Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

báo cáo thực tế tại nhà máy phân bón sông hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 35 trang )

BÁO CÁO QUÁ TRÌNH THỰC TẬP SẢN XUẤT
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích
Với phương châm “Học đi đôi với hành” thì các chương trình thực tế và việc
đưa những kiến thức thực tế vào giảng đường là công việc có ý nghĩa lớn đối với
công tác:
Giúp sinh viên củng cố lại những kiến thức lý thuyết đã học để vận dụng vào
thực tiễn sản xuất.
Giúp sinh viên làm quen với môi trường sản xuất của các nhà máy, hiểu được
các trở ngại trong sản xuất thực tiễn. Quá trình sản xuất còn những khó khăn bên
cạnh sự phát triển của nó.
Giúp sinh viên tìm hiểu được quy trình sản xuất phân lân hữu cơ và phân vi
sinh cũng như quy trình sản xuất tinh bột sắn. Trong quá trình đổi mới chương
trình và phương pháp dạy học ở các trường chuyên nghiệp, hoạt động thực tế càng
được chú ý hơn vì nó gắn chặt với việc thực hiện kĩ năng nghề nghiệp của sinh
viên sau khi ra trường. Việc cung cấp cho sinh viên những kiến thức thực tế và cơ
hội được thực hành, được vận dụng những kiến thức lý thuyết vào trong thực tế
càng có ý nghĩa quan trọng để nâng cao cả kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp cũng
như cơ hội tìm kiếm việc làm trong tương lai.
Giúp sinh viên thắt chặt tình bè bạn trong lớp, tinh thần sinh hoạt và làm
việc tập thể; giới thiệu, hướng dẫn sinh viên cách quan sát, đánh giá, nhìn nhận vấn
đề và thực hành trong quá trình đoàn đi thực tế và giao lưu.
2.Yêu cầu:
Sinh viên phải nẵm vững được kiến thức lý thuyết quy trình sản xuất trong
nhà máy, hiểu rõ được sự ứng dụng kiến thức vào thực tiễn do cán bộ trong nhà
máy giảng dạy.
B. NỘI DUNG THỰC TẬP
1. Thời gian: tiến hành trong 2 ngày
2. Địa điểm:
- Nhà máy tinh bột sắn tỉnh Thừa Thiên Huế Focosev.
- Nhà máy phân lân hữu cơ sinh học Sông Hương.


BÁO CÁO THỰC TẾ TẠI NHÀ MÁY PHÂN LÂN
HỮU CƠ SINH HỌC SÔNG HƯƠNG
CHƯƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sản xuất nông nghiệp, phân bón đóng vai trò quan trọng quyết định cả
về chất lượng và sản lượng thu hoạch. Hiện nay có rất nhiều dạng phân bón khác
nhau đã được sản xuất sử dụng trong nông nghiệp như: Phân hoá học đa lượng
hoặc vi lượng: Phân hữu cơ, phân sinh học, phân vi sinh.
Ngành nông nghiệp nước ta hiện nay chủ yếu sử dụng phân bón hóa học
trong canh tác và sản xuất. Tuy nhiên do sử dụng không đúng cách, lạm dụng các
loại phân bón và thuốc trừ sâu hóa học làm tăng dư lượng các chất hóa học gây ô
nhiễm môi trường đất, môi trường nước và ảnh hưởng đến sinh vật cũng như con
người đồng thời làm đất canh tác bị bạc màu nhanh chóng.
Dưới tác động của việc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
góp phần làm diện tích đất nông nghiệp ngày một giảm đi. Chính vì vậy để tăng
năng suất, sản lượng cây trồng đồng thời phải đảm bảo môi trường phát triển bền
vững là một vấn đề cấp thiết hiện nay.
Cùng với chất hữu cơ, vi sinh vật sống trong đất, nước và vùng rễ cây có ý
nghĩa quan trọng trong các mối quan hệ giữa cây trồng, đất và phân bón. Hầu như
mọi quá trình xảy ra trong đất đều có sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của vi
sinh vật (mùn hoá, khoáng hoá chất hữu cơ, phân giải, giải phóng chất dinh dưỡng
vô cơ từ hợp chất khó tan hoặc tổng hợp chất dinh dưỡng từ môi trường ).
Phân bón vi sinh do Noble Hiltner sản xuất đầu tiên tại Đức (1896) và được
đặt tên là Nitragin. Sau đó phát triển sang một số nước khác như ở Mỹ (1896),
Canada (1905), Nga (1907), Anh (1910) và Thụy Điển (1914).
Phân đạm vi sinh, phân vi sinh hỗn hợp, phân vi sinh vật phân giải
phosphate khó tan có khả năng chuyển hoá các hợp chất phospho khó tan thành dễ
tiêu cho cây trồng sử dụng, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng nông phẩm,
không gây hại đến sức khoẻ của người, động thực vật và không ảnh hưởng xấu đến
môi trường sinh thái.
Phân bón vi sinh dựa vào các chủng vi sinh vật sẽ phân giải các chất hữu cơ

trong bùn, phế thải, rác thải, phế phẩm công nông nghiệp,…. tạo ra sinh khối, sinh
khối này rất tốt cho cây cũng như cho đất, giúp cải tạo làm đất tơi xốp. Có rất
nhiều ưu điểm trong việc trồng trọt.
Ngành học của ta là một ngành học có liên quan mật thiết ngay từ khâu sản
xuất phân lân sinh học, đến khâu áp dụng để bón cho các loại cây trồng. vì lý do đó
là lớp đã kết hợp cùng với khoa đồng thời với sự đồng ý của lãnh đạo nhà máy,
trong chuyến đi thực tập sản xuất lớp đã đến nhà máy để tìm hiểu về quy trình sản
xuất phân bón nói chung và phân lân sinh học nói riêng.
CHƯƠNG II: NỘI DUNG
PHẦN I: GIỚI THIỆU NHÀ MÁY PHÂN LÂN
HỮU CƠ VI SINH SÔNG HƯƠNG
Tại địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa thiên Huế (TTH) có một nguồn
than bùn khá dồi dào. Chỉ riêng ở các trằm bàu tại xã Phong Chương ước tính lên
đến 5 triệu m
3
. Chất lượng than bùn ở đây cũng được đánh giá rất cao, chỉ đứng
sau vùng rừng U Minh ở Nam Bộ.
Với lợi thế này, từ nhiều năm nay, Công ty Cổ phần Vật tư Nông nghiệp
TTH đã khai thác một phần than bùn để chế biến nguồn phân bón phục vụ cho sản
xuất. Để khai thác và sản xuất phân bón chất lượng, Công ty đã tiến hành nghiên
cứu đề tài khoa học “Than bùn vo viên”. Đề tài này đã đạt giải nhì tại Cuộc thi
Sáng tạo Khoa học và Công nghệ lần thứ nhất của tỉnh TTH. Sau đó đề tài được
ứng dụng thành công trong thực tiễn.
Tuy nhiên, theo ông Trần Thuyên, Giám đốc Công ty, do điều kiện hoàn
cảnh lúc đó, Công ty chỉ thực hiện việc sản xuất bằng kỹ thuật đĩa quay. So với
những công nghệ ra đời sau này, đây là hệ công nghệ được đánh giá không được
tiên tiến. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, năm 2009, Công ty đã đầu tư hơn 20
tỷ để xây dựng một nhà máy tại xã Phong Chương. Đây là một vùng đất nằm gần
mỏ nguyên liệu; đất rộng không dân cư, phù hợp cho sự phát triển mở rộng sau
này. Công nghệ được chọn cho nhà máy này là một công nghệ hiện đại- công nghệ

vo viên bằng thùng quay hơi nước của Việt-Nhật.
Các công đoạn từ nguyên liệu đầu vào đến đầu ra được xử lý bằng tự động.
Cả một dây chuyền 80.000 tấn năm mà chỉ cần 8 người làm việc. Nhờ vậy, chất
lượng đầu ra rất chính xác và ổn định. Dây chuyền sản xuất có 2 đường dẫn cho
nguyên liệu đầu vào, đây là nơi nghiền nguyên liệu ure. Tại đây ure được nghiền
với sự điều chỉnh tỷ lệ tự động bằng vi tính. Đầu vào thứ hai là than bùn và kali.
Nguyên liệu sau khi được nghiền, các băng chuyền sẽ đưa vào một bon ke.
Tại đây nguyên liệu được trộn đều ở nhiệt độ 90
0
C. Từ đây, các hạt phân ure được
đưa qua hệ thống làm nguội. Tiếp theo là công đoạn đánh bóng và phận hạt, vô bao
bì. Với dây chuyền khép kín, được sự hỗ trợ kỹ thuật từ các công đoạn khác nên
chất lượng đầu ra đảm bảo ổn định.
Sự quyết định đổi mới công nghệ sản xuất phân bón NPK của Công ty Vật
tư Nông nghiệp là một hướng đầu tư đáng ghi nhận. Trong thời buổi cạnh tranh
gay gắt như hiện nay, đầu tư đổi mới khoa học công nghệ cũng có nghĩa là nâng
cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh. Xét về khía cạnh bảo
vệ môi trường lại có một ý nghĩa đặc biệt. Cùng với nhà sản xuất, Công ty cũng
quan tâm đến vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Ngay từ khi ra đời, phân bón với
nhãn hiệu NPK bông lúa của Công ty đã đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Sản xuất phân bón cung ứng cho nông nghiệp chỉ là một mảng hoạt động
của Công ty Cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh TTH. Đây được xem là một đơn vị
sản xuất kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Các sản phẩm và lĩnh vực kinh doanh
của Công ty có thể kể ra như sau: sản xuất kinh doanh các loại phân bón NPK nhãn
hiệu bông lúa, phân hữu cơ vi sinh Sông Hương và các loại phân khóng hữu cơ
Kinh doanh các loại vật tư nông nghiệp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống
cây trồng và các loại thức ăn chăn nuôi; thu mua và chế biến nông sản, trồng rừng,
sản xuất trang trại, đầu tư trực tiếp cho các chương trình phát triển cây công nghiệp
nguyên liệu; kinh doanh xăng dầu, các loại nhiên liệu động cơ; kinh doanh xuất
nhập khẩu các loại lâm sản, vật liệu xây dựng; kinh doanh khách sạn, nhà hàng

