Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

đánh giá khả năng sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng dưới tán rừng thông mã vĩ ở lục ngạn - bắc giang làm cơ sở chuyển hoá rừng thông thuần loài thành rừng hỗn loài bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 84 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




























ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM









LÊ ĐẮC THẮNG





ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG CỦA MỘT SỐ LOÀI
CÂY BẢN ĐỊA TRỒNG DƢỚI TÁN RỪNG THÔNG MÃ VĨ
(Pinus massoniana Lamb) Ở LỤC NGẠN - BẮC GIANG
LÀM CƠ SỞ CHUYỂN HOÁ RỪNG THÔNG THUẦN
LOÀI THÀNH RỪNG HỖN LOÀI BỀN VỮNG





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP











THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

2





























ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM







LÊ ĐẮC THẮNG





ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG CỦA MỘT SỐ LOÀI
CÂY BẢN ĐỊA TRỒNG DƢỚI TÁN RỪNG THÔNG MÃ VĨ
(Pinus massoniana Lamb) Ở LỤC NGẠN - BẮC GIANG
LÀM CƠ SỞ CHUYỂN HOÁ RỪNG THÔNG THUẦN
LOÀI THÀNH RỪNG HỖN LOÀI BỀN VỮNG


Chuyên ngành: Lâm học

Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
T.S Nguyễn Huy Sơn





THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

3

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tính đến 31/12/2009, tổng diện tích rừng nƣớc ta đã tăng lên hơn 13
triệu ha, trong đó rừng tự nhiên chiếm hơn 10,34 triệu ha và rừng trồng 2,92
triệu ha, độ che phủ của rừng tăng lên 39,1% [1]. Tuy diện tích cũng nhƣ độ
che phủ của rừng tăng lên khá rõ nhƣng chất lƣợng của rừng còn thấp, phần
lớn rừng tự nhiên là rừng nghèo kiệt, trữ lƣợng thấp dƣới 90m
3
/ha, những loài
cây gỗ có giá trị kinh tế còn lại rất ít, khả năng tái sinh kém, tăng trƣởng rất
chậm, bình quân mỗi năm đạt 3 - 4m
3

/năm [17]. Rừng trồng hiện nay chủ yếu
là rừng trồng thuần loài với các loài cây ƣa sáng mọc nhanh nhƣ Thông, Keo,
Bạch đàn , do trồng thuần loài nên gần đây đã xuất hiện dịch sâu, bệnh hại
hàng loạt nhƣ dịch sâu róm và bệnh tuyến trùng ở Thông, bệnh đốm và cháy
lá ở Bạch đàn và bệnh phấn hồng ở Keo Đặc biệt, đối với loài Thông thì
việc trồng rừng thuần loài đã chứng tỏ không bền vững, thƣờng xuyên bị sâu
bệnh hại mà điển hình là sâu róm Thông đã xảy ra ở nhiều nơi trong những
năm vừa qua. Để phát triển rừng theo hƣớng bền vững, đa dạng hoá nguồn
sản phẩm từ việc trồng nhiều cây gỗ có giá trị khác nhau, hạn chế đƣợc sự
bùng phát dịch bệnh, cải thiện môi trƣờng sinh thái, việc gây trồng một số
loài cây bản địa dƣới tán rừng Thông nhằm chuyển hoá rừng Thông thuần
loài thành hỗn loài bền vững là cần thiết.
Dự án trồng rừng Việt - Đức đã đƣợc đầu tƣ ở nhiều nơi, trong đó có Lục
Ngạn - Bắc Giang, đã trồng đƣợc là 3.313,48 ha [2] nhƣng chủ yếu là trồng
thuần loài Thông mã vĩ (Pinus massoniana) và trồng hỗn loài Thông mã vĩ
(Pinus massoniana) với Keo lá tràm (A.auriculifomis), sau 5 - 7 năm chặt Keo
lá tràm trở thành rừng Thông thuần loài.
Chính vì vậy, với mục tiêu xây dựng các mô hình rừng trồng hỗn loài
giữa Thông mã vĩ với các loài cây lá rộng bản địa để phát triển bền vững cả
về kinh tế, xã hội và môi trƣờng sinh thái ở các địa phƣơng thực hiện dự án là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

4

một chủ trƣơng đúng đắn. Dự án đã tiến hành trồng một số loài cây bản địa
nhƣ Lim xanh (Erythrophleum fordii), Trám trắng (Canarium album), Re
gừng (Cinamomum ilcidioides), Sồi phảng (Lithocarpus fissus), Giẻ cau
(Quecus platycalyx), Kh¸o vµng (Machilus bonii). Kết quả bƣớc đầu cho thấy
các loài cây này đã tỏ ra sinh trƣởng khá tốt dƣới tán rừng Thông mã vĩ.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đặt ra, việc “Đánh giá khả năng sinh

trưởng của một số loài cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ ở Lục
Ngạn - Bắc Giang làm cơ sở chuyển hoá rừng Thông thuần loài thành rừng
hỗn loài bền vững” là cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa cả khoa học và thực tế
sản xuất hiện nay.
















