Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

bước đầu tìm hiểu khả năng nhân giống và gây trồng cây nhân trần núi tại vùng đất cát nội đồng huyện quảng điền tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
Khoa Lâm nghiệp
KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Bước đầu tìm hiểu khả năng nhân giống và gây trồng cây
nhân trần núi tại vùng đất cát nội đồng huyện Quảng Điền
tỉnh Thừa Thiên Huế
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Văn Sang
Lớp : QLR44B
Thời gian thực hiện : 10/01/2014 - 04/05/2014
Địa điểm thực hiện : Xã Quảng Lợi, Huyện Quảng Điền,
Thừa Thiên Huế
Giáo viên hướng dẫn : TS. Trần Nam Thắng
Bộ môn : Quản lý tài nguyên rừng và môi trường
NĂM 2014
Lời Cảm Ơn
Trong quá trình thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp Đại
học chuyên ngành Quản lý Tài nguyên Rừng và Môi trường, tôi xin
gởi lời cảm ơn chân thành đến:
Các thầy, cô giáo khoa Lâm nghiệp, trường Đại học Nông Lâm
Huế đã tận tình giảng dạy, truyền thụ cho tôi những kiến thức bổ ích
trong suốt thời kì học tập tại trường. Với vốn kiến thức được tiếp thu
trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu
khóa luận mà còn là hành trang quý báu để tôi bước vào đời một cách
vững chắc và tự tin.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến: Thầy giáo Ts.Trần Nam
Thắng ,và thầy giáo Ts. Trần Minh Đức người đã tận tình hướng dẫn,
trực tiếp, dẫn dắt tôi trong suốt thời gian thực tập và hoàn chỉnh khóa
luận này.
Cảm ơn chân thành đến quý cơ quan: Hạt Kiểm lâm huyện Quảng


Điền, UBND Huyện Quảng Điền, và cộng đồng dân cư của địa
phương xã Quảng Lợi, Quảng Vinh, Quảng Thái đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian thực tập.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn đặc biệt đến gia đình, người thân và
các bạn sinh viên lớp QLR 44.B đã luôn động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên trong quá trình hoàn
thành khóa luận không thể tránh khỏi những sai sót. Kính mong sự
góp ý xây dựng của quý Thầy, cô giáo, các bạn sinh viên để khóa luận
của tôi được hoàn thiện hơn.
Huế, tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Văn Sang
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐH Đại học
GS.TS Giáo sư Tiến sĩ
IUCN Hiệp hội Bảo tồn thế giới
PTPS Phân tích phương sai
SGPT Men gan
SV Sinh viên
TPCN Thực phẩm chức năng
TTHuế Thừa Thiên Huế
VBTCT Vườn bảo tồn cây thuốc
WHO Tổ chức Y tế thế giới
WWF Quỹ hoang dã thế giới
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một quốc gia có kho tang tài nguyên cây thuốc phong phú và
đa dạng. Trong tổng số 12000 loài thực vật của Việt Nam thì nguồn tài nguyên
cây thuốc chiếm khoảng 30%. Kết qủa cho biết ở Việt Nam có 3.948 loài thực
vật bậc cao, bậc thấp và nấm lớn được dung làm thuốc. Hiện nay trên phạm vi
toàn quốc hiện có 730 giống cây thuốc được bảo tồn. Tuy nhiên một số loài cây
thuốc có giá trị kinh tế và chữa bệnh cao như ngũ gia bì, vàng đắng, ba kích, bình
vôi, nhân trần… trước kia vẫn còn khá phong phú nhưng đến nay bị suy giảm
nghiêm trọng. Nguyên nhân là do chúng ta khai thác một cách ồ ạt, không có kế
hoạch và chưa chú ý đến tái sinh, bảo vệ rừng làm nguồn cây thuốc ở Việt Nam
bị tàn phá nhanh và sớm cạn kiệt. Theo Viện Dược liệu, Bộ Y tế, hiện ở Việt
Nam có khoảng 600 loài cây thuốc quý hiếm đang có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Hiện nay, ở Thừa Thiên Huế vấn đề khai thác và sử dụng cây thuốc nam
rất nhiều và phổ biến như cây nhân trần, kim tiền thảo,…, vì khai thác quá
nhiều mà không có giải pháp tái sinh, phát triển nguồn dược liệu nên trong
tương lai có khả năng sẽ thiếu hụt nguồn dược liệu đặc biệt là nhân trần.
Do vậy việc phát triển cây dược liệu thông qua phục hồi và gây trồng là
một vấn đề tất yếu trong tương lai, nhằm bảo tồn và phát triển cây thuốc dân tộc
cổ truyền Việt Nam, thỏa mãn nhu cầu sử dụng của người dân, đồng thời tạo
thêm sinh kế cho người dân địa phương.
Trước đây đã có một số nghiên cứu liên quan đến cây nhân trần và đã
nghiên cứu thành công, cụ thể như là nghiên cứu của Tác giả Phan Thanh Hiền
(SV Trường ĐH Nông Lâm Huế) về đặc điểm hình thái, sinh trưởng của một số
loài và xuất xứ nhân trần sưu tập được tại thành phố Huế. Theo nghiên cứu của
Tác giả Phan Thanh Hiền thì ở tỉnh Thừa Thiên Huế có 2 loài nhân trần: nhân
trần núi (Adenosma cearulea R.Br) và nhân trần cát (Andenosma indiana
(Lour.) Merr).
Hiện nay trên thị trường Thừa Thiên Huế cây dược liệu nhân trần được thu
mua ngày càng nhiều và được sử dụng khá phổ biến. Nhận thấy được nhu cầu
của thị trường, đồng thời thấy được tiềm năng về phát triển cây thuốc ở huyện

vùng cát Quảng Điền, vì Quảng Điền có nhiều loài cây dược liệu ở ngoài tự
8
nhiên, nguồn tài nguyên đất đai chưa được khai thác hết và có tiềm năng để
phát triển kinh tế nhờ cây thuốc.
Xuất phát từ những thực tế đó chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu:
“Bước đầu tìm hiểu khả năng nhân giống và gây trồng cây nhân trần núi tại
vùng đất cát nội đồng huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế ”.
9
PHẦN II
TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về cây thuốc trên thế giới
2.1.1. Giá trị sử dụng và tầm quan trọng của cây thuốc đối với đời sống con người
Theo Ban Thư ký Công ước về đa dạng sinh học, doanh số toàn cầu của
các sản phẩm dược thảo ước tính tổng cộng có đến 80 tỷ USD vào năm 2002 và
chủ yếu ở thị trường Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Á.
Vì vậy quốc gia nào cũng có chương trình điều tra nguồn tài nguyên dược
liệu trong kế hoạch bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học của đất nước mình.
Đối với những nước vốn có nền y học cổ truyền như Trung Quốc, Ấn Độ và các
nước thuộc khu vực Đông Nam Á vẫn thường xuyên có những kế hoạch điều tra
và tái điều tra với các quy mô, phạm vi và mục tiêu khác nhau.
2.1.2. Hiện trạng tài nguyên cây thuốc trên thế giới
Thế giới ngày nay có hơn 35.000 loài thực vật được dùng làm thuốc.
Khoảng 2.500 cây thuốc được buôn bán trên thế giới. Có ít nhất 2.000 cây thuốc
được sử dụng ở châu Âu, nhiều nhất ở Đức - 1.543 loài. Ở Châu Á có 1.700 loài
ở Ấn Độ, 5.000 loài ở Trung Quốc. Trong đó, có đến 90% thảo dược thu hái
hoang dại. Do đòi hỏi phát triển nhanh hơn sự gia tăng sản lượng, các nguồn cây
thuốc tự nhiên bị tàn phá đến mức không thể cưỡng lại được, ước tính có đến
50% số loài đã bị thu hái cạn kiệt. Hiện nay, chỉ có vài trăm loài được trồng, 20-
50 loài ở Ấn Độ, 100-250 loài ở Trung Quốc, 40 ở Hungari, 130-140 ở Châu Âu.
Những phương pháp trồng truyền thống đang dần được thay thế bởi các phương