Đối với mảng sản xuất và kinh doanh vật tư nông nghiệp, liên tục trong nhiều năm
qua Công ty đã gặt hái được nhiều thành công.
Nhà máy phân lân hữu cơ vi sinh Sông Hương được thành lập vào năm 1995
với quy trình sản xuất phân lân hữu cơ sinh học của Canada chuyển giao. Công ty
đã sản xuất phân lân hữu cơ vi sinh trên nền than bùn, được đánh giá có hàm lượng
mùn và dinh dưỡng rất cao. Sản phẩm của nhà máy mang lại nhiều tính năng ưu
việt và hiệu quả thiết thực cho bà con nông dân. Năm 2000, sản phẩm của nhà máy
đã được nhận Cúp vàng “Vì sự nghiệp xanh”. Tiếp đó, do đòi hỏi của nhu cầu tiêu
dùng và thị hiếu của người sản xuất nông nghiệp, Công ty đã tiếp tục nghiên cứu
và ứng dụng thành công việc sản xuất các loại phân khác, đặc biệt là phân NPK
hiệu Bông lúa trên nền than bùn như đã giới thiệu. Năm 2003 sản phẩm của công
ty liên tiếp nhận được “Cúp vàng vì sự nghiệp xanh” lần thứ hai và “Huy chương
vàng chất lượng sản phẩm” cho sản phẩm NPK Bông Lúa. Năm 2009, sản phẩm
của công ty được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trao tặng Cúp vàng
nông nghiệp. Những danh hiệu này đã khẳng định uy tín và chất lượng sản phẩm
của Công ty.Cùng với phương châm: Chữ tín hàng đầu - khách hàng trên hết - chất
lượng tuyệt hảo- giá cả hợp lý sản phẩm phân bón của Công ty được bà con nông
dân tin tưởng tin dùng.
Đến thời điểm này, các sản phẩm phân bón của Công ty đã có chỗ đứng trên
thị trường và được bà con tin dùng. Chẳng những ở địa bàn tinh TTH mà còn thị
trường nhiều tỉnh miền Trung- Tây Nguyên. Năm 2009 vừa qua, Công ty đã tiêu
thụ được 26.000 sản phẩm.
Hiện nay, Công ty đang hướng sản phẩm phân bón NPK Bông lúa sang thị
trường ngoài nước và đã bước đầu thành công ở thị trường Lào. Chỉ từ đầu năm
2010 đến 2011, công ty đã ký kết xuất khẩu đạt 1 triệu USD. Đây là một thành
công mới của Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp Thừa Thiên Huế trong chiến
lược phát triển mới của mình.
PHẦN II: QUY TRÌNH SẢN XUẤT PHÂN LÂN VI SINH
I.Các dạng phân lân, phân lân vi sinh
1.Các dạng phân lân:

Lân hay phospho là một trong những yếu tố rất cần thiết cho cây trồng.
Lượng lân dễ tiêu trong đất thường không đáp ứng được nhu cầu của cây nhất là
những cây trồng có năng suất cao. Bón phân lân và tăng cường độ hoà tan các dạng
lân khó tiêu trong đất là biện pháp quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Bón
phân hữu cơ, xác động vật vào đất ở mức độ nhất định là biện pháp tăng hàm
lượng lân cho đất.
Lân trong đất gồm 2 dạng chính:
a.Lân hữu cơ
Lân hữu cơ có trong cơ thể động vật, thực vật, vi sinh vật thường gặp ở các
hợp chất chủ yếu như phytin (phytin và các chất họ hàng: inositol,
inositolmonophosphate, inositoltriphosphate), phospholipit, axit nucleic. Trong
không bào người ta còn thấy lân vô cơ ở dạng octhophosphate làm nhiệm vụ
đệm và chất dự trữ. Cây trồng, vi sinh vật không thể trực tiếp đồng hoá lân hữu cơ.
Muốn đồng hoá chúng phải được chuyển hoá thành dạng muối H
3
PO
4
.
b.Lân vô cơ
Lân vô cơ thường ở trong các dạng khoáng như apatit, phosphoric,
phosphate sắt, phosphate nhôm Muốn cây trồng sử dụng được phải qua chế
biến, để trở thành dạng dễ tan.
Nhờ vi sinh vật lân hữu cơ được vô cơ hoá biến thành muối của axit
phosphoric. Các dạng lân này một phần được sử dụng, biến thành lân hữu cơ, một
phần bị cố định dưới dạng lân khó tan như Ca
3
(PO
2
)
2

, FePO
4
, AlPO
4
. Những dạng
khó tan này trong môi trường có pH thích hợp, với sự tham gia của vi sinh vật sẽ
chuyển hoá thành dạng dễ tan.
2.Chuyển hóa lân
Trong đất thường tồn tại các vi sinh vật có khả năng hoà tan lân. Các vi sinh
vật này được các nhà khoa học đặt tên cho chúng là: HTL (hoà tan lân, tên tiếng
anh PSM – phosphate solubilizing microorganisms).
2.1 Sự chuyển hóa lân vô cơ
a.vi sinh phân giải
Vi khuẩn phân giải những hợp chất lân vô cơ khó tan thường gặp các giống:
Pseudomonas, Alcaligenes, Achromobacter, Agrobacterium, Aerobacter,
Brevibacterium, Micrococcus, Flavobacterium
Bên cạnh các vi khuẩn và xạ khuẩn thì nấm cũng có tác dụng trong quá trình
hoà tan hợp chất lân khó tan: Penicillium, Aspergillus, Rhizopus, Sclerotium.
b.Cơ chế hòa tan phospho
Đại đa số nghiên cứu đều cho rằng sự phân giải Ca
3
(PO
4
)
2
có liên quan mật
thiết với sự sản sinh axit trong quá trình sống của vi sinh vật. Trong đó axit
cacbonic rất quan trọng. Chính H
2
CO

3
và hệ enzim phosphatase do vi sinh vật tiết
ra làm cho Ca
3
(PO
4
)
2
phân giải.
Quá trình phân giải theo phương trình sau:
Ca
3
(PO
4
)
2
+ 4CO
2
+ 4H
2
O Ca(H
2
PO
4
)
2
+ 2Ca(HCO
3
)
2

Ngoài ra Phosphate khó tan cũng được chuyển thành dạng dễ tan dưới tác
dụng của axit hữu cơ (carboxylic acids) do vi sinh vật tiết ra. Tuy nhiên mỗi loại vi
sinh vật tiết ra những loại axit khác nhau và có tác dụng chuyển hóa các phosphate
khác nhau.
Một nghiên cứu được tiến hành trên 3 chủng Pseudomonas fluorescens
(CB501, CD511 và CE509). Trên môi trường thạch, hai chủng (CB501 và CE509)
có khả năng hòa tan 3 loại phosphate Ca
3
(PO
4
)
2
, AlPO
4
·H
2
O hoặc FePO
4
·2H
2
O
trong khi chủng CD511 cho thấy một vùng quầng chỉ trên một tấm thạch
phosphate có bổ sung sắt (Fe-P). Tuy nhiên, trong môi trường lỏng, tất cả các
chủng đã có thể huy động một lượng đáng kể phốt pho (P) phụ thuộc vào từng loại
phosphate. Calcium phosphate (Ca-P) hòa tan kết quả của sự kết hợp giữa độ pH
và carboxylic acids. Tại pH 7, nó đã được hòa tan bởi hầu hết các axit hữu cơ.
Tuy nhiên, tổng hợp các carboxylic acids là cơ chế chính tham gia trong quá trình
hòa tan phosphate nhôm (Al-P) và phosphate sắt (Fe-P). Ảnh hưởng của
carboxylic acids đến sự hòa tan phosphate phụ thuộc vào độ pH. Calcium
phosphate Ca-P được hòa tan ở pH trung tính (pH7 cho Ca