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

5

Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài
Kết quả nghiên cứu ở nhiều nƣớc trên thế giới cho thấy rừng trồng thuần
loài đã bộc lộ nhiều nhƣợc điểm. Vì vậy, các nhà khoa học trên thế giới đã

quan tâm nghiên cứu xây dựng các mô hình rừng trồng hỗn loài nhằm kinh
doanh rừng theo hƣớng bền vững, nhất là trong giai đoạn biến đổi khí hậu
toàn cầu hiện nay.
Nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài đã đƣợc các nƣớc Châu Âu tiến hành
từ những năm đầu thế kỷ 19. Điển hình là công trình nghiên cứu của
Tikhanop (1872), tác giả đã sử dụng 2 loài cây là: Quercus sp và Ulmus
campestris với kiểu hỗn loài có tên gọi là Donsk. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa
hai loài cây này có phù hợp với nhau hay không thì chƣa đƣợc quan tâm
nghiên cứu, do đó loài Ulmus campestris với đặc tính sinh trƣởng nhanh hơn
nên sau khi trồng vài năm đã lấn át loài Quercus sp. Để giải quyết mối quan
hệ này, Polianxki (1884) đã cải tiến kiểu hỗn loài Donsk, song vẫn chƣa thành
công [15]. Một số tác giả khác nhƣ Kharitonovis (1950); Grixenco (1951);
Timofeev (1951); Encova (1960) và các cộng sự đã phân tích nguyên nhân
thất bại của kiểu Donsk và chỉ ra rằng các Phitonxit của loài Ulmus
campestris đã tác động xấu tới loài cây Quercus sp nên chúng sinh trƣởng rất
kém. Nghiên cứu về ảnh hƣởng tƣơng hỗ giữa các loài, các tác giả cho rằng
sự cảm nhiễm tƣơng hỗ là yếu tố quan trọng khi lý giải cơ chế cạnh tranh sinh
học của thực vật [28]. Trên cơ sở nghiên cứu tạo rừng hỗn loài giữa Quercus
sp và Fraxnus sp, JB.Ball, T.J Wormald (1994) cho thấy sinh trƣởng của
Quercus sp trồng hỗn loài tốt hơn Quercus sp trồng thuần loài. Ngoài ra, khi
trồng Quercus sp hỗn loài với các loài cây khác theo băng hẹp (3 - 4 hàng)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

6

hoặc theo hàng cũng thấy Quercus sp sinh trƣởng tốt hơn khi trồng thuần loài
[29].
Ở Kasma Forest Technology Centre (Nhật Bản) [27] đã thiết lập hàng
loạt các mô hình rừng nhiều tầng tán bao gồm nhiều loài cây và ở nhiều cấp
tuổi, trồng ở một số mật độ khác nhau, đặc biệt ở vùng Tsucuba với độ cao

dƣới 876m so với mực nƣớc biển đã trồng loài cây Tuyết tùng (Japanese
ceder) để tạo ra các lâm phần bền vững có giá trị, các nhà nghiên cứu ở đây
nhận thấy có ảnh hƣởng lẫn nhau giữa các loài cây khi trồng rừng hỗn giao
với nhau và ảnh hƣởng của môi trƣờng tới từng loài cây trồng. Khi nghiên
cứu về trồng rừng hỗn loài, các tác giả trên đều cho rằng việc bố trí các loài
cây trong mô hình rừng trồng hỗn loài thƣờng có ảnh hƣởng khá rõ tới sinh
trƣởng của chúng tuỳ theo đặc điểm từng loài và cự ly trồng từng cá thể.
Đặc điểm nổi bật của rừng hỗn loài là có kết cấu nhiều tầng tán. Vì thế
nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng đã đƣợc một số nhà khoa học trên thế
giới quan tâm. Khi nghiên cứu về cấu trúc tầng tán của lâm phần hỗn loài,
Bernar Dupuy (1995) đã cho thấy rằng kết cấu tầng tán của rừng trồng hỗn
loài phụ thuộc vào đặc điểm sinh trƣởng và tính hợp quần của các loài cây
trong lâm phần [25]. Điều này cho thấy để tạo đƣợc các mô hình rừng trồng
hỗn loài có cấu trúc hợp lý, tận dụng đƣợc tối đa không gian dinh dƣỡng thì
cần phải dựa vào đặc điểm sinh thái cũng nhƣ phải quan tâm đến mối quan hệ
qua lại giữa các loài cây để lựa chọn các loài cây trồng cho phù hợp. Đây là
những cơ sở quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của các mô
hình rừng trồng hỗn loài.
Ở Malaysia (1999) đã nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng bằng
nhiều phƣơng thức khác nhau. Tuỳ theo các đối tƣợng khác nhau là rừng tự
nhiên hay rừng trồng Keo tai tƣợng (Acacia mangium) 10 - 15 tuổi hoặc rừng
trồng Keo tai tƣợng 2 - 3 tuổi mà mở các băng chặt và băng chừa khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