pháp công nghiệp ảnh hưởng tai hại đến chất lượng của nguồn nguyên liệu này.
May thay, những vấn đề này đã được cộng đồng thế giới quan tâm. Năm
1993, WHO (Tổ chức Y tế thế giới), IUCN (Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và Tài
nguyên thiên nhiên Quốc tế ) và WWF (Quỹ hoang dã thế giới) ban hành các
hướng dẫn cho việc bảo vệ và sự khai thác cây thuốc được cân bằng với sự cam
kết của các tổ chức.
Thấy được tầm quan trọng của việc phải bảo tồn và phát triển nguồn tài
nguyên cây thuốc, và đáp ứng lời kêu gọi của các tổ chức trên, rất nhiều nước trong
đó có các nước đang phát triển với những điều kiện kinh tế xã hội gần tương đồng
với nước ta cũng đã xây dựng những Vườn bảo tồn cây thuốc (VBTCT) là các
10
quốc gia như: Guatemala, Nepal, Trung Quốc và Ần Độ, Ai Cập, Nam Phi
(Ricupero, R. (1998), "Biodiversity as an engine of trade and sustainable
development". POEMA tropic, No. 1, January-July, pp. 9-13).
Một ví dụ: đó là vườn Bảo tồn cây thuốc Pichandikulam ở vùng ven biển
phía Nam của Ấn Độ. Nơi tập hợp của 440 loài thực vật trong đó có gần 340 cây
thuốc. Trong VBTCT có một trung tâm trong đó có nhà bảo tàng trưng bày hình
ảnh, mẫu vật của 240 loài cây thuốc, thư viện sách tham khảo, tài liệu nghiên
cứu, cơ sở dữ liệu về cây thuốc lưu trên máy tính. Trung tâm này là nơi giảng
dạy, tuyên truyền về bảo tồn nhân giống, cách sử dụng, trồng trọt, thu hái cây
thuốc. Một vườn ươm nhân giống các cây thuốc đang có nguy cơ tiệt chủng.
Một khu vực khác với gần 300 loài cây là nơi lưu giữ, bảo tồn (ngân hàng gen)
đồng thờiphục vụ cho mục đích tham quan, du lịch. Và cuối cùng là khu vực tập
trung khoảng 100 loài cây thuốc được trồng và thu hái cho nhu cầu chữa bệnh
của người dân.
2.1.3. Hoạt động bảo tồn cây thuốc trên thế giới
Trên phạm vi toàn thế giới, các Tổ chức cộng đồng đã có nhiều nỗ lực và hành
động chung nhằm bảo tồn đa dạng sinh học nói chung cũng như cây thuốc nói riêng.
Năm 1993, Tổ chức Y tế thế giới WHO đã phối hợp với Hiệp hội Bảo tồn
thế giới IUCN và Quỹ Thiên nhiên toàn thế giới WWF xuất bản cuốn tài liệu

“Hướng dẫn bảo tồn cây thuốc” (Guidelines on The Conservation of Medicinal
Plants) để các quốc gia vận dụng vào điều kiện riêng của mình triển khai công
tác bảo tồn cây thuốc. Hiện nay, ước tính có khoảng 2000 vườn thực vật trên
toàn thế giới, phần lớn nằm ở Tây Âu (500 vườn) và Bắc Mỹ (350 vườn). Châu
Á có khoảng 300 vườn thực vật, chủ yếu ở Trung Quốc và Ấn Độ. Có thể nêu ra
những khu vườn nổi tiếng dưới đây.
Vườn thuốc Chelsea (Anh). Vườn thuốc Chelsea do Hội Bào chế thuốc
thành lập năm 1673, với mục đích nghiên cứu giá trị các loại cây thuốc và tăng
cường nghiên cứu về thực vật ứng dụng trong y học. Trong suốt thế kỷ 17, nơi
đây trở thành một trong những trung tâm quan trọng nhất về thực vật và trao đổi
cây trên thế giới. Đây là vườn thực vật cổ nhất London và là vườn lâu đời thứ 2
ở nước Anh, nhưng vẫn đáp ứng đầy đủ chức năng nghiên cứu khoa học, bảo tồn
cây cỏ, giáo dục Năm 1876, vườn đã mở rộng quy mô đào tạo bằng cách tổ
chức các khóa học cho các phụ nữ trẻ, những người được đào tạo để trở thành
các giáo viên ngành thực vật. Năm 1983, vườn đã đăng ký là một tổ chức từ
thiện và là vườn cây thuốc đầu tiên mở ra công chúng. Vườn thuốc Chelsea
11
được ghi nhận đã xúc tiến thành công các hoạt động đào tạo, bảo tồn và nghiên
cứu khoa học. Vườn thuốc Chelsea cũng đã khởi xướng dự án Dược dân tộc học
với sự tham gia của Vườn thực vật hoàng gia Anh ở Kew, dự án Eden, Vườn
thực vật hoàng gia Edinburgh và Bảo tàng Lịch sử tự nhiên, cùng thu thập dữ
liệu về các bài thuốc từ cây cỏ đã được sử dụng lâu năm ở Anh.
Vườn thực vật Missouri (Hoa Kỳ). Được thành lập năm 1859, sứ mệnh
của vườn Misssouri là “Khám phá và chia sẻ tri thức về cây thuốc và môi trường
để giữ gìn và làm giàu cho cuộc sống”. Vườn là trung tâm nghiên cứu về thực
vật và khoa học, giáo dục, nằm biệt lập như một ốc đảo ở thành phố St. Louis,
bang Missouri của Hoa Kỳ. Vườn gồm 32 hécta khu trưng bày tuyệt đẹp, bao
gồm vườn đi dạo Nhật Bản, ngôi nhà cổ từ năm 1850 của Henry Shaw và bộ sưu
tập lớn nhất thế giới về các loài lan quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng. Vườn
thực vật Missouri có đội ngũ nhân viên lớn những người có bằng cấp cao tham