3
(PO
4
)
2
) , trong khi Al-
P và Fe-P sẽ được hòa tan trong điều kiện có tính axit (pH4 cho FePO
4
và AlPO
4
).
Chỉ citrate hòa tan đáng kể Ca-P, Tartrate và trans-aconitate có hiệu lực nhẹ. Vì
vậy, đặc biệt là sản xuất citrate chủng rất quan trọng để cải thiện khả phosphate
trong kiềm đất hoặc trong trường hợp làm màu mỡ với đá phosphate.
Trong đất, vi khuẩn nitrat hoá và vi khuẩn chuyển hoá S cũng có tác dụng
quan trọng trong việc phân giải Ca
3
(PO4)
2
.
2.2 Sự chuyển hóa lân hữu cơ
a. Vi sinh phân giải
Giống Bacillus: B. megaterium, B. subtilis, B. malaberensis.
B. megaterium không những có khả năng phân giải hợp chất lân vô cơ mà
còn có khả năng phân giải hợp chất lân hữu cơ. Người ta còn dùng B. megaterium
làm phân vi sinh vật.
Ngoài ra còn các giống Serratia, Proteus, Arthrobscter Nấm: Aspergillus,
Penicillium, Rhizopus, Cunnighamella Xạ khuẩn: Streptomyces.
b. Cơ chế phân giải
Nhiều vi sinh vật đất có men dephotphorylaza phân giải phytin theo phản

ứng sau: Nucleoprotit  axit nucleic  nucleotit  H
3
PO
4
3.Phân lân vi sinh
Phân vi sinh vật phân giải phosphate khó tan là sản phẩm có chứa một hay
nhiều chủng vi sinh vật còn sống đạt tiêu chuẩn đã ban hành có khả năng chuyển
hoá các hợp chất phospho khó tan thành dễ tiêu cho cây trồng sử dụng, góp phần
nâng cao năng suất và chất lượng nông phẩm. Phân lân vi sinh vật không gây hại
đến sức khoẻ của người, động thực vật và không ảnh hưởng xấu đến môi trường
sinh thái.
II.Quy trình sản xuất phân lân vi sinh tại nhà máy
1.Phân lập và tuyển chọn giống vi sinh vật phân giải lân
Chủng vi sinh vật phân giải lân được phân lập, tuyển chọn từ đất hoặc từ
vùng rễ cây trồng trên các loại đất hay cơ chất giàu hữu cơ theo phương pháp nuôi
cấy pha loãng trên môi trường đặc Pikovskaya. Trong quá trình nuôi cấy trên môi
trường đặt Pikovskaya các chủng vi sinh vật phân giải lân sẽ tạo vòng phân giải
(vòng tròn trong suốt bao quanh khuẩn lạc). Vòng phân giải được hình thành nhờ
khả năng hoà tan hợp chất phospho không tan được bổ sung vào môi trường nuôi
cấy.
Dựa vào đường kính vòng phân giải, thời gian hình thành và độ trong của
vòng phân giải ta có thể đánh giá định tính khả năng phân giải mạnh hay yếu của
các các chủng vi sinh vật phân lập. Để đánh giá chính xác mức độ phân giải các
hợp chất phospho khó tan của vi sinh vật, ta phải xác định định lượng hoạt tính
phân giải của chúng bằng cách phân tích hàm lượng lân dễ tan trong môi trường
nuôi cấy có chứa loại phosphate không tan. Tỉ lệ (%) giữa hàm lượng lân tan và lân
tổng số trong môi trường được gọi là hiệu quả phân giải.
Để sản xuất phân lân vi sinh ta cần tuyển chọn các chủng vi sinh vật có khả
năng phân giải nhiều loại hợp chất phospho khác nhau và có ảnh hưởng tốt đến cây
trồng. Vì ngoài hoạt tính phân giải lân, nhiều chủng vi sinh vật còn có các hoạt tính

sinh học khác gây ảnh hưởng xấu đến sự sinh trưởng, phát triển và năng suất cây
trồng.
Chính vì vậy sau khi đánh giá khả năng phân giải lân của các chủng vi sinh
vật dùng để sản xuất phân lân vi sinh ta cần phải đánh giá được ảnh hưởng của
chúng đến đối tượng cây trồng sử dụng. Chỉ sử dụng chủng vi sinh vật vừa có hoạt
tính phân giải lân cao vừa không gây ảnh hưởng xấu đến cây trồng và môi trường
sinh thái.
Ngoài những chỉ tiêu quan trọng như trên ta còn phải đánh giá đặc tính sinh
học như: thời gian mọc; kích thước tế bào, khuẩn lạc; khả năng thích ứng ở pH;
khả năng cạnh tranh Để có thể tạo ra loại phân lân vi sinh mang những đặc tính
tốt nhất.
2.Nhân sinh khối, xử lý sinh khối và tạo sản phẩm
Trong quá trình sản suất phân lân vi sinh hiên nay người ta sử dụng chủng
giống vi sinh được lựa chọn (chủng gốc) người ta tiến hành nhân sinh khối, xử lý
sinh khối và tạo sản phẩm phân lân vi sinh Thông thường để sản xuất phân lân vi
sinh từ vi khuẩn người ta sử dụng phương pháp lên men chìm (Submerged culture)
trong các nồi lên men và sản xuất phân lân vi sinh từ nấm người ta sử dụng phương
pháp lên men xốp. Sản phẩm tạo ra của phương pháp lên men xốp là chế phẩm
dạng sợi hoặc chế phẩm bào tử.
Chế phẩm lân vi sinh vật có thể được sử dụng như một loại phân bón vi sinh
vật hoặc được bổ sung vào phân hữu cơ dưới dạng chế phẩm vi sinh vật làm giàu
phân ủ, qua đó nâng cao chất lượng của phân ủ. Ở nước ta, trong sản xuất phân lân
vi sinh vật trên nền chất mang không khử.
Ơ nhà máy đã sử dung chất mang là nguồn nguyên liệu có sẵn của địa
phương chính là nguồn than mùn. Than mùn sau khi được lấy về được phơi khô
trong sân phơi của nhà máy. Sau khi phơi khô, than mùn này được nghiền nhỏ và
sang phân loại. Việc làm này tận dụng được nguồn quặng tự nhiên sẵn có của địa
phương làm phân bón qua đó giảm chi phí trong quá trình sản xuất.
Tuy nhiên để phân bón có hiệu quả cần phải kiểm tra đánh giá khả năng
phân giải quặng của chủng vi sinh vật sử dụng và khả năng tồn tại của chúng trong

chất mang được bổ sung quặng.
Quy trình chung cho sản xuất phân vi sinh vật từ vi khuẩn theo phương pháp
lên men chìm như sau:
3.Yêu cầu chất lượng và công tác kiểm tra chất lượng
Yêu cầu chất lượng đối với phân lân vi sinh cũng tương tự như yêu cầu chất
lượng đối với phân vi sinh vật cố định nitơ, phân lân vi sinh vật được coi là có chất
lượng tốt khi có chứa một hay nhiều loại VSV có hoạt tính phân giải lân cao và có
ảnh hưởng tốt đối với cây trồng với mật độ 10
8
-10
9
tế bào

VSV/g hay mililit phân
bón đối với loại phân bón trên nền chất mang khử trùng và 10
6
tế bào

VSV/gam
hay mililit đối với phân bón trên nền chất mang không khử trùng. Để phân bón vi
sinh vật đạt chất lượng cao thì sau mỗi công đoạn sản xuất cần tiến hành kiểm tra
chất lượng sản phẩm tạo ra.
III.Ưu điểm-nhược điểm của việc sử dụng phân lân vi sinh
1.Ưu điểm
Nhìn chung các dòng phân lân vi sinh trên thị trường hiện nay đều có chung
ưu điểm như: Phân giải lân khó tiêu thành dễ tiêu, tăng yếu tố dinh dưỡng và cải
thiện chất lượng đất trồng, nâng cao chất lượng nông sản an toàn cho người tiêu
dùng, giá thành hạ và thân thiện với môi trường… Tuy nhiên tùy theo những loại
phân khác nhau mà chúng có những ưu điểm khác như phần trên.
2.Nhược điểm