7

Chiều rộng băng chặt và chừa từ 6m (chặt 1 hàng) đến 60m (chặt 20 hàng).
Thời gian đƣa các loài cây bản địa vào trồng hỗn loài trong các băng chặt
cũng rất khác nhau, từ 1 - 7 năm sau khi mở băng chặt. Các loài cây bản địa
đƣa vào trồng trong các băng chặt tƣơng đối phong phú, từ 14- 23 loài cây

khác nhau với số hàng từ 3 đến 16 hàng. Kết quả cho thấy các loài cây bản
địa đƣợc trồng trong các băng có 3 loài cây khả năng sinh trƣởng chiều cao và
đƣờng kính tốt nhất là Shorea roxburrghii; Shorea ovalis; Shorea leprosula.
Sinh trƣởng chiều cao của các loài cây trồng trong băng 10m và 40m tốt hơn
băng 20m. Khu trồng theo băng có sinh trƣởng chiều cao tốt nhất ở công thức
trồng 1 hàng Keo xen 1 hàng cây bản địa. Kết quả nghiên cứu này còn đƣa ra
khuyến nghị điều chỉnh quá trình sinh trƣởng của các mô hình thí nghiệm
theo 8 thời điểm từ 2 - 47 năm sau khi trồng [30]. Nhƣ vậy, đây là một trong
những công trình nghiên cứu tạo rừng hỗn loài ở nƣớc ngoài tƣơng đối toàn
diện về các biện pháp kỹ thuật, từ việc chọn loài cây trồng đến nghiên cứu
phƣơng thức trồng, thời điểm trồng và sự điều chỉnh mô hình theo quá trình
sinh trƣởng trong thời gian dài. Do đó những mô hình thí nghiệm này hứa hẹn
nhiều thành công trong tƣơng lai và có thể áp dụng mở rộng trong sản xuất.
Qua những nghiên cứu trên cho thấy cây bản địa đã đƣợc nhiều tác giả
quan tâm và đã đƣợc lựa chọn để trồng rừng, về phƣơng thức trồng có thể
trồng theo băng hoặc theo đám để tận dụng không gian dinh dƣỡng, các
nghiên cứu về ảnh hƣởng lẫn nhau khi trồng rừng hỗn giao. Tuy nhiên, các
nghiên cứu trên chƣa đề cập đến ảnh hƣởng của độ tàn che của tầng cây cao
đến sinh trƣởng của loài cây khác trồng dƣới tán. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu ảnh hƣởng của độ tàn che đến sinh trƣởng của cây bản địa trồng dƣới tán
và biện pháp gây trồng một số loài cây bản địa là cần thiết, đặc biệt đối với
loài cây bản địa tại Việt Nam.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

8

1.1.2. Những nghiên cứu về rừng Thông thuần loài
Nghiên cứu rừng Thông thuần loài cũng đã đƣợc nhiều tác giả trên thế
giới quan tâm và đã đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, điển

