toàn bộ lại có
xu hướng phá vỡ sự cân bằng riêng biệt đó.
Tóm lại, vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời, vật
chất không thể nào tồn tại như thế nào khác ngoài cách vận động và vật chất đang
vận động đó không thể vận động như thế nào khác ngoài vận động trong không
gian và thời gian, vật chất vận động là vô tận nên không gian và thời gian vật chất
cũng vô tận.
Câu 8: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
Khi bàn đến vấn đề này, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
1. Vật chất có trước ý thức, sinh ra ý thức và quyết định ý thức:
- Vật chất tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào ý thức, còn ý thức là
thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao (bộ óc người).
- Vật chất là nguồn gốc, động lực và mục đích của ý thức.
- Trong đời sống xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy
vật biện chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại của ý thức đối với vật
chất.
2. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất.
- Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh tích cực, chủ động và sáng tạo.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn.
21
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai khuynh hướng:
+ Khi ý thức phản ánh đúng quy luật khách quan thì nó đóng vai trò thúc
đẩy sự vận động và phát triển của thế giới hiện thực khách quan. Trong trường hợp
này ý thức giúp cho con người xác định đúng đắn mục tiêu, phương hướng, biện
pháp tổ chức hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả.
+ Khi ý thức phản ánh không đúng quy luật khách quan thì lúc này nó sẽ
làm kìm hãm sự vận động và phát triển của những điều kiện vật chất nhất định.
Hiệu quả của sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thuộc vào các
điều kiện sau:
+ Những điều kiện vật chất cần thiết cho ý thức đó thực hiện.
+ Trình độ phản ánh của ý thức đó đối với vật chất, nếu ý thức phản ánh
càng đầy đủ, càng chính xác bao nhiêu thì hiệu quả tác động của nó càng cao bấy
nhiêu.
+ Mức độ xâm nhập của ý thức đó vào trong quần chúng nhân dân, mức độ
xâm nhập của ý thức càng lớn thì hiệu quả tác động của nó càng cao.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nếu vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức; còn ý
thức là sản phẩm, là sự phản ánh thế giới khách quan thì trong nhận thức và hành
động, con người phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan, chống lại chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn. Do đó, cần phải phát huy tính tích cực của ý thức đối với vật chất
bằng cách nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận động
chúng vào trong hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh ý thức của con
người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất mà là biết dựa vào đó, phản ánh
đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan.
- Chúng ta phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ tiêu
cực, thụ động.
22
Xuất phát từ ý nghĩa đó, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những điều kiện cơ bản
để đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của mình là phải “luôn luôn xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1986, tr.30)
Câu 9: Phân tích nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và rút
ra ý nghĩa phương pháp luận
- Phép siêu hình không thừa nhận mối liên hệ phổ biến của thế giới. Theo
quan điểm này, sự vật hiện tượng trong thế giới về cơ bản không có sự liên hệ,
ràng buộc, quy định lẫn nhau. Cho nên đối với phép siêu hình, thế giới chỉ là một
tập hợp rời rạc các sự vật cô lập nhau. Cách nhìn ấy không cho phép chúng ta vạch
ra cái chung, cái bản chất và quy luật của các sự vật hiện tượng.
- Trái với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật thừa nhận mối liên
hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới và coi đó là nguyên lý cơ bản
của nó. Khái niệm liên hệ nói lên sự quy định, ảnh hưởng, ràng buộc, tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và quá trình. Phép biện chứng duy
vật phát biểu rằng: mọi sự vật, hiện tượng quá trình muôn vẻ trong thế giới đều tồn
tại trong mối liên hệ phổ biến với nhau, không có cái gì tồn tại biệt lập với cái
khác. Điều đó là dễ hiểu, vì vật chất tồn tại thông qua vận động, mà vận động cũng
là liên hệ. Ăngghen viết: “tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được, là
một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau… Việc các vật thể có
liên hệ qua lại với nhau đã có ý nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác
động qua lại ấy chính là sự vận động”.