Bên cạnh những ưu điểm phân lân vi sinh còn có những nhực điểm như:
Không ổn định về chất lượng, bởi vì yếu tố đảm bảo chất lượng của phân là hàm
lượng vi sinh vật và chủng vi sinh vật trong phân, nếu phân không đảm bảo được
hàm lượng vi sinh vật và chủng vi sinh vật sẽ dẫn đến phân kém chất lượng. mặt
khác nếu ta sữ dụng không đúng, hay chủng vi sinh vật không phù hợp sẽ ảnh
hưỡng đến hệ vi sinh vật trong đất đồng thời gây ô nhiễm môi trường…
Hiện nay trên thị trường chủ yếu là phân vi sinh hỗn hợp do đó tác dụng
chuyên hóa và hiêu quả không cao, tác dụng chậm chủ yếu dùng để bón lót, chưa
được nhà nông sử dụng rộng rãi so với phân vô cơ.
3.Hiệu quả khi bón phân lân vi sinh
Hàm lượng lân trong hầu hết các loại đất đều rất thấp, vì vậy việc bón lân
cho đất nhằm nâng cao năng suất cây trồng là việc làm cần thiết. Phân vi sinh vật
phân giải phosphate khó tan không chỉ có tác dụng nâng cao hiệu quả của phân bón
lân khoáng nhờ hoạt tính phân giải và chuyển hoá của các chủng vi sinh vật mà
còn có tác dụng tận dụng nguồn photphate địa phương có hàm lượng lân thấp.
Nhiều công trình nghiên cứu ở châu Âu và Mỹ cũng như ở các nước châu Á đều
cho thấy hiệu quả to lớn của phân vi sinh vật phân giải lân. Tại ấn Độ, vi sinh vật
phân giải lân được đánh giá có tác dụng tương đương với 50 kg P
2
O
5
/ha. Sử dụng
vi sinh vật phân giải lân cùng quặng phosphate có thể thay thế được 50% lượng lân
khoáng cần bón mà không ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Hiện nay Trung
Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia đang đẩy mạnh chương trình phát triển và ứng
dụng công nghệ sản xuất phân lân vi sinh vật ở quy mô lớn với diện tích sử dụng
hàng chục triệu ha. Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu gần đây cho biết một
gói chế phẩm vi sinh vật phân giải lân (50g) sử dụng cho cà phê trên vùng đất đỏ
Bazan có tác dụng tương đương với 34,3 kg P
2

O
5
/ha. Bón phân lân vi sinh có tác
dụng làm tăng số lượng vi sinh vật phân giải lân trong đất, dẫn đến tăng cường độ
phân giải lân khó tan trong đất 23 - 35%. Cây trồng phát triển tốt hơn, thân lá cây
mập hơn, to hơn, bản lá dầy hơn, tăng sức đề kháng sâu bệnh, tăng năng suất đậu
tương 5 - 11%, lúa 4,7-15% so với đối chứng.
III. NHẬN XÉT, KIẾN NGHỊ
1.Nhận xét
Phân bón VSV đã được nghiên cứu sản xuất và sử dụng rộng rãi ở hầu hết
các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam tuy nhiên cũng chỉ ở mức độ thấp.
Sản phẩm không chỉ cung cấp một phần đáng kể chất dinh dưỡng cần thiết cho cây
trồng mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng phân khoáng đồng thời tăng
cường sức chống chịu của cây trồng đối với sâu bệnh và điều kiện thời tiết không
thuận lợi, đặc biệt phân VSV chức năng có tác dụng trực tiếp trong việc hạn chế
bệnh vùng rễ cây trồng. Phân bón VSV mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người sử
dụng, đồng thời có tác dụng tích cực trong việc cải thiện môi trường và phát triển
bền vững.
Nhu cầu sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh ngày càng tăng.
Sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh sẽ thay thế dần việc bón phân hoá học trên
đồng ruộng, đất trồng trọt mà vẫn đảm bảo được nâng cao năng suất thu hoạch.
Sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh về lâu dài sẽ dần dần trả lại độ phì nhiêu
cho đất như làm tăng lượng phospho và kali dễ tan trong đất canh tác, cải tạo, giữ
độ bền của đất đối với cây trồng nhờ khả năng cung cấp hàng loạt các chuyển hoá
chất khác nhau liên tục do nhiều quần thể vi sinh vật khác nhau tạo ra.
Việc sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh còn có ý nghĩa rất lớn là tăng cường
bảo vệ môi trường sống, giảm tính độc hại do hoá chất trong các loại nông sản thực
phẩm do lạm dụng phân bón hóa học.
Giá thành hạ, nông dân dễ chấp nhận, có thể sản xuất được tại địa phương và
giải quyết được việc làm cho một số lao động, ngoài ra cũng giảm được một phần

chi phí ngoại tệ nhập khẩu phân hoá học.
Phân bón mang lại lợi nhuận cho người nông dân. Nhưng để hạn chế những
ảnh hưởng của phân bón đến môi trường và sức khỏe con người thì nhà nông cần
hạn chế sử dụng phân bón vô cơ.
2.Kiến nghị
Cần khuyến khích và hướng dẫn nông dân đặc biệt là nông dân trong vùng
sử dụng phân vi sinh trong sản xuất để tăng năng suất nông sản và tránh làm thoái
hóa đất.
Đẩy mạnh nghành sản xuất phân vi sinh để tạo môi trường trong sạch trong
sản xuất, ổn định thi trường phân bón, phát triển nông nghiệp bền vững
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu tìm ra những chủng vi sinh vật có hiệu quả
phân giải cao và thân thiện với môi trường.
Tăng cường công tác đầu tư xây dưng cơ sở hạ tầng thành lập các trung tâm
nghiên cứu khảo sát, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tạo điều kiện thúc đẩy
phát triển nghành phân vi sinh.
PHẦN III. QUY TRÌNH SẢN XUẤT PHÂN NPK TẠI NHÀ
PHÂN BÓN SÔNG HƯƠNG
1.Quy trình sản xuất:
a.Giới thiệu quy trình:
- Nhà máy sử dụng các thiết bị máy móc chuyên chế biến và tổng hợp mốt
số thành phần phân hóa bón cố định trong đó thành phẩn chủ yếu là nitơ, phospho
và kali (N – P – K).
- Nguyên liệu thô sau khi mua về dự trữ trong kho. Sau đó sẽ được đem vào
sản xuất. Nguyên liệu được đưa vào một trục quay để trộn đều. Có sự gia nhiệt và
sản phẩm đi qua ở dạng hạt nhỏSau đó sẽ được đem vào sản xuất.
Quy trình: Nguyên liệu (đạm, kali, lân, phụ gia) → Phối trộn → Làm tơi
(nghiền) → Vo viên → Sấy → Làm nguội → Tạo độ bóng → Đóng gói → Thành
phẩm.
Bước 1: Quá trình pha trộn hỗn hợp.
Có máy pha trộn riêng. Máy này gồm 3 phễu, mỗi phễu chứa một loại phân

tương ứng là kali, đạm, lân và một ít chất phụ gia (chất keo để tạo hạt). Sau đó cho
đồng thời ba phễu này chảy xuống chung một bể, tại đây có gắn một trục để quay
đảo đều các thành phần này. Ở hệ thống phối trộn này có máy đo trọng lượng,
nhằm định lượng vòng quay
- Tùy thuộc vào tỷ lệ pha trộn giữa 3 loại phân mà ta có tỷ lệ phân NPK 16-
16-8 hoặc 5-5-10. Mỗi loại phân có mục đích và đối tượng sử dụng khác nhau.
- Sau đó nguyên liệu được đi qua băng tải, đi vào phễu bôngke, giữ nguyên
liệu đã phối trộn lại, cho nguyên liệu lên bàng tải để qua hệ thông tạo hạt (mâm tạo
hạt).
Bước 2: Vo viên
Gồm 2 hệ thống:
- Hệ thống vo viên tạo hạt băng vòi hơi nước.
- Hệ thống vo viên tạo hạt có vòi phun nước.
Hệ thống vo viện có vòi phun nước
Bước 3: Sấy, làm nguội
Sau khi nguyên liệu được vo viên, được chuyền qua buồng tải lên buồng
sấy. Buồng sấy được hoạt động nhờ năng lượng từ than. Sau đó được làm nguội
qua hệ thống làm nguội.
Buồng sấy
Hệ thống làm nguội bao gồm 3 bộ phận : Hút nhiệt, quạt nhiệt (sấy khô) và
hầm hút bụi. Nhờ hoạt động của hầm hút bụi, nên chỉ xả hơi ra không khí, ít có
thành phần bụi đi theo. Bụi từ hầm bụi sẽ được lấy ra, đem đi phân tích hàm lượng,
nếu đủ tiêu chuẩn sẽ đem đi phối trộn tiếp.
Ống màu vàng - hút nhiệt
Ống màu xanh - quạt nhiệt
Bước 4: Sàn, làm bóng hạt
Các hạt phân sau khi được làm nguội theo băng tải qua máy sàn. Máy sàn có
hệ thống lưới 3 - 5 li.
Hệ thống này có sự chọn lọc
- Hạt vo viên từ 3 - 5 li được lọt quá.