gia vào các hoạt động nghiên cứu khoa học và các chương trình bảo tồn ở 35
nước trên thế giới về bảo tồn và phát triển các loài cây có giá trị tiềm năng.
Vườn đã có những cam kết rất chặt chẽ về sử dụng có trách nhiệm và bền vững
tất cả các nguồn tài nguyên cây cỏ.
Vườn cây thuốc Quảng Tây (Trung Quốc). Vườn cây thuốc Quảng Tây
được thành lập năm 1959 trên diện tích 202 hécta. Đây là vườn cây thuốc lớn
nhất ở Trung Quốc, lưu giữ hơn 2.400 loài cây cỏ làm thuốc. Khu vườn được
chia thành 7 khu vực trưng bày, bao gồm: Các thảo dược đặc biệt ở Quảng Tây,
Y học điều trị, Khu thực vật dưới bóng, Khu cây gỗ, Khu cây cỏ, Khu dây leo và
Khu động vật làm thuốc.Vườn cây thuốc Quảng Tây có 141 cán bộ khoa học và
kỹ thuật viên, 30 chuyên gia cao cấp và 43 chuyên gia có trình độ. Nhiệm vụ
chính của vườn là: Hiện đại hóa thuốc y học cổ truyền; nghiên cứu, trồng trọt
cây thuốc; bảo tồn các loài cây thuốc hiếm và bị đe dọa có nguồn gốc từ Quảng
Tây; nghiên cứu kỹ thuật nhân giống, chọn lọc loài/giống có nguồn gốc xuất xứ
tốt; hỗ trợ kỹ thuật cho thực hành tốt trồng trọt cây thuốc theo tiêu chuẩn Quảng
Tây thông qua nghiên cứu dược liệu.
2.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam
2.2.1. Các nghiên cứu về cây thuốc Việt Nam
Cho đến nay, Việt Nam vẫn được đánh giá là nước có nguồn tài nguyên
sinh vật đa dạng và phong phú, có khoảng 10% số loài đặc hữu, được xếp thứ
16 trong 25 quốc gia có mức độ đa dạng sinh vật cao nhất thế giới. Riêng thực
vật bậc cao có mạch ở Việt Nam đã thống kê được 10.386 loài, thuộc 2.257 chi,
12
305 họ, chiếm khoảng 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và 57% tổng số họ của
thế giới. Theo các nhà phân loại thực vật, ở Việt Nam có khoảng 12.000 loài
thực vật bậc cao. Trong số này có 3.948 loài được dùng làm thuốc (Viện Dược
liệu, 2007), chiếm khoảng 37% số loài đã biết. Nếu so với khoảng 20.000 loài
cây làm thuốc đã biết trên thế giới (IUCN, 1992) thì số loài cây thuốc ở Việt
Nam chiếm khoảng 19%. Đó là chưa kể đến những cây thuốc gia truyền của 53
dân tộc thiểu số ở Việt Nam mà cho đến nay chúng ta mới chỉ biết được một

phần. Ngoài thực vật hoang dã, các nhà khoa học nông nghiệp đã thống kê
được 1.066 loài cây trồng, trong đó cũng có 179 loài cây làm thuốc (Đ.H.Dật,
2008).
Với một hệ thực vật như vậy, thành phần các loài cây thuốc cũng rất phong
phú và đa dạng. Chúng phân bố tập trung chủ yếu ở các trung tâm đa dạng sinh
vật, trong đó có khu vực dãy Trường Sơn. Cho đến nay, chúng ta chưa có danh
sách đầy đủ về số loài, sự phân bố và trữ lượng của cây thuốc ở khu vực rộng lớn
này. Các số liệu điều tra thực vật suốt thời gian qua còn nằm rải rác trong hồ sơ
của các cơ quan nghiên cứu, các Vườn quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên. Điều
này gây khó khăn cho việc đánh giá toàn diện giá trị của cây thuốc trong khu vực
dãy Trường Sơn, để phục vụ cho việc bảo tồn, khai thác bền vững và sử dụng hiệu
quả nguồn tài nguyên quý giá này.
Theo kết quả điều tra của Viện dược liệu trong thời gian 2002-2005, số
loài cây thuốc ở một số vùng núi trọng điểm thuộc các tỉnh gắn với dãy Trường
Sơn như sau: Đắc Lắk (751 loài), Gia Lai (783 loài), Kon Tum (841 loài), Lâm
Đồng (756 loài). Gần đây, Hội Đông y huyện M’Đrắc (tỉnh Đắc Lắk), đã phát hiện
tại vùng rừng núi của các xã Ea M’Đoan, Ea Mlay, Krông Á và Ea Trang có khá nhiều
loại cây thuốc phân bố khá tập trung như Thạch xương bồ (Acorus gramineus),
Thổ phục linh (Smilax glabra), Kim ngân (Lonicera spp.), Hoàng đằng (Fibraurea
recisa), Cốt toái bổ (Drynaria fortunei), Củ bình vôi (Stephania spp.), Cẩu tích
(Cibotium barometz), Riềng rừng (Alpinia sp.), Thiên niên kiện (Homalomena
occulta), vv. Ở khu vực Chư Yang Sin (huyện Krông Bông và Lắc), người ta cũng đã
phát hiện một số loài cây thuốc như Kê huyết đằng, Nhân trần (Adenosma
caeruleum), Ngũ gia bì chân chim (Schefflera spp.), Sa nhân (Amomum villosum),
Đảng sâm (Codonopsis javanica), Ba gạc hoa đỏ (Rauvolfia serpentina) và đặc biệt
cây Ngũ vị tử Ngọc Linh (Schisandra sphenanthera). Trong đó, một số loài có trữ
13
lượng khá lớn (Nhân trần). (Nguồn: Trần Công Khánh, Trung tâm nghiên cứu và
phát triển cây thuốc dân tộc cổ truyền (CREDEP), 13/11/2009).
2.2.2. Tình hình sử dụng cây thuốc ở Việt Nam

Từ trước đến nay, nhiều địa phương trong nước ta đã có truyền thống
trồng cây thuốc, như Quế (ở Yên Bái, Thanh Hoá, Quảng Nam, Quảng Ngãi…),
Hồi (ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu), Hoè (ở Thái Bình), vv Có
những làng chuyên trồng cây thuốc như Đại Yên (Hà Nội), Nghĩa Trai (Văn Lâm,
Hưng Yên). Gần đây, nhiều loài cây thuốc ngắn ngày cũng được trồng thành
công trên quy mô lớn như Ác ti sô, Bạc hà, Cúc hoa, Địa liền, Gấc, Hương nhu,
Ích năm 2002, tổng diện tích rừng có trồng Thảo quả ở Việt Nam là 1.626 ha.
Trong đó, riêng tỉnh Lào Cai có 1.500 ha. Trung bình, mỗi hecta trồng Thảo quả
cho 250 kg/năm; giá bán như hiện nay khoảng 60.000 đến 70.000 đ/kg, thì thu
được khoảng 15 - 17,5 triệu đồng/ha/năm. Thu nhập từ Thảo quả của một hộ gia
đình ở Bản Khoang vào khoảng 5.170.000 đồng/năm, tương đương 345 USD
(2001). Nguồn thu nhập này chiếm khoảng 50% tổng thu nhập của hộ. Đó cũng là
một khoản thu nhập đáng kể của người dân ở miền núi.
Theo tổng kết ở Sa Pa, thu nhập từ trồng cây thuốc đạt 14 - 24 triệu
đồng/ha/năm, trong khi thu nhập từ cây lương thực chỉ đạt 2,4 - 4,8 triệu
đồng/ha/năm [12].
Việc bảo tồn nguồn gen cây thuốc được tiến hành dưới hình thức bảo
tồn đa dạng sinh học tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn,
Với những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và khí hậu đã tạo nên mức độ
đa dạng sinh học về khu phân bố, chủng loại tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam.
Theo Trung tâm tài nguyên và môi trường (Đại học quốc gia Hà Nội) trong Tập I
“Danh lục các loài thực vật Việt Nam” (năm 2000) đã thống kê được 368 loài Vi
khuẩn lam, 2.200 loài Nấm, 2.176 loài Tảo, 481 loài Rêu, 1 loài Quyết lá thông, 51
loài Thông đất, 2 loài cỏ Tháp bút, 691 loài Dương xỉ và 69 loài Hạt trần; tập II
(năm 2003) thống kê được 184 họ, 1.114 chi, và 5.523 loài Thực vật hạt kín.
Từ 1997, Bộ Y tế hàng năm cấp kinh phí cho “Dự án Bảo tồn cây thuốc cổ
truyền” trong khuôn khổ “Chương trình hỗ trợ hoạt động của ngành”. Kết quả
của chương trình này đã ghi nhận tại một số địa phương nhiều loài cây thuốc
mới cùng với tri thức y học cổ truyền của đồng bào dân tộc.
14