hình một số công trình nghiên cứu sau:
Bolstad và cộng sự (1988) [24] cũng đã tìm thấy một vài loại phân bón
mang lại hiệu quả tích cực cho rừng trồng thông P. caribeae ở Colombia nhƣ
potassium, phosphate, boron và magnesium. Khi nghiên cứu phân bón cho
trồng rừng thông P. caribeae ở Cu ba, Herrero và cộng sự (1988) [26] cũng
cho thấy bón phosphate nâng cao sản lƣợng rừng từ 56 lên 69m
3
/ha sau 13
năm trồng.
Ở Thái Lan từ năm 1969 – 1974 ngƣời ta đã nghiên cứu ảnh hƣởng của
đất, phân bón và kỹ thuật lâm sinh đến khả năng sinh trƣởng của loài Thông
nhựa kết quả cho thấy điều kiện lập địa, phân bón và kỹ thuật trồng có ảnh tới
khả năng sinh trƣởng loài cây Thông nhựa [31]. Ở Swaziland cũng đã chọn
đƣợc giống Pinus patuna sau 15 năm tuổi trồng thuần loài đạt 19m
3
/ha/năm
[32].
Điểm qua một vài công trình nghiên cứu trên cho thấy các công trình
nghiên cứu chủ yếu tập chung vào vấn đề ảnh hƣởng của phân bón và điều
kiện lập địa nhằm nâng cao năng xuất chất lƣợng rừng Thông trồng thuần
loài. Các nghiên cứu trên chƣa đề cập tới việc phối hợp các loài Thông với
cây trồng khác, đặc biệt là trồng một số loài cây bản địa dƣới tán rừng Thông.
1.2. Ở VIỆT NAM
1.2.1. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa
Ở Việt Nam, vấn đề trồng rừng hỗn loài đã đƣợc các nhà khoa học quan
tâm từ rất sớm, điển hình là công trình nghiên cứu của Maurand (ngƣời Pháp)
ở Đồng Nai vào những năm 30 của thế kỷ trƣớc, tác giả đã sử dụng các loài
Sao đen (Hopea odorata), Dầu rái (Dipterocarpus alatus) và Vên vên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


9

(Anisoptera costata) để xây dựng các mô hình trồng rừng hỗn loài, cho đến
nay các mô hình này vẫn còn giá trị tham khảo nhất định. Trong giai đoạn
1930-1980 có rất ít các công trình nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài và
nghiên cứu chọn loài cây trồng cũng chỉ tập trung cho một số loài cây thuộc
họ Dầu. Từ năm 1985 đến nay, việc nghiên cứu trồng rừng hỗn loài bằng các
loài cây bản địa đƣợc triển khai nhiều hơn kể cả số lƣợng loài cây và diện tích
rừng trồng. Trong giai đoạn này nhiều loài cây lá rộng bản địa đã đƣợc lựa
chọn để nghiên cứu cho các vùng sinh thái trong cả nƣớc. Các loài cây lá rộng
bản địa đƣợc lựa chọn để nghiên cứu trồng rừng hỗn loài chủ yếu là các loài
có giá trị kinh tế cao. Một số loài cây bản địa đƣợc lựa chọn cho vùng Tây
nguyên và Nam bộ nhƣ: Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), Cẩm lai (Dalbergia
oliveri), Căm xe (Xylia xylocarpa), Tếch (Tectona grandis) và đƣợc trồng
chủ yếu tại các trạm thực nghiệm Trảng Bom tỉnh Đồng Nai, Lang Lanh và
Măng Linh tỉnh Lâm Đồng, Ekmat tỉnh Đắc Lắc, Tân Tạo Thành Phố Hồ Chí
Minh. Ở miền Bắc, các loài cây chủ yếu đƣợc lựa chọn để trồng rừng hỗn loài
là Lim xanh (Erythurophleum fordii), Lim xẹt (Peltophorum tonkinnensis),
Giổi xanh (Mechelia mediocris), Re gừng (Cinamomum ilcidioides), Mỡ
(Manglietia conifera), Bồ đề (Styrax tonkinensis), Lát hoa (Chukrasia
tabularis), Ràng ràng mít (Ormosia balansae), Xoan đào (Prunus arborea),
Vạng trứng (Endospermum chinense)
Nguyễn Bá Chất (1995) [4], khi nghiên cứu rừng phục hồi ở Sông Hiếu
(1981 - 1985) đã thí nghiệm gây trồng rừng hỗn loài Lát hoa (Chukrasia
tabularis) với các loài cây bản địa lá rộng khác nhƣ: Lim xẹt (Peltophorum
tonkinnensis), Giổi (Michelia sp), Thôi chanh (Evodia bodinieri), Lõi thọ
(Gmelia arbores) nhằm tạo ra cấu trúc hợp lý. Sau 10 năm, kết quả cho
thấy Lát hoa trồng hỗn loài tốt hơn khi trồng thuần loài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