- Hạt lớn hơn 5 li  quay lại hệ thống nghiền  làm mịn vo viên
- Hạt bé hơn 3 ly  không qua giai đoạn nghiền mà chuyển qua hệ thống vo
viên
Khi các hạt được chon lọc qua hệ thống sàn, sẽ được làm bóng qua hệ thống
làm bóng (một ống dài). Ở đây có sự chọn lọc một lần nữa, các hạt chưa đủ tiêu
chuẩn sẽ bị loại ra ngoài, quay lại quy trình tái sản xuất.
Qua máy làm bóng các hạt thiếu chất lượng được thải ra ngoài
Bước 5: đóng gói
Các hạt sau khi được làm bóng được đóng gói tạo thành phẩm.
b. Ý nghĩa của việc viên cục và phối trộn
- Viên cục: Phân sau khi chế biến được viên nhỏ mục đích là tiện lợi cho sử
dụng, tăng sự hấp thụ cho cây trồng. Vì khi phân được ở dạng viên thì độ hấp thụ
vào đất của nó chậm hơn dạng bột giúp cây trồng có thời gian hấp thụ hiệu quả
lượng phân bón. Đồng thời nếu gặp điều kiện không thuân lợi như khô hạn, đật
thiếu độ ẩm thì chính sự chậm hòa tan của phân dạng viên sẽ tránh gây độc cho cây
trồng và vẫn giữ được tính chất của phân.
- Sự phối trộn NPK có ý nghĩa tổng hợp đối với cây trồng. Cây trống sẽ
đồng thời sử dụng được nhiều nguồn dinh dưỡng tăng hiệu quả sinh trưởng và phát
triển của cây.
2. Một số vấn đề bất cập trong quá trình sản xuất của nhà máy phân đa
lượng và phân vi sinh hữu cơ sông Hương
- Qui trình sản xuất phân đa lượng NPK :
 Nguồn nguyên liệu ban đầu không có sắn mà phải nhập hoàn toàn, nhà
máy chỉ phối trộn cho ra sản phẩm. Nếu ta chủ động được nguồn nguyên liệu thì
giá thành sản phẩm sẽ được giảm.
 Môi trường làm việc xung quanh quy trình còn bị ô nhiễm : bụi, khí CO
2

gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của công nhân trong nhà máy.
- Quy trình sản xuất phân vi sinh hữu cơ :

 Quá trình sản xuất chưa ứng dụng được nhiều thiết bị máy móc, còn sử
dụng thủ công, đặc biệt là khâu nhào trộn sinh khối vi sinh vật vào chất mang hoàn
toàn làm bằng tay mà không có máy trộn chuyên dụng  thành phẩm chất
lượng không đều.
 Quá trình nhân sinh khối vi sinh vật trong các bể chứa dễ bị tạp nhiễm, có
thể xuất hiện nhiều chủng vi sinh vật lạ, đôi khi ảnh hưởng đến chất lượng thanhg
phẩm. Do các bể môi trưởng, bể nhân giống cấp 1, bể nhân giống cấp 2 chưa đảm
bảo tính vô trùng.
BÁO CÁO THỰC TẾ TẠI NHÀ MÁY TINH BỘT SẮN
FOCOCEV THỪA THIÊN HUẾ
CHƯƠNG I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực, thức ăn gia súc quan trọng sau lúa và
ngô. Năm 2005, cây sắn có diện tích thu hoạch 432 nghìn ha, năng suất 15,35
tấn/ha, sản lượng 6,6 triệu tấn, so với cây lúa có diện tích 7.326 ha, năng suất 4,88
tấn/ha, sản lượng 35,8 triệu tấn, cây ngô có diện tích 995 ha, năng suất 3,51 tấn/ha,
sản lượng gần một triệu tấn (FAO, 2007). Sắn cũng là cây công nghiệp có giá trị
xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Sắn là nguyên liệu chính để chế biến bột ngọt,
bio- ethanol, mì ăn liền, bánh kẹo, siro, nước giải khát, bao bì, ván ép, phụ gia
dược phẩm, màng phủ sinh học và chất giữ ẩm cho đất.
Toàn quốc hiện có trên 60 nhà máy chế biến tinh bột sắn với tổng công suất
khoảng 3,8 triệu tấn củ tươi/năm và nhiều cơ sở chế biến sắn thủ công rãi rác tại
hầu hết các tỉnh trồng sắn. Việt Nam hiện sản xuất mỗi năm khoảng 800.000 –
1.200.000 tấn tinh bột sắn, trong đó trên 70% xuất khẩu và gần 30% tiêu thụ trong
nước. Sản phẩm sắn xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là tinh bột, sắn lát và bột sắn.
Thị trường chính là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Singapo, Hàn Quốc. Đầu tư
nhà máy chế biến bio- etanol là một hướng lớn triển vọng.
Sản xuất lương thực là ngành trọng tâm và có thế mạnh của Việt Nam tầm
nhìn đến năm 2.020. Chính phủ Việt Nam chủ trương đẩy mạnh sản xuất lúa, ngô
và coi trọng việc sản xuất sắn, khoai lang ở những vùng, những vụ có điều kiện
phát triển Diện tích sắn của Việt Nam dự kiến ổn định khoảng 450 nghìn ha

nhưng sẽ tăng năng suất và sản lượng sắn bằng cách chọn tạo và phát triển các
giống sắn tốt có năng suất củ tươi và hàm lượng tinh bột cao, xây dựng và hoàn
thiện quy trình kỹ thuật canh tác sắn bền vững và thích hợp vùng sinh thái.
Từ cây lương thực "chống đói", cây sắn Việt Nam đã có khối lượng xuất
khẩu đứng thứ 3 Thế Giới và trở thành cây "xóa đói giảm nghèo" của bà con nông
dân. Tuy nhiên, cây sắn"lên ngôi" cũng đang nảy sinh nhiều vấn đềbất cập. Việt
Nam có 41 nhà máy chế biến tinh bột sắn đã và đang xây dựng với tổng công suất
thiết kế khoảng 3.130 tấn bột/ngày. Nhưng với gần 264.000 ha sắn hiện có, 41 nhà
máy cũng chỉ đáp ứng được 39,6% sản lượng.
Trong khi BộNN-PTNN, dự kiến diện tích trồng sắn sẽ đạt khoảng 300.000
ha vào năm 2005. Triển vọng khả quan Tại hội thảo về sắn châu Á lần thứ 6 họp tại
TP.HCM, Việt Nam được đánh giá là nước có bước tiến lớn vềphát triển cây sắn
trong hơn 10 năm trở lại đây. Nhờ áp dụng nhiều giống mới có năng suất cao và
hàm lượng bột lớn như các giống KM 60, KM 94, KM 98 Năng suất sắn bình
quân cảnước từ79,9 tạ/ha năm 1999 đã tăng lên 106,4 tạ/ha năm 2001 và tăng thêm
20 tạ cho mỗi ha vào năm 2002.
Diện tích trồng sắn cũng không ngừng mởrộng, từ220.000 ha năm 1999 lên
263.900 ha năm 2001 và đến tháng 9/2002 đã có 270.000 ha. Hiện nay khối lượng
sắn xuất khẩu của Việt Nam đạt khoảng 200.000 tấn/năm, đứng hàng thứ ba
thếgiới, chỉ sau Thái Lan và Indonesia.
Nhu cầu của thế giới đối với tinh bột sắn ngày càng gia tăng, nhất là tại các
thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản, bên cạnh các thị trường
tiêu thụ sắn khô truyền thống là EU và Mỹ. Trong đó, sắn khô chủ yếu làm lương
thực. (58%) và thức ăn gia súc (28%).
Sắn dễ trồng, hợp nhiều loại đất, vốn đầu tư thấp, hợp khả năng kinh
tế với nhiều hộ gia đình nông dân nghèo, thiếu lao động. tận dụng đất để lấy ngắn
nuôi dài. Cây sắn cũng có khả năng cạnh tranh cao vì sử dụng hiệu quả tiền vốn,
đất đai, tận dụng tốt các loại đầt nghèo dinh dưỡng. Sắn đạt năng suất cao và lợi
nhuận khá nếu biết dùng giống tốt và trồng đúng quy trình canh tác sắn bền vững.
Sắn đựơc nông dân ưu trồng vì: có khả năng sử dụng tốt các đầt đã kiệt: cho năng

suất cao và ổn định, chi phí đầu tư thấp và sử dụng ít nhân công, thời gian thu
hoạch kéo dài nên thuận rải vụ. Nghề trồng sắn thích hợp với những hộ nông dân
nghèo, ít vốn.
Tinh bột sắn nhiều công dụng hơn, ngoài việc làm thực phẩm trực tiếp còn là
nguyên liệu không thể thiếu trong nhiều ngành công nghiệp lớn như để làm hồ, in,
định hình và hoàn tất trong công nghiệp dệt, làm bóng và tạo lớp phủ bề mặt cho
công nghiệp giấy.
Do đó việc nghiên cứu quy trình sản xuất của một nhà máy tinh bột sắn là
điều hết sức quan trọng. Được sự hướng dẫn của các cô trong khoa cùng với đội
ngũ công nhân viên tại nhà máy tinh bột sắn FOCOCEV chúng em đã có được
những bài học quý giá. Thông qua báo cáo thực tế này em xin chân thành gởi lời
cảm ơn đến quý cô giáo đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ em trong suốt quá trình
thực tế. Tuy đã rất cố gắng nhưng chắc chắn báo cáo của em còn rất nhiều thiếu
sót. Kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô giáo.
CHƯƠNG II: NỘI DUNG
PHẦN I: GIỚI THIỆU VỀ NHÀ MÁY TINH BỘT SẮN
FOCOCEV THỪA THIÊN HUẾ