Trong số tài nguyên thực vật làm thuốc Việt Nam đã thống kê, có 136 loài
thuộc 81 chi của 55 họ là những loài cây thuốc cần được bảo vệ. Đó là những
cây thuốc quý về giá trị sử dụng, giá trị nguồn gen do hiếm gặp hoặc đặc hữu;
giá trị sử dụng cao nên thường xuyên bị tìm kiếm khai thác; một số loài khác
tuy chưa bị khai thác nhưng thuộc nhóm có nguy cơ cao do số lượng cá thể ít.
Về tiêu chí xếp hạng nguy cấp, nhóm cực kỳ nguy cấp (CR) có 18 loài như Sâm
vũ diệp, Tam thất hoang, Hoàng liên, Thanh mộc hương,…; nhóm đang bị nguy
cấp (EN) có 42 loài như Hoàng liên gai, Hoàng tinh vòng, Bát giác liên,… và
nhóm sắp bị nguy cấp (VU) có đến 76 loài[13].
Cùng với sự phát triển của lịch sử, kinh nghiệm dân gian về sử dụng
thuốc ở Việt Nam ngày càng trở nên phong phú, hiệu nghiệm, gắn liền với tên
tuổi của nhiều vị danh y nổi tiếng như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông.
Tuệ Tĩnh đã viết nhiều sách thuốc và phương pháp chữa bệnh. Rất tiếc,
nhiều công trình quý giá của ông đã bị mai một, hiện chỉ còn sót lại hai bộ Nam
dược thần hiệu đề cập đến 496 vị thuốc nam và bộ Hồng Nghĩa giác tư y thư
gồm 600 vị thuốc ở Việt Nam và cách sử dụng.
Kế thừa Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh vào thế kỷ XVII Lê Hữu Trác
(Hải Thượng Lãn Ông) đã bổ sung thêm 329 vị thuốc nam nữa làm thành bộ
sách "Lĩnh nam bản thảo". Với sự nghiệp y học vĩ đại, Tuệ Tĩnh và Hải Thượng
Lãn Ông đã được người đời nay tôn vinh và những "ông tổ" của nền y dược
học Việt Nam.
Sau Hải Thượng Lãn Ông, từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 19, dưới triều vua
Quang Trung và triều Nguyễn cũng đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu
về cây thuốc Việt Nam, trong đó, hiện còn lưu lại được những cuốn như Nam
dược và Nam dược chỉ danh truyền của Nguyễn Quang Tuân đã ghi chép tỷ mỉ
về 500 vị thuốc nam theo kinh nghiệm dân gian, hoặc cuốn Nam dược tập
nghiệm quốc âm của Nguyễn Quang Lượng, hay Nam thiên đức bảo toàn thư
của Lưu Ðức Huệ, v.v
Với chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa y học hiện đại và y học cổ truyền
của dân tộc, đặc biệt là tri thức bản địa của các cộng đồng người dân tộc trong

sử dụng cây cỏ làm thuốc bồi bổ cơ thể và thuốc chữa bệnh, ngay sau hòa bình
lập lại ở miền Bắc (1954) và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975),
chúng ta đã có nhiều nỗ lực, đầu tư điều tra, nghiên cứu về tài nguyên cây
thuốc nhằm khai thác, sử dụng phục vụ sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân
15
dân.
Trước đó, vào năm 1952, các nhà thực vật học và tài nguyên thực vật học
Pháp cho biết, trên bán đảo Ðông Dương có 1.350 loài cây thuốc thuộc 160 họ.
Hiện nay, theo Võ Văn Chi, con số này đã lên tới gần 3.200 loài thuộc 1.200 chi
của trên 300 họ, nghĩa là hầu hết các họ trong hệ thực vật Việt Nam, ít hoặc
nhiều đều có một số loài có thể sử dụng làm thuốc. Tuyệt đại đa số các loài là
cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm lâu đời của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Từ năm 1960 đến nay, hàng năm có tới hơn 200 loài cây thuốc được
thương mại hóa. Chúng được khai thác từ nguồn tự nhiên hay trồng trọt với
khối lượng lên tới 100.000 tấn/năm. Một số địa phương như Phú Thọ, Vĩnh
Phúc những năm trước đây thường xuyên thu mua 10 loại dược liệu là Ba kích,
Sa nhân, Thiên niên kiện, Ngũ gia bì, Chân chim, Lạc tiên, Thổ phục linh, Dạ
cẩm, Thảo quyết minh, Ích mẫu, Nhân trần, Bồ bồ. Nhiều trong số các loài cây
thuốc vừa nêu, không chỉ phục vụ nhu cầu địa phương, trung ương mà còn xuất
khẩu qua Trung Quốc.
Không chỉ đáp ứng nhu cầu dược liệu từ nguồn cây thuốc trong nước,
hằng năm nhiều loại dược liệu và tinh dầu quý như Sa nhân, Thảo quả, Quế,
Hồi, Ba kích, Sả, Hương nhu, Bạc hà, Màng tang, v.v thường xuyên được xuất
khẩu với giá trị từ 30-50 triệu USD/năm [13].
Cho dù con số thống kê về số loài cây thuốc, số lượng dược liệu được
khai thác hàng năm cũng như giá trị kinh tế do nguồn cây thuốc mang lại chưa
thật chính xác, nhưng rõ ràng ở nước ta cây thuốc đã có một vị trí hết sức quan
trọng trong việc cung cấp thuốc chữa bệnh cho nhân dân (nhất là đồng bào các
dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa), đặc biệt là trong những năm chiến tranh

chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Hiện nay, xu hướng sử dụng cây thuốc chữa bệnh theo y học dân tộc cổ
truyền ở Việt Nam đang ngày càng được nhiều tầng lớp nhân dân tin dùng.
Ðảng, Nhà nước, Chính phủ cũng rất quan tâm. Mặc dù vậy, việc sưu tầm
những kinh nghiệm dân gian trong sử dụng cây thuốc phục vụ cuộc sống con
người chưa được tiến hành có hệ thống, nhiều bài thuốc hay, nhiều cây thuốc
quý có thể đã bị thất truyền. Sự thất truyền cũng dễ xảy ra khi những người
biết cây thuốc không chịu truyền cho người khác, ngay cả cho con cháu trong
16
dòng họ.
Hiện đã tập hợp được 39.381 bài thuốc kinh nghiệm dân gian gia truyền
của 12.531 lương y. Nhiều dược phẩm được phát triển gần đây dựa trên tri
thức sử dụng của cộng đồng như Ampelop, dựa trên tri thức sử dụng cây Chè
dây (Ampelopsis cantoniensis Hook. Et Arn.) để chữa bệnh của người Tày ở Cao
Bằng; cây Tật lê (Tribulus terrestris L.), dựa trên tri thức sử dụng của người
Chăm, vv. Trong các nền y học nhân dân, mỗi cộng đồng miền núi (cấp xã)
thường biết sử dụng từ 300 - 500 loài cây cỏ sẵn có trong khu vực để làm
thuốc. Mỗi gia đình biết sử dụng từ vài đến vài chục cây để chữa các chứng
bệnh thông thường ở cộng đồng đó. Mỗi cộng đồng thường có 2 - 5 thầy Lang
có kinh nghiệm sử dụng và sử dụng số loài nhiều hơn.
Từ nhiều năm nay, nhất là những năm gần đây, trong cơ chế thị trường,
rất nhiều loài cây thuốc quý của nước ta đã bị khai thác quá mức, bán bừa bãi
ra nước ngoài. Người dân miền núi, những chủ nhân của các nguồn tài nguyên
đó chẳng những không được hưởng lợi một cách xứng đáng, mà ngay cả những
hiểu biết có tính gia truyền - những tri thức bản địa của họ cũng bị xâm phạm.
Nếu so với toàn bộ nguồn tài nguyên thực vật ở Việt Nam thì cây thuốc là
nhóm bị đe dọa gay gắt nhất. Ðối chiếu với "Sách Ðỏ Việt Nam" tập II - Phần
thực vật, 1996, số loài cây thuốc đang có nguy cơ tuyệt chủng hoặc sắp bị đe
dọa tuyệt chủng cũng chiếm tỷ lệ khá cao.
Năm 1962, GS Đỗ Tất Lợi đã cho công bố bộ sách Những cây thuốc và vị