10

Trần Ngũ Phƣơng (2000) [23] cũng đã nghiên cứu xây dựng các mô hình
trồng rừng hỗn loài tạo ra rừng nhiều tầng tán nhằm mục đích cho phòng hộ
và sản xuất thông qua các phƣơng thức hỗn loài khác nhau nhƣ hỗn loài giữa
cây cao với cây bụi, hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Căn cứ kết quả của các
công trình nghiên cứu các quy luật chủ yếu ở rừng tự nhiên ở miền Bắc Việt
Nam, tác giả đã chỉ ra rằng thảm thực vật rừng ở nƣớc ta đều phân thành
nhiều tầng, từ 2 đến 3 tầng cây gỗ chƣa kể tầng cây nhỡ và thảm tƣơi. Dựa
trên quy luật đó tác giả đã đề xuất mô hình trồng rừng hỗn loài đáp ứng mục
tiêu phòng hộ đầu nguồn cho các vùng xung yếu, trong đó có 2 mô hình hỗn
loài nổi bật là mô hình rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng và rừng sản
xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng.
Một thí nghiệm trồng rừng hỗn loài khác là trồng theo đám ở Trƣờng đại
học Lâm nghiệp (Phạm Xuân Hoàn, 2004) [11], đã sử dụng 165 loài cây bản
địa trồng dƣới tán của Thông và Keo, trong đó dƣới tán rừng Thông mã vĩ
(Pinus massoniana) là 27 loài, dƣới tán rừng Keo lá tràm (Acacia
auriculifomis) là 21 loài, số còn lại trồng dƣới tán của trạng thái rừng hỗn
giao Thông mã vĩ với Keo lá tràm, Thông mã vĩ với Keo tai tƣợng, Bạch đàn
tỉ lệ sống của các loài cây bản địa dƣới tán rừng Thông đƣợc đánh giá đạt
93,2% và dƣới tán rừng Keo đạt 91,2%. Tăng trƣởng thƣờng xuyên và tăng
trƣởng bình quân của cây bản địa có sự phân hoá khác nhau khá rõ ràng ở các
loài. Đặc biệt, đáng chú ý một số loài thƣờng đƣợc đánh giá sinh trƣởng chậm
nhƣ: Re hƣơng (Cinnammomun inners), Lim xanh (Erythurophleum fordii)
nhƣng ở giai đoạn còn nhỏ có khả năng chịu bóng tốt dƣới tán rừng Thông,
Keo lại sinh trƣởng tốt và rất có triển vọng.
Mô hình trồng rừng hỗn loài Keo trắng (Paraserianthes falcataria) và
Lõi thọ (Gmelia arboria) ở Lƣơng Sơn – Hoà Bình cũng đã đƣợc Hoàng Văn
Thắng và cộng sự (2005) [18] nghiên cứu và kết quả cho thấy sau nƣơng rẫy,
S húa bi Trung tõm Hc liu - i hc Thỏi Nguyờn


11

cú dc t 15
0
n 20
0
, trng hn giao theo bng, c Keo trng v Lừi th
u sinh trng tt, cha thy xut hin sõu bnh hi v Lừi th hin nay ó
bt u ra hoa v cú th chuyn hoỏ thnh rng ging.
Xỏc nh loi cõy bn a cho tng vựng sinh thỏi cng l ni dung quan
trng trong xõy dng rng hn loi. Vit Nam nghiờn cu cỏc loi cõy bn
a cho mi vựng sinh thỏi cng ó c mt s tỏc gi quan tõm, mt s
cụng trỡnh nghiờn cu in hỡnh cú th k n nh sau:
Phựng Ngc Lan (1994) [12] nghiờn cu c tớnh ca loi lim xanh
(Erythurophleum fordii) ó xỏc nhn vựng phõn b ca loi Lim xanh rt rng
cú mt hu ht cỏc tnh trong c nc vi cao phõn b t 900m tr
xung phớa Nam v 500m tr xung phớa Bc. Sinh trng thớch hp
i bỏt ỳp, dc nh hn 20
0
hoc chõn i, chõn nỳi dc t.
Theo Hong Hoố v Trn Xuõn Thip (1999) thỡ nc ta cú khong
250 loi cõy bn a v nhp ni ó v ang c s dng trng rng [19].
Nh vy, vic to lp cỏc lõm phn rng trng núi chung v cỏc lõm phn
rng trng hn loi núi riờng nc ta ó chn ra c nhiu loi cõy trng
phự hp cho cỏc vựng sinh thỏi trong c nc. ú l c s khoa hc quan
trng cho vic xõy dng v nõng cao nng sut cht lng rng trng nc
ta.
Qua nhiu nm nghiờn cu, Vin khoa hc Lõm nghip Vit Nam (2000)
[21] ó a ra trờn 100 loi cõy bn a cho cỏc chng trỡnh trng rng phc

hi c 3 loi rng l rng sn xut, phũng h v c dng.
Ngoi cỏc cụng trỡnh nghiờn cu ó nờu, Chng trỡnh 327, D ỏn 661
cng to ra nhiu mụ hỡnh trng rng hn loi vi cỏc loi cõy bn a lỏ
rng, trong ú ch yu l to rng phũng h cho cỏc vựng xung yu trong c
nc. Trong các mô hình này hầu hết đều sử dụng các loài cây phù trợ nh-
Keo tai t-ợng (Acacia mangium), Keo Lá tràm (Acacia auriculiformis), Keo
S húa bi Trung tõm Hc liu - i hc Thỏi Nguyờn