Nhà máy tinh bột sắn FOCOCEV Thừa Thiên Huế đóng tại Km 802, quốc lộ
1A, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, diện tích mặt bằng sản
xuất 2592 m
2
là một doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo được thành lập
theo quyết định số 520/CT – HC ngày 30/04/2004 thực phẩm và đầu tư công nghệ
Bộ thương mại (nay là Bộ Công Thương). Nhà máy là một đơn vị sản xuất kinh
doanh, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế phụ thuộc. Với chức năng khai thác thu
mua nguyên liệu, tổ chức sản xuất sản phẩm tinh bột sắn. Bên cạnh đó, nhà máy có
chính sách khuyến khích ủng hộ các địa phương tăng diện tích trồng sắn thông qua
việc cử cán bộ đến từng địa bàn hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc cây sắn từ khi
trồng đến khi thu hoạch. Từ năm 2007 trở về trước, nhà máy có chủ trương đầu tư

vốn cho nông dân sản xuất cây sắn nhưng qua hơn 3 năm do điều kiện thời tiết, độ
màu mỡ của đất và đặc biệt người nông dân không chú tâm vào đầu tư phát triển
của cây sắn nên Công ty không thu hồi được đồng vốn dẫn đến thất thu lớn về sản
lượng và vốn đầu tư.
Từ năm 2008 công ty đã thu hẹp địa bàn đầu tư vốn, những địa bàn có diện
tích trồng sắn lớn, nhà máy hổ trợ một phần kinh phí về phân bón, cây giống…
Với chủ trương doanh nghiệp và nông dân cùng có lợi nên nhà máy đã có
nhiều biện pháp quản lý lao động chặt chẽ, tiết kiệm nhiên liệu sản xuất và phát
huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật áp dụng vào quá trình sản xuất nhằm mục đích giảm
chi phí sản xuất đem lại lợi nhuận cao hơn, đảm bảo giá mua vào phù hợp với
người nông dân khi tiêu thụ sản phẩm. Có như vậy nhà máy mới khuyến khích
được người nông dân đầu tư trồng cây sắn cung cấp cho nhà máy.
Năm 2009 nhà máy đã tập trung cải tiến kỹ thuật và áp dụng sáng kiến “Cải
tiến dây chuyền sản xuất” đã nâng công suất thiết bị từ 60 tấn (theo thiết kế) lên 90
đến 100 tấn trong 24 giờ sản xuất. Sáng kiến này tiết kiệm được chi phí sản xuất
hàng trăm triệu đồng và giảm nguồn nhân lực trong quá trình vận hành dây chuyền
sản xuất được Bộ Công Thương tặng Bằng khen.
Một trong những vấn đề quan tâm của nhà máy là đảm bảo vệ sinh môi
trường. Năm 2009 nhà máy đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải với kênh
mương dài 500 m và một hồ xử lý nước thải sản xuất của nhà máy rộng khoảng 5
ha, xung quanh được trồng cây xanh tốt.
Chính vì thế nước thải trước khi chảy ra mương tiêu đã xử lý độ pH, phun
E.M khử mùi, vận chuyển vỏ lụa đến bãi đổ, rác thải và chất thải sinh hoạt của nhà
máy được thu gom và chuyển đến xử lý tại nơi quy định.
Ngoài ra nhà máy còn nghiêm chỉnh thực hiện một số chương trình bảo vệ
môi trường như trồng cây ngăn mùi, cải thiện môi trường xung quanh hồ sinh học,
hàng ngày cho hóa chất vào để xử lý độ pH, bổ sung Enzim xử lý mùi hôi mỗi
ngày/lần; hút bùn toàn bộ bể lắng cát, bể lắng protein…
Cuối năm 2009 và đầu năm 2010 nhà máy tiến hành đầu tư hệ thống xử lý
nước thải và thu hồi khí Biogas giai đoạn 1 với tổng chi phí 1.623 triệu đồng nhằm

xử lý môi trường một cách triệt để hơn.
Nhờ những cố gắng trong thời gian qua, sự tân tiến của các thiết bị và kỹ
thuật sản xuất lành nghề năng động mà chất lượng, sản lượng tinh bột sắn của nhà
máy ngày càng được nâng cao và được các đối tác thu mua ưa chuộng. Hiện nay
khách hàng tiêu thụ sản phẩm của nhà máy chủ yếu là Trung Quốc chiếm 70%,
Malaysia 10% còn lại tiêu thụ trong nước 20%.
Trong 2 năm trở lại đây các chỉ số về thu mua và sản phẩm sản xuất của nhà
máy tăng đáng kể. Nếu năm 2008 nguyên liệu thu mua chỉ đạt 30.473 tấn thì năm
2009 đạt 55.000 tấn. Sản phẩm sản xuất năm 2008 đạt 7.897 tấn thì năm 2009 đạt
trên 11 ngàn tấn. Lợi nhuận sau thuế từ 150 đến 200 triệu đồng.
Sản xuất kinh doanh có hiệu quả nên những năm qua nhà máy có thêm điều
kiện chăm sóc sức khỏe người lao động. Các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm lao động và bảo hiểm thất nghiệp… luôn được lãnh đạo và kế
toán nhà máy thực hiện nghiêm túc. 100% cán bộ đã đăng ký Mã số thuế thực hiện
Luật thuế Thu nhập cá nhân. Năm 2009 bình quân thu nhập của CBCNV từ 1,8 đến
2 triệu đồng, có khen thưởng đối với cán bộ có sáng kiến cải tiến và chế độ về
lương, thưởng mỗi khi mùa vụ đến.
Sắn dễ trồng, hợp nhiều loại đất, vốn đầu tư thấp, hợp khả năng kinh tế với
nhiều hộ gia đình nông dân nghèo, thiếu lao động. tận dụng đất để lấy ngắn nuôi
dài. Cây sắn cũng có khả năng cạnh tranh cao vì sử dụng hiệu quả tiền vốn, đất đai,
tận dụng tốt các loại đầt nghèo dinh dưỡng. Sắn đạt năng suất cao và lợi nhuận khá
nếu biết dùng giống tốt và trồng đúng quy trình canh tác sắn bền vững. Sắn đựơc
nông dân ưu trồng vì: có khả năng sử dụng tốt các đầt đã kiệt: cho năng suất cao và
ổn định, chi phí đầu tư thấp và sử dụng ít nhân công, thời gian thu hoạch kéo dài
nên thuận rải vụ. Nghề trồng sắn thích hợp với những hộ nông dân nghèo, ít vốn
Với sự ra đời của nhà máy tinh bột sắn FOCOCEV trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế đã tạo điều kiện thuận lợi về mặt kinh tế và xã hội. Nhà máy cũng đã
giải quyết việc làm cho một bộ phận người dân, góp phần vào sự chuyển đổi cơ
cấu cây trồng trên những vùng đất khô hạn.Hiện nay, vùng nguyên liệu chủ yếu
của nhà máy là nguồn cung cấp ở các huyện trong tỉnh. Đặt biệt, các huyện có sản

lượng sắn cao nhất là Phong Điền, Hương Trà, Nam Đông, A Lưới.
Ngoài nhiệm vụ trọng tâm là sản xuất kinh doanh, nhà máy luôn quan tâm
đến hoạt động xã hội. Chi bộ đảng gồm có 7 đảng viên nòng cốt trong các tổ, đội
sản xuất. 90% cán bộ là đoàn viên, tổ chức công đoàn luôn chăm lo đến đời sống
công nhân lao động. Hàng năm chi phí hoạt động tình nghĩa, hỗ trợ gia đình chính
sách, khuyến học khuyến tài lên đến hàng chục triệu đồng.
PHẦN II: QUY TRÌNH SẢN XUẤT
TINH BỘT SẮN CỦA NHÀ MÁY
I.Nguyên liệu sản xuất:
Sắn (Manihot esculenta Crantz; tên khác: khoai mì, cassava, tapioca, yuca,
mandioca, manioc, maniok, singkong, ubi kayu, aipim, macaxeir, kappa,
maracheeni) là cây lương thực ăn củ hàng năm, có thể sống lâu năm, thuộc họ thầu
dầu Euphorbiaceae. Cây sắn cao 2 - 3 m, đường kính tán 50 - 100 cm. Lá khía
thành nhiều thùy, có thể dùng để làm thức ăn chăn nuôi gia súc. Rễ ngang phát
triển thành củ và tích luỹ tinh bột. Củ sắn dài 20 - 50 cm, khi luộc chín có màu
trắng đục, hàm lượng tinh bột cao. Sắn luộc chín có vị dẻo, thơm đặc trưng. Sắn có
thời gian sinh trưởng thay đổi từ 6 đến 12 tháng, có nơi tới 18 tháng, tùy thuộc
giống, vụ trồng, địa bàn trồng và mục đích sử dụng.
Nguồn gốc: Cây sắn có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới của châu Mỹ La tinh
(Crantz, 1976) và được trồng cách đây khoảng 5.000 năm (CIAT, 1993). Trung
tâm phát sinh cây sắn được giả thiết tại vùng đông bắc của nước Brazin thuộc lưu
vực sông Amazon, nơi có nhiều chủng loại sắn trồng và hoang dại (De Candolle
1886; Rogers, 1965). Trung tâm phân hóa phụ có thể tại Mexico ở Trung Mỹ và
vùng ven biển phía bắc của Nam Mỹ. Bằng chứng về nguồn gốc sắn trồng là
những di tích khảo cổ ở Venezuela niên đại 2.700 năm trước Công nguyên, di vật
thể hiện củ sắn ở cùng ven biển Peru khoảng 2000 năm trước Công nguyên, những
lò nướng bánh sắn trong phức hệ Malabo ở phía Bắc Colombia niên đại khoảng
1.200 năm trước Công nguyên, những hạt tinh bột trong phân hóa thạch được phát
hiện tại Mexico có tuổi từ năm 900 đến năm 200 trước Công nguyên (Rogers 1963,
1965).