thuốc Việt Nam (hay Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam). Đây là một bộ
sách lớn, lần xuất bản đầu tiên (1962-1965) được in 10.000 cuốn, chia làm 6
tập, tổng cộng dày 1.494 trang và được tái bản nhiều lần. Bộ sách đã giới thiệu
hơn 750 vị thuốc, gồm 164 cây thuốc, 77 vị thuốc động vật, 20 vị thuốc khoáng
vật. Mỗi loại đều có tên khoa học, tên tiếng Việt và tên chữ Hán, những đặc
tính chung, mô tả quá trình phân phối, thu hoạch, chế biến, thành phần hoá
học và công dụng, liều dùng. Cuốn sách bao gồm cả những loại thuốc mà các
nhà khoa học đã xác minh cơ chế, lẫn cả những loại được kiểm chứng hiệu
nghiệm trong thực tế nhưng vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng.
GS.TS Võ Văn Chi là tác giả và đồng tác giả của hàng loạt tác phẩm như:
Từ điển Cây thuốc Việt Nam (NXB Y học - 1997) giới thiệu hơn 3.000 cây thuốc,
Từ điển Thực vật và khoáng vật làm thuốc Việt Nam (NXB Y học - 1998), Từ
17
điển Thực vật thông dụng (2 tập, NXB Khoa học - 2003, 2004), Cây cỏ có ích ở
Việt Nam (NXB Giáo dục, 1999 - 2001), Sách tra cứu tên cây cỏ Việt Nam (NXB
Giáo dục, 2007), Cây rừng chữa bệnh, Hệ cây thuốc Tây Nguyên, Cây thuốc
Đồng Tháp Mười và cách dùng để trị bệnh thông thường, Cây rau làm thuốc,
Rắn làm thuốc và điều trị rắn cắn, 200 cây thuốc thông dụng, Từ điển động vật
và khoáng vật làm thuốc Việt Nam
Tác giả cũng đã xây dựng và xuất bản cuốn Dược liệu Việt Nam (1969 -
1972) gồm 341 dược liệu trong nước, 74 dược liệu nhập ngoại, 3 chuyên luận
chung về trồng cây thuốc, chế biến, bào chế, bảo quản thuốc cổ truyền dân tộc.
Trong bước này đã thống nhất chọn tên chính, tên khoa học, tên khác của cây
thuốc hoặc bộ phận dùng làm thuốc, mô tả, hình vẽ bộ phận dùng của dược
liệu, tính vị, công dụng, liều dùng, cách dùng Cuốn Dược liệu Việt Nam đã
được xuất bản 2 lần, lần thứ nhất là 5.000 cuốn và lần thứ hai là 12.000 cuốn.
Trần Công Khánh với công trình "150 loài cây thuốc độc ở Việt Nam" đã
mô tả đặc điểm nhận biết để phân biệt các loài cây độc này cũng như đặc điểm
phân bố và khả năng sử dụng chúng trong vấn đề chữa bệnh hay làm thuốc trừ
sâu bệnh hại cho cây trồng.

Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Diệp (1998) với công trình “Góp phần điều tra
cây thuốc của người Dao ở Vườn quốc gia Ba Vì” đã đưa ra được danh lục một
số loài cây thuốc chủ yếu mà người Dao thu hái, nhưng chủ yếu là tên địa
phương và tác giả đã đi sâu phân tích quy trình chế biến thuốc từ vật liệu là cây
rừng đã thu được.
Trần Văn Ơn (1999) đã đưa ra kết quả tổ chức chọn lọc một số hộ tham gia
sưu tầm hom giống cây thuốc từ rừng về ươm tại nhà với sự hỗ trợ của dự án cây
thuốc (Báo cáo về “Thử nghiệm nhân giống cây thuốc bằng hom tại Ba Vì”)
Trần Khắc Bảo (1994) trong “Phát triển cây dược liệu ở Lào Cai và Hà
Giang” đã đề cập đến các vấn đề về chế biến, bảo quản và phát triển cây thuốc ở
địa bàn nghiên cứu.
Mai Văn Phô, Lê thị Hồng Nguyệt (2001) và Trần Thiện Ân, Huỳnh Văn
Kéo (2005) đã tiến hành nghiên cứu về kiến thức bản địa trong việc sử dụng tài
nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc Cơtu và dân tộc Mường tại vùng đệm
VQG Bạch Mã thuộc hai huyện Nam Đông và Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Mới đây tại Thừa Thiên Huế đã phát hiện 130 loài thuốc nam có giá trị.
Đây là kết quả nghiên cứu của Trường Đại học Nông Lâm Huế trong quá trình
18
triển khai mô hình phát triển cây thuốc nam trên đất rừng được giao tại huyện
Nam Đông, thuộc vùng đệm Vườn Quốc gia Bạch Mã. Tuy nhiên, người dân địa
phương hiện mới chỉ biết sử dụng 62 loài làm dược liệu[10]. Nhằm bảo tồn và
phát huy nguồn dược liệu có giá trị phục vụ chữa bệnh tại chỗ, sử dụng làm hàng
hóa và nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Nông Lâm Huế bước đầu chọn 28
hộ gia đình có vườn, rừng thuộc xã Hương Phú (Nam Đông) để phát triển mô
hình, gắn với mục đích nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân vùng
núi.
Năm 2006, nhóm tác giả Lê Thị Diên, Trần Minh Đức, Đỗ Xuân Cẩm,
Dương Viết Tình, Nguyễn Viết Tuân ở Khoa Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông
Lâm Huế biên soạn cuốn sách “Kỹ thuật gây trồng và bảo tồn một số loài cây
thuốc nam” nhằm bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu, cung cấp cho người