12

lai (Acacia mangium x Acaccia auriculiformis), Muồng đen (Cassia siamea),
với tỷ lệ hỗn loài là 600 cây bản địa và 1000 cây phù trợ/ha. Tuy nhiên, việc
điều chỉnh tán che của các loài cây phù trợ trong các mô hình rừng trồng hỗn
loài đã ch-a đ-ợc quan tâm nghiên cứu và điều chỉnh kịp thời nên các loài cây
trồng chính có tỷ lệ sng rt thấp và th-ờng sinh tr-ởng kộm. Đây cũng là tồn
tại chung của hầu hết cỏc mụ hỡnh trong cỏc d ỏn 327 v 661.
Nghiờn cu phng thc v phng phỏp hn loi cng ang c nhiu
tỏc gi quan tõm. Thc t cho thy cỏc mụ hỡnh rng trng hn loi nc ta
n nay ch yu l ỏp dng theo phng thc trng rng hn loi gia cõy
cao vi cõy cao. in hỡnh l thớ nghim trng rng hn loi theo hng gia
M (Manglietia conifera) vi cỏc loi cõy Lim xanh (Erythurophleum fordii),
X c (Khaya senegalensis), Tch (Tectona grandis) [22]. Trong mt cụng
trỡnh nghiờn cu khỏc trng rng g lng Tõy Nguyờn, Nguyn Xuõn Quỏt
v cng s (1990) ó s dng cõy u trm (Indigofera teysmanii) nh l mt
cõy phự tr cho Tch (Tectona grandis), kt qu cho thy Tch trng xen vi
cõy u trm giai on u sinh trng khỏ tt, hỡnh thõn p v thng, kh
nng phõn cnh ớt. Hn na, c di di tỏn rng trng cng hn ch phỏt
trin hn ni Tch trng thun loi [14]; Nghiờn cu to rng hn loi gia
cõy lỏ kim (Thụng uụi nga) v cõy lỏ rng (Keo lỏ trm v Bch n trng)
Nỳi Lut - Xuõn Mai ca Phựng Ngc Lan (1986) [13]; Nghiờn cu thit

lp rng trng hn loi gia cỏc loi cõy a sỏng Bch n trng (Eucalyptus
camaldu) v Keo lỏ trm (Acaccia auriculiformis) ca Nguyn Hu Vnh v
cỏc cng tỏc viờn (1991-1993) [20]. Hu ht cỏc cụng trỡnh nghiờn cu ny
u ỏp dng phng phỏp trng hn loi theo hng hoc theo bng. Cỏc kt
qu nghiờn cu ca cỏc cụng trỡnh ny cho thy dự c xõy dng theo
phng thc v phng phỏp no thỡ rng trng hn loi u to iu kin
S húa bi Trung tõm Hc liu - i hc Thỏi Nguyờn

13

cho cỏc loi cõy bn a sinh trng tt hn v rng trng cú tớnh bn vng
cao hn c v kinh t v mụi trng so vi rng trng thun loi.
Khi nghiờn cu cỏc phng thc phc hi rng th sinh nghốo kit,
Nguyn Bỏ Cht (1981-1985) [6] ó cho thy sinh trng ca Lỏt hoa
(Chukrasia tabularis) trng hn loi tt hn rng Lỏt hoa trng thun loi.
Hn na, cỏc loi cõy khỏc trong rng th sinh cng cú kh nng tỏi sinh
phc hi tt hn.
Dự án trồng rừng hỗn loài các loài cây gỗ giá trị cao để cung cấp gỗ và
tăng c-ờng các dịch vụ cộng đồng gia Việt Nam và Australia (2002-2006) đã
thiết lập rừng trồng hỗn loài giữa các loài cây nhập nội và cây bản địa với các
thời điểm hỗn loài khác nhau tại 3 địa điểm: i) Đoan Hùng - Phú Thọ: trồng
cùng thời điểm các loài Bạch đàn urophylla, gồm có Giổi xanh (Mechelia
mediocris), Lát hoa (Chukrasia tabularis) và Trám trắng (Canarium album);
ii) V-ờn quốc gia Tam Đảo: trồng hỗn loài giữa Su (Darcontomelon
duperrea), Xà cừ (Khaya senegalensis), Lim xanh (Erythurophleum fordii)
với Keo lai vào cùng một thời điểm; iii) èo Hải Vân - Huế tạo rừng hỗn loài
giữa Keo tai t-ợng (Acacia mangium) với Sao đen (Hopea odorata), Dầu rái
(Dipterocarpus alatus) và Chò chỉ (Parashorea chinensis), trong đó Keo tai
t-ợng đ-ợc trồng tr-ớc 7 năm sau đó đ-ợc chặt theo băng để đ-a các loài cây
bản địa vào trồng d-ới tán với mật độ 250 cây/ha. Kết quả sau 3 năm cho thấy