Như vậy phép biện chứng duy vật thừa nhận liên hệ diễn ra trong mọi lĩnh
vực, mọi sự vật và quá trình của hiện thực, nó có tính khách quan, xuất phát từ tính
thống nhất vật chất của thế giới. Phép biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, liên hệ
của thế giới rất đa dạng, bởi thế giới bao gồm vô số sự vật hiện tượng muôn vẻ
khác nhau. Tùy theo tính chất, vai trò, phạm vi của liên hệ mà người ta phân thành
nhiều loại: liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài, liên hệ cơ bản và không cơ bản,
23
liên hệ không gian và thời gian, liên hệ trực tiếp và gián tiếp… Sự phân loại các
liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì mỗi loại liên hệ chỉ là một hình thức,
một bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến của thế giới xét như một
chỉnh thể. Tuy nhiên, sự phân loại các liên hệ là cần thiết, vì rằng vị trí của từng
mối liên hệ trong việc quy định sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng
không như nhau.
Sự phân loại các liên hệ còn là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu của
phép biện chứng duy vật và của các ngành khoa học cụ thể. Những hình thức riêng
biệt, cụ thể của từng mối liên hệ thuộc phạm vi nghiên cứu của từng ngành khoa
học cụ thể, còn phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất,
phổ biến nhất của thế giới. Vì thế, Ăngghen viết: “phép biện chứng là khoa học về
mối liên hệ phổ biến”.
- Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa phương pháp
luận to lớn đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nếu các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ
biến và nhiều vẻ, thì muốn nhận thức và tác động vào chúng, phải có quan điểm
toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện, một chiều. Quan điểm toàn diện đòi
hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó trong mối liên hệ với sự vật hiện
tượng khác; phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, kể cả khâu trung gian, gián
tiếp của chúng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới nắm bắt được một cách đầy đủ bản
chất của sự vật, tránh được những kết luận phiến diện chủ quan, vội vàng.
Tuy nhiên quan điểm toàn diện không có nghĩa là cách xem xét cào bằng,
tràn lan mà phải thấy được tính chất, vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu
tố trong tổng thể của chúng. Như vậy, quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch
sử cụ thể. Quan điểm này đòi hỏi, phải xét sự vật trong từng liên hệ cụ thể của nó,
gắn với những tính chất, vị trí cụ thể của mối liên hệ cụ thể đó; phải biết phân loại
các liên hệ của sự vật để nắm lấy cái cơ bản, cái có tính quy luật của nó; đồng thời
phải xét cả những điều kiện cụ thể của sự vật trong đó xuất hiện từng liên hệ quy
24
định từng tính chất và xu hướng cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra những phương
thức cụ thể để tác động đến sự vật.
Câu 10: Phân tích nội dung của nguyên lý về sự phát triển và rút ra ý
nghĩa phương pháp luận
- Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống
nhất hữu cơ với nguyên lý về sự phát triển, bởi vì liên hệ tức là vận động, mà
không có vận động thì không có sự phát triển. Nhưng “vận động” và “phát triển” là
hai khái niệm khác nhau. Khái niệm “vận động” khái quát mọi sự biến đổi nói
chung, không tính đến xu hướng và kết quả của những biến đổi ấy như thế nào. Sự
vận động diễn ra không ngừng trong thế giới và có nhiều xu hướng.
Khái niệm “phát triển” không khái quát mọi sự biến đổi nói chung; nó chỉ là
khái quát những vận động đi lên, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Tiêu chuẩn để
xác định sự phát triển là có xuất hiện “cái mới” trong những biến đổi của sự vật
hiện tượng. Sự phát triển trong thế giới theo các chiều hướng cơ bản sau: phát triển
về trình độ (từ thấp đến cao), phát triển về cấu trúc (từ đơn giản đến phức tạp),
phát triển về bản chất (từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn). Sự phân biệt đó về
các chiều hướng chỉ là tương đối, một sự phát triển thường bao hàm cả các chiều
hướng này.
- Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng sự phát triển, đổi mới là hiện
tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy, mà nguồn
gốc của nó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật và hiện
tượng. Nhưng không nên hiểu sự phát triển bao giờ cũng diễn ra một cách đơn
giản, theo đường thẳng. Xét từng trường hợp cá biệt, thì có những vận động đi lên,
tuần hoàn, thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá trình, trong phạm vi rộng lớn thì
vận động đi lên là khuynh hướng thống trị. Khái quát tình hình trên đây, phép biện
chứng duy vật khẳng định rằng, phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động
của sự vật và hiện tượng.
25