dân những thông tin về đặc điểm nhận biết, kỹ thuật gây trồng cũng như sơ chế
một số loài cây thuốc Nam có giá trị kinh tế, giúp người dân nâng cao thu nhập
từ rừng.
2.2.3. Hiện trạng tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam
Là một trong những quốc gia có nguồn tài nguyên cây thuốc rất phong
phú và đa dạng nhưng Việt Nam lại đang phải đối mặt với tình trạng suy giảm
trầm trọng nguồn dược liệu do hoạt động khai thác và buôn bán tự phát tại nhiều
địa phương. Điều đáng ngại hơn cả là tình trạng nhiều thương lái trong và ngoài
nước lợi dụng sự thiếu hiểu biết của bà con ở vùng sâu, vùng xa để thu gom và
bán số lượng lớn cây thuốc qua biên giới với giá rẻ mạt. Hoạt động này không
chỉ đơn thuần làm cạn kiệt nguồn tài nguyên vốn dồi dào mà còn làm mất đi
nhiều giá trị tri thức bản địa quý giá, gây thiệt hại lớn về kinh tế đối với quốc gia
và địa phương.
Theo tài liệu từ Viện Dược liệu Trung ương, Bộ Y tế, hiện chúng ta đã
phát hiện được hơn 3.900 loài cây thuốc, trong đó có 144 loài cây thuốc quý
hiếm được đưa vào Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam, nhiều loài đồng thời còn
được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam. Đặc biệt có một số loài được ghi trong Nghị
định số 32/2006/CP của Chính phủ như: Bắc xanh, Pơmu, Du sam núi đá, Thông
đỏ Bắc, Sa mộc dầu, các loài Tế tân, Tam thát hoang, Vù hương, Hoàng đằng,
Thổ Hoàng Liên…
Tuy nhiên, “nguồn “vàng xanh” của chúng ta ngày càng bị thất thoát và có
nguy cơ cạn kiệt. Chỉ tính riêng tại một số điểm giáp biên thuộc tỉnh Cao Bằng,
19
mỗi năm có ít nhất từ 300.000 đến 500.000 tấn dược liệu bị khai thác và bán qua
biên giới, chủ yếu là bán sang Trung Quốc. Và trong hơn 20 năm qua, số dược
liệu tươi và khô chảy qua biên giới đã lên tới trên dưới 10 triệu tấn” - Bác sĩ
Hoàng Văn Bé, Chủ tịch Hội Đông y Cao Bằng cho biết.
2.2.3.1. Vùng phân bố tự nhiên của các loài cây thuốc bị thu hẹp
Trong quá trình điều tra dược liệu của Viện Dược liệu từ năm 1970 -
1990 đã phát hiện nhiều vùng rừng có cây thuốc phong phú nay đã hoàn toàn bị

phá bỏ. Như vùng núi Hàm Rồng (Sa Pa - Lào Cai) vào những năm 1972 - 1973
là một khu rừng rậm rạp, nhiều loài cây thuốc quí như Sâm vũ diệp (Panax
bipinnatifidus), Tam thất hoang (Panax stipuleanatus), Hoàng liên gai (Berberis
julinae)… nhưng đến năm 1985, rừng ở đây đã bị phá hủy để trồng Ngô và các
loại cây trồng khác. Tình trạng này cũng có thể thấy ở vùng rừng với hàng ngàn
hecta ở tiểu cao nguyên An Khê (thuộc tỉnh Gia Lai và Bình Định), trước kia
vốn là trung tâm phân bố lớn nhất Việt Nam của cây Vàng đắng (Coscinium
fenestratum) - là nguyên liệu chiết berberin, hiện đã nằm dưới lòng hồ chứa
nước của thủy điện Vĩnh Sơn. Bên cạch đó, còn rất nhiều vùng phân bố tự nhiên
của các loài cây thuốc quí như Sâm ngọc linh, Thiên niên kiện, Cốt khí củ, Ba
kích, Đảng sâm, Hoàng đằng, Ngũ gia bì chân chim cũng bị thu hẹp do nạn
phá rừng và mất rừng[13].
Đối với các cây thuốc trồng nhìn chung cũng nằm trong tình trạng tương
tự. Đó là sự thu hẹp đáng kể, thậm trí biến mất một số vùng trồng cây thuốc
truyền thống. Nhiều cây thuốc nam như Hương nhu tía, Đậu ván trắng, Ý dĩ,
Ngải máu, Tam thất gừng, Đậu ván trắng…đang có xu hướng bị lãng quên.
Nhiều giống và loài cây thuốc nhập nội đã từng được đưa vào sản xuất đại trà ở
nước ta, nay lại phụ thuộc vào nhập khẩu, nên chúng ta đã và đang bị mất dần
các giống dược liệu…
Từ sự xói mòn về nguồn gen và nhiều nguyên nhân khác cũng đã kéo
theo sự mất mát và lãng quên dần vốn tri thức bản địa của cộng đồng trong việc
sử dụng các loại dược liệu truyền thống.
2.2.3.2. Sự giảm sút nhanh chóng khả năng khai thác những loài cây thuốc và
động vật làm thuốc có nhu cầu sử dụng cao
Hiện nay, nguồn tài nguyên cây thuốc không còn nguyên vẹn nữa. Đó là
do việc khai thác ồ ạt và nạn phá rừng làm nương rẫy đã dẫn đến tình trạng
nguồn cây thuốc ở Việt Nam ngày càng cạn kiệt. Ví dụ cây Vàng đắng
(Coscinium fenestratum), từ năm 1980 - 1990 tính trung bình khai thác từ 1.000
20
đến 2.500 tấn / năm. Đến năm 1991 - 1995 chỉ còn 200 tấn / năm. Và từ 1995

đến nay, về cơ bản ở Việt Nam không còn Vàng đắng để khai thác nữa. Hay một
số cây có nhu cầu sử dụng và kinh tế cao như Ba kích (Morinda officinalis),
Đảng sâm (Codonopsis javanica), các loài Hoàng tinh thuộc chi Disporopsis và
Polygonatum, Bình vôi (Stephania spp.)… vốn phân bố khá phổ biến ở các tỉnh
miền núi phía bắc, nhưng đã bị suy giảm nghiêm trọng, nên đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam và Danh lục Đỏ cây thuốc Việt Nam.
Hiện nay, theo thống kê mới nhất của Viện Dược liệu (2007), có 144 loài cây
thuốc thuộc diện quí hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng cần được bảo tồn. Trong số đó
có rất nhiều loài cây thuốc quí như Sâm ngọc linh (Panax vietnamensis), Sâm vũ
diệp (P. bipinnatifidus), Tam thất hoang (P. stipuleanatus), các loài Hoàng liên
(Berberis spp.), Bách hợp (Lilium brownii), Biến hóa núi cao (Asarum balansae),
Thanh mộc hương (Aristolochia tuberosa), Ba kích (Morinda officinalis), Đảng
sâm (Codonopsis javanica)…
Nhận thức được vấn đề bảo tồn và phát triển những loài cây thuốc quí có
tiềm năng, nhiều năm nay nhiều Bộ, ngành và các cơ quan đã đầu tư nghiên cứu
phát triển một số cây dược liệu: Sâm ngọc linh, Bình vôi, Ba kích, Thông đỏ…
Và kết quả bước đầu thu được cũng rất khả quan.
Vài dẫn chứng trên đây cho thấy, cây thuốc hay động vật làm thuốc dù có
trữ lượng lớn đến đâu chăng nữa, nếu chỉ biết khai thác mà không có tái tạo thì
kết cục bị suy kiệt là tất yếu. Ở các quốc gia phát triển, nguyên liệu cho công
nghiệp dược chủ yếu gây trồng hoặc nuôi sinh sản (động vật). Chất lượng dược
liệu hiện nay cũng là vấn đề lớn trong xã hội. Nguyên nhân là do các yếu tố sau:
Khai thác không đúng loài, khai thác không đúng thời vụ, chế biến bảo quản
không đạt yêu cầu, đặc biệt trong các cơ sở kinh doanh tư nhân.
Tóm lại, nhận xét chung về tiềm năng và hiện trạng nguồn tài nguyên
động - thực vật làm thuốc ở Việt Nam là đặc biệt phong phú và đa dạng. Tuy
nhiên, sự phong phú này cũng chỉ có giới hạn. Chúng chỉ có thể thực sự trở
thành tiềm năng lâu dài, nếu biết giữ gìn và khai thác một cách hợp lý. Hơn nữa,
đây lại là nhóm tài nguyên tái tạo được. Vì thế, việc đẩy mạnh nuôi trồng là con
đường phát triển tất yếu trong tương lai.