Vùng phân bố: Hiện tại, sắn được trồng trên 100 nước của vùng nhiệt đới,
cận nhiệt đới, tập trung nhiều ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ, là nguồn thực phẩm
của hơn 500 triệu người (CIAT, 1993).
Sắn là cây trồng có nhiều công dụng trong chế biến công nghiệp, thức ăn gia
súc và lương thực thực phẩm. Củ sắn được dùng để chế biến tinh bột, sắn lát khô,
bột sắn nghiền hoặc dùng để ăn tươi. Từ sắn củ tươi hoặc từ các sản phẩm sắn sơ
chế tạo thành hàng loạt các sản phẩm công nghiệp như bột ngọt, rượu cồn, mì ăn
liền, gluco, xiro, bánh kẹo, mạch nha, kỹ nghệ chất dính (hồ vải, dán gỗ), bún,
miến, mì ống, mì sợi, bột khoai, bánh tráng, hạt trân châu (tapioca), phụ gia thực
phẩm, phụ gia dược phẩm. Củ sắn cũng là nguồn nguyên liệu chính để làm thức ăn
gia súc. Thân sắn dùng để làm giống, nguyên liệu cho công nghiệp xenlulô, làm
nấm, làm củi đun. Lá sắn non dùng làm rau xanh giàu đạm. Lá sắn dùng trực tiếp
để nuôi tằm, nuôi cá. Bột lá sắn hoặc lá sắn ủ chua dùng để nuôi lợn, gà, trâu bò,
dê,… Hiện tại, sản phẩm sắn ngày càng thông dụng trong buôn bán, trao đổi
thương mại quốc tế (P.Silvestre, M.Arraudeau, 1991).
Đặc điểm sinh học:
-Thân: thuộc loại cây gỗ cao từ 2 đến 3m, giữa than có lõi trắng và xốp nên rất yếu.
-Lá: thuộc loại lá phân thùy sau, có gân lá nổi rõ ở mặt sau, thuộc loại lá đơn mọc
xen kẽ, xếp trên than theo chiều xoắn ốc. Cuống lá dài từ 9 đến 20cm có màu xanh,
tím hoặc xanh điểm tím.
- Hoa: là hoa đơn tính có hoa đực và hoa cái trên cùng một chùm hoa. Hoa cái
không nhiều, mọc ở phía dưới cụm hoa và nở trước hoa đực nên cây luôn luôn
được thụphấn của cây khác nhờ gió và côn trùng.
- Quả là loại quả nang, có màu nâu nhạt đến đỏ tía, có hình lục giác, chia thành ba
ngăn, mỗi ngăn có một hạt, khi chín, quả tự khai.
- Rễ mọc từ mắt và mô sẹo cuả hom, lúc đầu mọc ngang sau đó cắm sâu xuống đất.
Theo thời gian chúng phình to ra và tích lũy bột thành củ.
- Củ khoai mì hai đầu nhọn, chiều dài biến động từ 25-200 cm, trung bình khoảng
40-50 cm. Đuờng kính củthay đổi từ2-25 cm, trung bình 5-7 cm. Nhìn chung, kích
thước cũng như trọng lượng củthay đổi theo giống, điều kiện canh tác và độ màu

của đất.
Thành phần dinh dưỡng: Củ sắn tươi có tỷ lệ chất khô 38-40%, tinh bột
16-32%, giàu vitamin C, calcium, vitamin B và các chất khoáng, nghèo chất béo,
muối khoáng, vitamin và nghèo đạm. trong củ sắn, hàm lượng các acid amin không
đươc cân đối, thừa arginin nhưng lại thiếu các acid amin chứa lưu huỳnh. Thành
phần dinh dưỡng khác biệt tuỳ giống, vụ trồng, số tháng thu hoạch sau khi trồng và
kỹ thuật phân tích. Lá sắn có hàm lượng đạm khá cao, nhiều chất bột, chất khoáng
và vitamin. Chất đạm của lá sắn có khá đầy đủ các acid amin cần thiết, giàu lysin
nhưng thiếu methionin. Trong lá sắn ngoài các chất dinh dưỡng, cũng chứa một
lượng độc tố [HCN] đáng kể. Các giống sắn ngọt có 80-110 mg HCN/ 1kg lá tươi.
Các giống sắn đắng chứa 160-240 mg HCN/ 1kg lá tươi. Lá sắn ngọt là một loại
rau rất bổ dưỡng nhưng cần chú ý luộc kỹ để làm giảm hàm lượng HCN. Lá sắn
đắng không nên luộc ăn mà nên muối dưa hoặc phơi khô để làm bột lá sắn phối
hợp với các bột khác làm bánh thì hàm lượng HCN còn lại không đáng kể.
Bảo quả sắn tươi: So với khoai tây và khoai lang thì sắn tươi khó bảo quản
hơn nhiều vì ngoài những quá trình sinh lý, hoá và sinh bệnh như khoai, còn có
bệnh chảy nhựa. Vì khó bảo quản nên các nước trồng nhiều sắn kể cả Mỹ cũng đào
đến đâu chế biến đến đó. Tuy nhiên khống chế điều kiện thích hợp cũng có thể bảo
quản được 1 -2 tháng. Sau thu hoạch, củ vẫn còn diễn ra những biến đổi về sinh
hoá nhưng rõ ràng quá trình phát triển bình thường đã bị phá vỡ nên hệ enzyme
trong củ hoạt động mạnh, quá trình hô hấp trao đổ chất cũng mạnh dần nên mất
nước và sức đề kháng của củ giảm. Củ sắn bắt đầu chảy nhựa, rồi nhiễm bệnh thối,
trọng lượng giảm do mất nước và do tổn that chất khô. Với những củ nguyên vẹn
quá trình hư hỏng diễn ra chậm hơn so với những củ bị gãy hay tróc. Để bảo quản
cần tạo điều kiện càng giống với điều kiện khi chưa đào thì càng bảo quản được
lâu. Tuy nhiên, từ 3 tháng trở đi, kể cả củ chưa đào điều có những biến đổi trong
nội tại củ như: mọc thêm rễ, phát triễn thêm những trế bào mới trong rễ. Để giữ
cho gần giống với điều kiện chưa đào tốt nhất là bảo quản lấp đất, cát hoặc để
trong hầm có điều kiện thông thoáng. Không nên chặt củ khỏi gốc, hoặc nếu chặt
thì chặt củ sát gốc để cuộng dài rồi đắp thành đống chỗ khô ráo, sau đó phủ cát

hoặc đất dày khoảng 15 – 25 cm. Chỉ nên bảo củ nguyên vein . Trong sản xuất tinh
boat có thể bảo quản bằng cách ngâm sâu trong nước, cứ vài ngày thay nước một
lần. Với phương pháp này cho phép dự trữ được một vài tháng
II.Quy trình sản xuất tinh bốt sắn:
a. Quy trình công nghệ:
Bóc vỏ sơ bộ
Rửa
Cắt khúc
Nghiền
Tách xác thô
Ly tâm tách nước
Sấy
Làm nguội
Bao gói
Tinh bột
Nguyên liệu
Tách dịch bào
Phểu tiếp liệu
b.Thuyết minh quy trình:
1. Chuẩn bị nguyên liệu:
Củ sắn tươi có hàm lượng tinh bột khác nhau, được kiểm tra nhanh bằng
thiết bị phòng thí nghiệm. Củ sắn được chứa trong sân rộng và chuyển vào phễu
chứa bằng băng tải. Trong quá trình vận chuyển theo băng tải, công nhân loại bỏ
rác, tạp chất thô. Thời gian xử lý sắn củ tươi từ khi thu hoạch đến khi đưa vào chế
biến càng nhanh càng tốt để tránh tổn thất tinh bột. Thực hành tại Việt Nam là
không quá 48 giờ. Thực hành tại một số nước trong khu vực không quá 24 giờ. Cổ
phễu tiếp liệu thường được chế tạo theo hình trụ, đáy hình chữ nhật với mặt
nghiêng đảm bảo cho nguyên liệu có thể trượt xuống. Cấu trúc phễu cứng và chắc,
cho phép đổ sắn củ đầy tới miệng phễu. Bên dưới phễu có đặt một sàng rung, sàng
này hoạt động tạo rung từtrục cam, quay bằng mô tơ điện. Sàng rung có nhiệm vụ