các loài cây trồng đều có tỷ lệ sống cao, sinh tr-ởng tốt và có nhiều triển
vọng. Tuy nhiên, đây mới chỉ là kết quả b-ớc đầu. Mặt khác khi thiết kế xây
dựng mô hình, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các loài cây ch-a đ-ợc chú
ý. Vì vậy, với các mô hình này cần phải theo dõi để có biện pháp tác động kịp
thời, điều chỉnh sự cạnh tranh giữa các loài, đặc biệt là các loài cây mọc
nhanh nh- Bạch đàn và Keo lai, tạo điều kiện để cây bản địa sinh tr-ởng, phát
triển tốt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

14

Hiện nay nhiều đối tƣợng rừng trồng thuần loài đều tuổi ở nƣớc ta đã và
đang đƣợc nghiên cứu để chuyển hoá thành rừng hỗn loài khác tuổi, có cấu
trúc ổn định và bền vững hơn thông qua việc đƣa thêm một số loài cây mục
đích vào trồng theo các thời điểm khác nhau. Điển hình là dự án trồng rừng
Việt - Đức ở các tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Ban đầu rừng
trồng của dự án ở các tỉnh này là rừng thuần loài Thông mã vĩ, Keo lá tràm,
hoặc Thông mã vĩ xen Keo lá tràm. Sau 7 năm dự án đã thí nghiệm chuyển
hoá rừng Thông mã vĩ thuần loài và rừng hỗn loài Thông mã vĩ xen Keo lá
tràm thành rừng hỗn loài với một số loài cây lá rộng bản địa khác bằng cách
chặt tỉa Thông mã vĩ và Keo lá tràm, mở thành các rạch rộng 6m sau đó đƣa
các loài cây lá rộng bản địa vào trồng. Nhƣ vậy, xét về thời điểm hỗn loài thì
đây có thể coi là một trong những thí nghiệm điển hình và có tính thực tiễn
cao, phần lớn diện tích rừng trồng của nƣớc ta hiện nay đều là rừng trồng
thuần loài hoặc hỗn loài không bền vững là đối tƣợng cần đƣợc chuyển hoá
thành rừng hỗn loài bền vững nhằm kinh doanh rừng theo hƣớng ổn định, bền
vững hơn.
1.2.2. Các nghiên cứu về trồng rừng Thông
1.2.2.1. Các loài Thông có giá trị khoa học và kinh tế phổ biến ở Việt Nam
Hiện nay trên Thế giới ngƣời ta đã xác định đƣợc hơn 100 loài Thông và

ở Việt Nam đã xác định đƣợc 33 loài Thông. Tuy nhiên, một số loài có nguy
cơ bị tuyệt chủng cũng nhƣ những loài có giá trị kinh tế đã đƣợc các nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu nhiều hơn, điển hình là một số loài sau đây:
* Thông đỏ Lâm Đồng (Taxus wallichiana Zuce; hoặc Taxus baccata
ssp. Wllichiana (Zuce) Pilg); tên gọi khác là Sam hạt đỏ lá dài, hay Thông đỏ
Himalaya; thuộc Họ Thông đỏ: Taxaceae.
Thông đỏ Lâm Đồng là loài cây gỗ lá kim, có kích thƣớc lớn cao tới
30m, đƣờng kính thân cây đạt tới 160cm. Lecomte (1905) đã phát hiện loài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