2.2.4. Tiềm năng và tình hình khai thác sử dụng
Ngày nay, việc tìm kiếm các hoạt chất tự nhiên có hoạt tính sinh học cao để
làm thuốc là một xu thế được rất nhiều các nhà khoa học quan tâm. Việt Nam là
một quốc gia thuộc các vùng biển nhiệt đới - nơi chứa đựng đa dạng sinh học cao
21
chưa được khám phá. Bên canh đó, cộng đồng các dân tộc ở nước ta củng có vốn
tri thức bản địa sử dụng các loài động vật, thực vật và khoáng vật làm thuốc.Hai
lĩnh vực này được các nhà khoa học cho là tiềm năng, trong việc tìm kiếm nghiên
cứu tạo ra những loại thuốc mới, có hiệu lực điều trị cao trong tương lai.
Theo kết quả điều tra của Viện Dược Liệu gần đây được ghi nhận được
3948 loài thực vật và nấm lớn có công dụng làm thuốc; 52 loài tảo biển, 408 loài
động vật và 75 loại khoáng vật có công dụng làm thuốc ở Việt Nam. Kết quả này
củng đả cho thấy nguồn dược ở nước ta rất phong phú. Con số này có thể sẽ còn
tăng thêm, nếu đi sâu điều tra cụ thể hơn một số nhóm động -thực vật tiềm
năng,mà trong đó số loài Tảo, Rêu, Nấm và Côn trùng làm thuốc mới được
thống kê còn quá ít.
Trong tổng số 3.948 loài cây thuốc, gần 90 % là cây thuốc mọc tự nhiên,
tập tung chủ yếu trong các quần xã rừng, chỉ có gần 10 % là cây thuốc trồng.
Theo số liệu thống kê của ngành Y tế, mỗi năm ở Việt Nam tiêu thụ từ 30 - 50
tấn các loại dược liệu khác nhau để sử dụng trong y học cổ truyền làm nguyên
liệu cho công nghiệp Dược và xuất khẩu. Trong đó, trên 2/3 khối lượng này
được khai thác từ nguồn cây thuốc mọc tự nhiên và trồng trọt trong nước. Riêng
từ nguồn cây thuốc tự nhiên đã cung cấptới trên 20.000 tấn mỗi năm. Khối
lượng dược liệu này trên thực tế mới chỉ bao gồm từ hơn 200 loài được khai thác
và đưa vào thương mại có tính phổ biến hiện nay. Bên cạnh đó, còn nhiều loài
dược liệu khác vẫn được thu hái, sử dụng tại chỗ trong cộng đồng và hiện chưa
có những con số thống kê cụ thể.
Từ nguồn tài nguyên dược liệu này, nhiều loài cây thuốc đã được sử dụng
để chiết tách các hoạt chất làm thuốc như: Rutin từ Hoa hòe (Shophora
japonica); berberin từ Vàng đắng (Coscinium fenestratum); vinblanstin và

vincristin từ Dừa cạn (Catharanthus roseus); artemisinin từ Thanh cao hoa vàng
(Artemisia annaua); methol và tinh dầu từ Bạc hà (Mentha arvensis); beta
caroten và lycopen từ Gấc (Momordica cochinchinensis); Đ-strophantin từ hạt
quả Sừng dê (Strophantus divaricatus); rotundin từ nhiều loài Bình vôi
(Sephania spp.); papain từ Đu đủ (Carica papaya); diosgenin từ Củ mài
(Dioscorea deltoidea) và Râu hùm (Tacca chantrieri ); curcuminoid từ Nghệ
(Curcuma longa); morantin từ Mướp đắng (Momordica charantia);
andrographolid từ Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata); shikimic acid từ
Hồi (Illicium verum); taxol từ Thông đỏ(Taxus wallichiana )…Bên cạnh đó, từ
các dược liệu đã nghiên cứu thành công và sản xuất nhiều loại thuốc có giá trị
chữa bệnh, như: Bidentin từ Ngưu tất, Morantin từ Mướp đắng; Abilin từ Nhân
22
trần; Abivina từ Bồ bồ; Raucaxin từ Ba gạc; Ngũ sắc từ cây Cứt lợn, Dihacharin
từ Diệp hạ châu; Kim tiền thảo từ Kim tiền thảo; Ampelop từ Chè dây; Angala
và Angelin từ Đương qui…Đáng lưu ý rằng, phần lớn khối lượng dược liệu kể
trên được dùng làm thuốc trong y học cổ truyền. Số lượng dược liệu để chiết
xuất hoạt chất làm thuốc còn ở mức khiêm tốn (mới chỉ khoảng 50 loài)[12].
Để đáp ứng nhu cầu về dược liệu, nhiều loài cây thuốc trong nước và nhập
nội đã được trồng ở các qui mô khác nhau, hàng năm đã cung cấp cho thị trường
trong nước và xuất khẩu từ vài trăm cho đến hàng nghìn tấn sản phẩm như: Quế
(Cinamomum cassia), Hồi (Illicium verum), Thảo quả (Amomum aromaticum),
Hòe (Shophora japonica), Địa liền (Kaempferia galanga), Hương nhu (Ocimum
gratissimum), Cúc hoa (Chrysanthemum indicum), Ích mẫu (Leonurus artemisia),
Actiso (Cynara scolymus), Đương qui (Angelica acutiloba), Địa hoàng
(Rehmannia glutinosa), Bạch chỉ (Angelica dahurica), Bạch truật (Atractylodes
macrocephala), Bạc hà (Mentha spp.)[12].
Trên thực tế, số loài cây và con hiện nay được sử dụng để phân lập các
hoạt chất phục vụ cho công nghiệp dược còn rất hạn chế so với tổng số các loài
cây thuốc và động vật làm thuốc được phát hiện. Với nguồn tài nguyên dược
liệu phong phú, cùng với vốn kinh nghiệm của cộng đồng các dân tộc Việt Nam