tiếp tục tách một phần tạp chất đất đá còn bám vào củsắn.
2.Rửa và làm sạch củ
Công đoạn này được tiến hành nhằm loại bỏ các tạp chất có trên vỏ củ sắn,
bao gồm các bước rửa sơ bộ, tách đất đá, tách vỏ cứng và rửa lại bằng nước. Máy
bóc vỏ được dùng để tách vỏ cứng ra khỏi củ. Củ sắn được đưa từ bồn chứa đến
máy bóc vỏ bằng một băng tải. Tại đây cát, đất đá và chất thải khác tiếp tục được
loại bỏtrong điều kiện ẩm. Máy bóc vỏ được thiết kế theo hình ống có gắn thanh
thép trên thành ống như một lồng xoáy có khe hở rộng
khoảng 1cm, mặt trong của máy có gờ xoáy giúp cho việc đưa củ đến một cách
tự động. Để tăng hiệu quả loại bỏ đất cát có thể dùng gờ xoáy dạng bàn chải.
Thông thường sắn phải được loại cả vỏ cứng và vỏ lụa (dày khoảng 2-3mm) là
nơi có chứa đến 50% là tinh bột và hầu hết lượng axit hydroxyanic HCN.
Củ sắn sau khi bóc vỏ được chuyển đến máy rửa. Quá trình rửa được tiến
hành bằng cách phun nước lên nguyên liệu sắn củ với những bánh chèo đặt trong
một máng nước. Máng nước trong máy rửa được thiết kếhình chữU, cho phép củ
sắn di chuyển với khoảng cách dài hơn, trong thời gian lâu hơn. Tại đây, quá trình
rửa và làm sạch có nhiệm vụ loại bỏ lớp vỏ ngoài cũng như mọi tạp chất khác.
Công đoạn rửa nên sử dụng vòi phun áp lực cao để tăng hiệu quả rửa. Nếu quá
trình rửa không đạt hiệu quả cần thiết, các hạt bùn dính trên củ sắn sẽlà nguyên
nhân làm giảm độ trắng của dịch sữa và sản phẩm.
Nước rửa và nước dùng để bóc vỏ có thể được lấy từ các máy phân ly tinh
bột. Nước rửa tái sửdụng được chứa trong bể chứa trước khi dung. Công đoạn này
được tiến hành nhằm loại bỏ các tạp chất có trên vỏ củ sắn, bao gồm các bước rửa
sơ bộ, tách đất đá, tách vỏ cứng và rửa lại bằng nước.
Máy bóc vỏ được dùng để tách vỏ cứng ra khỏi củ. Củ sắn được đưa từ bồn
chứa đến máy bóc vỏ bằng một băng tải. Tại đây cát, đất đá và chất thải khác tiếp
tục được loại bỏtrong điều kiện ẩm. Máy bóc vỏ được thiết kế theo hình ống có gắn
thanh thép trên thành ống như một lồng xoáy có khe hở rộng khoảng 1cm, mặt
trong của máy có gờ xoáy giúp cho việc đưa củ đến một cách tự động.
Lồng bóc vỏ (Năng suất công đoạn : 10 đến 15 tấn củ/h

Hiệu suất làm sạch : trên 90%)
Để tăng hiệu quả loại bỏ đất cát có thể dùng gờ xoáy dạng bàn chải. Thông
thường sắn phải được loại cả vỏcứng và vỏ lụa (dày khoảng 2-3mm) là nơi có chứa
đến 50% là tinh bột và hầu hết lượng axit hydroxyanic HCN. Củ sắn sau khi bóc
vỏ được chuyển đến máy rửa. Quá trình rửa được tiến hành bằng cách phun nước
lên nguyên liệu sắn củ với những bánh chèo đặt trong một máng nước. Máng nước
trong máy rửa được thiết kế hình chữ U, cho phép sắn di chuyển với khoảng cách
dài hơn, trong thời gian lâu hơn. Tại đây, quá trình rửa và làm sạch có nhiệm vụ
loại bỏ lớp vỏ ngoài cũng như mọi tạp chất khác. Công đoạn rửa nên sử dụng vòi
phun áp lực cao để tăng hiệu quả rửa. Nếu quá trình rửa không đạt hiệu quả cần
thiết, các hạt bùn dính trên củ sắn sẽ là nguyên nhân làm giảm độ trắng của dịch
sữa và sản phẩm. Nước rửa và nước dùng để bóc vỏ có thể được lấy từ các máy
phân ly tinh bột. Nước rửa tái sử dụng được chứa trong bể chứa trước khi dung.
Củ sắn tươi sau khi rửa được băng tải chuyển đến công đoạn sau. Sau công
đoạn rửa, 1000 kg sắn củ tươi cho khoảng 980 kg sắn sạch.
3.Băm và mài củ
Mục đích của quá trình này nhằm làm vỡ củ, tạo thành các mảnh nhỏ, làm
tăng khả năng tinh bột hoà trong nước và tách bã. Củ sắn khi ra khỏi máy rửa, qua
băng tải, được băm thành những mảnh nhỏ khoảng 10 – 20 mm tại máy băm. Máy
băm được gắn 2 bộ lưỡi, bộ thứ nhất có 20 lưỡi cố định, theo cấu trúc chuẩn của
khoảng cách khe, bộ thứ 2 gồm 21 lưỡi gắn với một trục chính ở 4 góc khác nhau.
Trục chính được chuyển động bằng mô tơ điện 240 vòng/ phút.
Sau khi băm, nguyên liệu được chuyển vào máy mài bằng vít tải và bộ phận
phân phối dăm. Việc mài củ đạt hiệu quả là yếu tố cần thiết để cho sản lượng tinh
bột cao. Máy mài có một rôto được chế tạo bằng thép không rỉ, có các rãnh để giữ
các lưỡi mài. Rôto này đặt trong hộp vỏ để bềmặt mài tạo thành vách đứng có thể
chứa củ, đối diện với mặt mài là một đệm chèn cho phép điều chỉnh kích thước bột
mài. Bằng cách chèn bộ đệm này, cũ sắn tươi sẽ được mài trên bề mặt lưỡi mài. Bã
sắn được đẩy ra từ các khe hở ở đáy.Trong quá trình mài, nước được đưa vào phễu
nhằm giảm nhiệt lượng sinh ra và đẩy bã sắn ra khỏi máy. Trong quá trình này,

HCN trong củ sắn ở trạng thái tự do, hoà tan dần trong nước đến khi không còn
trong sản phẩm. Sự tiếp xúc của axit này với sắt dễ hình thành chất ferocyanide
làm cho dịch tinh bột sắn có màu hơi xanh lơ. Do vậy, ở công đoạn này, tất cả các
bộphận thiết bị có tiếp xúc với dịch tinh bột sắn cần được làm bằng thép không rỉ.
Dịch sữa tạo thành sau quá trình này được bơm sang công đoạn tiếp theo.
4.Ly tâm tách bã
Ly tâm được thực hiện nhằm cô đặc dịch sữa và loại bã xơ. Tẩy màu được
tiến hành ngay sau khi hình thành dịch sữa. Trong quá trình này, tinh bột được tách
khỏi sợi xenluloza, làm sạch sợi mịn trong bột sữa và tẩy trắng tinh bột để tránh
lên men và làm biến màu. Mục đích ly tâm tách bã là tách tinh bột ra khỏi nước và
bã. Để tẩy trắng tinh bột, có thể dùng các hợp chất SOx có tính oxy mạnh
(NaHSO
3
38% hoặc dung dịch SO
2
) để tẩy màu. Có thể sử dụng dung dịch có tên
thương mại SMB với thành phần chính là nước và NaHSO
3
. SMB đang được sử
dụng phổ biến để tẩy trắng trong sản xuất tinh bột nhằm thay thế công nghệ sử
dụng clo hoặc đốt lưu huỳnh để tạo ra SO
2
trước đây. Ưu điểm của SMB so với clo
và lưu huỳnh là giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí, nước. Thông thường
việc tách bã được tiến hành 3 lần bằng công nghệ và thiết bị ly tâm liên tục. Dịch
sữa được đưa vào bộ phận rổ hình nón và có những vòi phun nước vào bã trong
suốt quá trình rửa bã và hoà tan tinh bột. Phần xơ thu hồi, sau khi đã qua giai đoạn
lọc cuối cùng, có chứa 90 - 95% là nước và một tỷlệ thấp là tinh bột còn sót lại.
Đây là điều kiện thuận lợi để tách bã và tinh bột. Do vậy, tinh bột sữa sau khi đi
qua bộ phận ly tâm đầu tiên với kích thước khe hở hợp lý sẽ được tiếp tục bơm qua

các bộ phận ly tâm tiếp theo. Bộphận ly tâm gồm có 2 công đoạn và được thiết kế
với sàng rây mịn. Trong các bộphận ly tâm này thường có bộphận lọc mịn và bộ
phận lọc cuối để thu hồi triệt để tinh bột. Phần xơ mịn được loại bỏ sẽ dùng làm

×