chính là một nguồn tiềm năng để nghiên cứu, chiết xuất các hoạt chất và tạo ra
những loại thuốc mới có hiệu lực chữa bệnh cao.
Với nhu cầu sử dụng các loài dược liệu làm thuốc ngày càng tăng, do khai
thác liên tục trong nhiều năm không chú ý tới bảo vệ tái sinh, cộng với nhiều
nguyên nhân khác đã làm cho nguồn tài nguyên dược liệu Việt Nam bị giảm sút
nghiêm trọng, nhiều loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.
Đối với các cây thuốc trồng nhìn chung cũng nằm trong tình trạng tương
tự. Đó là sự thu hẹp đáng kể, thậm trí biến mất một số vùng trồng cây thuốc
truyền thống. Nhiều cây thuốc nam như Hương nhu tía, Đậu ván trắng, Ý dĩ,
Ngải máu, Tam thất gừng, Đậu ván trắng…đang có xu hướng bị lãng quên.
Nhiều giống và loài cây thuốc nhập nội đã từng được đưa vào sản xuất đại trà ở
nước ta, nay lại phụ thuộc vào nhập khẩu, nên chúng ta đã và đang bị mất dần
các giống dược liệu…
Từ sự xói mòn về nguồn gen và nhiều nguyên nhân khác cũng đã kéo theo
sự mất mát và lãng quên dần vốn tri thức bản địa của cộng đồng trong việc sử
dụng các loại dược liệu truyền thống.
2.2.5. Khả năng khai thác trong tự nhiên
23
Nguyên liệu cây thuốc tự nhiên ở Việt Nam rất phong phú, đa dạng, bao
gồm các loài cây cỏ, động vật khoáng chất, côn trùng và thuỷ sản. Các cây cỏ tự
nhiên có thể làm nguyên liệu sản xuất thuốc và thực phẩm chức năng có ở rải
rác khắp các vùng, từ đồng bằng đến miền núi. Song trữ lượng và chủng loại rất
phân tán và ít ỏi, ví dụ như: cỏ xước, rau sam, rau má, bông mã đề, nhân trần,
thảo quyết minh…
Một số vùng có nguyên liệu tự nhiên phong phú hơn tập trung ở Hoàng
Liên Sơn, Ba Vì, Tam Đảo, Lào Cai, Quảng Nam, Đà Lạt, Hoà Bình, Sapa, Bắc
Kạn, Thái Nguyên… Trong số cây thuốc hoang dại, xác định còn 206 loài còn
khả năng khai thác với sản lượng ước tính 121.000 tấn/năm, và đánh giá thấy
rằng có 136 loài cây thuốc hiếm gặp có nguy cơ tuyệt chủng, cần có kế hoạch
bảo vệ và khôi phục phát triển.

Riêng vùng biển Việt Nam rất phong phú về các loài động vật, thực vật
(rong, tảo) để sản xuất thực phẩm chức năng (TPCN). Rong biển Việt nam có
khoảng 794 loài, biển miền Bắc khoảng 310 loài, biển miền Nam có khoảng
484 loài.
Có thể chia ra 5 vùng còn khả năng khai thác dược liệu tự nhiên sau đây:
+ Vùng núi phía Bắc: Trên diện tích rừng tự nhiên, rừng đang phục hồi,
rừng phòng hộ của các huyện : Quản Bạ, Vị Xuyên, Bắc Quang (Hà Giang),
Bát Sát, Bảo Tháng,Văn Bàn, Sa pa (Lào Cai); Chợ Đồn, Na Rì (Bắc Cạn), Sìn
Hồ, Mường Tè, Phong Thổ (Lai Châu), Sông Mã, Mường La (Sơn La),Lạc
Sơn, Lạc Thuỷ (Hoà Bình), Quảng Bạ, Bảo Lộc (Cao Bằng), Ba chẽ, Vân Đồn
(Quảng Ninh).
+ Vùng Bắc Trung Bộ: Các huyện miền tây Thanh Hoá, Quỳ Sơn, Tương
Dương, Quỳ Hợp (Nghệ An), Hương Sơn (Hà Tĩnh), Tuyên Hoá (Quảng Bình),
A Lưới, Phú Lộc, Nam Đông (TTHuế).
+ Vùng Nam Trung Bộ: Phước Sơn, Tây Giang, Nam và Bắc Trà My (Quảng
Nam), Sơn Hà, Sơn Tây, Trà Bồng (Quảng Ngãi), Sông Hinh (Phú Yên).
+ Tây Nguyên: Kômplông, Tumơroong, Đăclây (Kon Tum); K.Bang,
Kongchro, Chu Prông (Gia Lai), M.Drak, Krông Bông, Eakar (Đắc Lắc), Đak
Nông (Đắc Nông); Di Linh,Lâm Hà, Lạc Dương (Lâm Đồng).
+ Vùng biển và đảo: Có thể khai thác rong biển và một số cây con thuốc ở
biển và đảo từQuảng Ninh đến Kiên Giang.
Trong số 62 loài cây thuốc còn khả năng khai thác trong tự nhiên thì hai
24
loài có liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài là Bồ bồ (Adenosma
indiana Merr.) được khai thác tại các địa phương như Quảng Ninh, Bắc Giang,
Phú Thọ, Tuyên Quang, Hoà Bình, Thanh Hoá, còn Nhân trần (Adenosma
cearulea R.Br.) được khai thác tại Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn,
Hoà Bình, Sơn La, Hà Giang. (Nguồn: dẫn từ tài liệu Thực phẩm chức năng của
Hội Thực phẩm chức năng Việt Nam).
2.3. Hoạt động gây trồng Nhân trần

Được sự hướng dẫn của Trạm Khuyến nông huyện Nghi Lộc (Nghệ An)
cùng sự giúp đỡ của Khuyến nông xã, một số xóm của xã Nghi Lâm đã đưa cây
Nhân trần vào trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Loại cây này có thể trồng nơi
đất cằn cỗi, đầu tư cũng rất thấp, một sào khoảng 200kg phân chuồng, 20 kg
phân NPK, không phải dùng thuốc bảo vệ thực vật như thuốc trừ sâu cỏ. Cây
Nhân trần chăm bón đơn giản, chủ yếu là tăng công làm cỏ, sau gần 5 tháng là
cho thu hoạch, bình quân 1 sào được 120kg Nhân trần khô. Với giá bán 30 ngàn
đồng/kg, trừ chi phí bà con cũng thu 3,3 triệu đồng/sào. Tính ra 1ha Nhân trần
lãi 66 triệu đồng, gấp gần 5 lần trồng lúa. Năm nay, bà con xóm 4 Nghi Lâm
trồng được 5ha cây Nhân trần, xóm 5 trồng được 5ha. Điều mà bà con nông dân
ở xã Nghi Lâm mong muốn là cây Nhân trần ở xã nhà phải có thương hiệu, có
nơi tiêu thụ, giá cả ổn định. Cây Nhân trần là loại cây dễ trồng cho thu nhập cao.
Ban Nông nghiệp cùng Ban Khuyến nông xã Nghi Lâm phát động bà con nông
dân ở tất cả các xóm trên toàn xã đưa cây Nhân trần vào trồng và ngày càng mở
rộng diện tích. Riêng xóm 4, xóm 5 những năm sau sẽ mở rộng diện tích trồng
cây Nhân trần lên mỗi xóm 6-7ha. (Nguồn: báo Congannghean.vn, 4/2011).
Từ hiệu quả kinh tế do cây Nhân trần mang lại, ngành Nông nghiệp Nghệ
An đang phối hợp với các địa phương quy hoạch vùng trồng cây Nhân trần và
hỗ trợ một phần giống, vốn, chuyển giao kỹ thuật trồng cho nông dân. Tại huyện
Diễn Châu và Nghi Lộc đang xây dựng 12 mô hình trồng cây Nhân trần và tạo
điều kiện cho nông dân các địa phương trong tỉnh đến nghiên cứu, học tập.
(Nguồn: www.vfej.vn)
2.4. Phân loại nhân trần ở Thừa Thiên Huế
2.4.1. Cây nhân trần núi(Adenosma cearulea R.Br.)
- Theo GS.TS Đỗ Tất Lợi và theo Từ điển bách khoa dược học, cây Nhân
trần có tên khác là Nhân trần nam, Chè cát, Chè núi, Tuyến hương, Hoắc hương
núi, có tên khoa học là Adenosma caerulea R.Br, thuộc họ Hoa mõm chó
(Scrophulariaceae).
25

×