15

thông này ở Đà Lạt và Nha Trang, phân bố ở độ cao 1500m so với mực nƣớc
biển; hiện nay chỉ còn 150 cây. Thông đỏ Lâm Đồng có chứa chất Taxol là
nguyên liệu để chế tạo thuốc chống ung thƣ.
* Thông 5 lá Đà Lạt (Pinus dalatensis de Ferre); thuộc Họ Thông:
Pinaceae.
Thông 5 lá Đà Lạt là loại cây gỗ lá kim, thƣờng xanh, cây có kích
thƣớc tƣơng đối lớn, cao tới 20m với đƣờng kính thân cây đạt tới 70 – 90cm.
Phân bố tại Đà Lạt, ở độ cao ≥ 1600m so với mực nƣớc biển, ngƣời ta còn
gặp Thông 5 lá Đà Lạt phân bố ở Măng Giang và Kon Ka Kinh tỉnh Gia Lai.
* Thông ba lá (Pinus kesiya Royle ex Gardon); thuộc Họ Thông:
Pinaceae.
Thông ba lá là loài cây gỗ lá kim, có kích thƣớc lớn; cao tới 30m – 45m, với
đƣờng kính thân cây đạt tới 70 – 90cm. Vỏ thân cây dày mầu nâu, nứt dọc
theo trục thân và tạo thành các rãnh sâu dạng lƣới, cành cây thƣờng có màu
nâu đỏ, lá hình kim, hợp thành từng túm 3 lá, nên có tên gọi là Thông 3 lá, lá
mọc đầu cành dài từ 12 - 20cm, mảnh, mềm, màu xanh thẫm. Hoa đơn cùng
gốc, quả hình nón - trứng, dài 5 - 8cm, quả thƣờng quặp suống, đôi khi hơi
vẹo, cuống quả ngắn dài không quá 1cm. Phân bố ở độ cao 1000 – 2000m so

với mực nƣớc biển, với diện tích khá rộng ở Đà Lạt. Từ nhựa thông chế biến
ra côlôphan, dầu thông, tùng tiêu và các dẫn xuất của tinh dầu thông dùng để
xuất khẩu và sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp nhƣ sơn, giấy, dƣợc.
Rừng thông đẹp, có môi trƣờng trong lành, thƣờng là thắng cảnh phục vụ
khách thăm quan, du lịch và điều dƣỡng.
* Thông hai lá dẹt (Pinus krempffi H.Lec hoặc Ducampopinus krempffi
(Lec) A.Chev); thuộc Họ Thông: Pinaceae.
Là cây gỗ lá kim, thƣờng xanh, cây có kích thƣớc lớn: cao tới 30m và
đƣờng kính thân cây đạt tới 150 – 200cm. Thông hai lá dẹt phân bố tự nhiên ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

16

vùng núi cao trung bình và núi cao tại tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa với độ cao:
1200 – 1800m so với mực nƣớc biển. Hiện nay ở Khu bảo tồn thiên nhiên
Bidoup, núi Bà có diện tích 10.000ha, là nơi phân bố tự nhiên nhiều Thông
hai lá dẹt.
* Thông nhựa (Pinus merkussi Jungh & de Vries); Còn gọi là Thông hai
lá); thuộc Họ Thông : Pinaceae.
Cây có kích thƣớc tƣơng đối lớn, cao tới 30 – 35m, với đƣờng kính thân
cây đạt tới 60 – 70cm, thân cây thẳng và tròn, vỏ thân cây dầy có mầu nâu đỏ
nhạt, nứt dọc sâu. Cành 1 năm có mầu nâu nhạt, không có phấn trắng nhẵn,
gốc lá hình vẩy tồn tại nâu trên cành. Phân bố nhiều ở Nam Tây Nguyên (tỉnh
Lâm Đồng) trên độ cao thấp hơn 1000m so với mực nƣớc biển, có đặc điểm
khí hậu nhiệt đới. Cây cho nhiều nhựa, đƣợc trồng trên diện tích khá rộng ở
các tỉnh từ Bắc vào Nam.
* Thông tre (Podocarpus neriifolius P Don hoặc Podocarpus
annamiensis N Gray); còn gọi là Thông trúc đào; thuộc Họ Kim Giao:
Podocarpaceae.
Cây có kích thƣớc nhỏ, cao khoảng 25m. Phân bố ở độ cao 600 – 1500m

trên núi đất tại các tỉnh Sơn La, Yên Bái, Tuyên Quang, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Thừa Thiên Huế (Bạch mã), Kon Tum (Kôn Plông), Lâm Đồng (Đà Lạt).
Gỗ Thông tre bền, ít mối mọt, dùng làm nguyên liệu đóng tàu thuyền, và
làm đồ gia dụng.
* Thông tre lá ngắn (Podocarpus pilgeri Foxw, Podocarpus brevifolius
(stapf) Foxw và Podocarpus nerriifolius D.Don var brevifolius stapf); còn gọi
là Thông la hán); thuộc Họ Kim giao: Podocarpaceae.
Cây có kích thƣớc nhỏ, chỉ khoảng 10 – 15m, phân bố trên núi đất, có độ
cao từ 500 – 1500m tại Lào Cai, Hà Giang (Đồng Văn, Quảng Bạ), Quảng
Ninh (Yên Tử), Hòa Bình ( Pà Cò), Vĩnh Phúc (Tam Đảo).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

17

* Thông đỏ Pà Cò (Taxus chinensis (Pilg) Rehd, Taxus ssp cuspidata
Sieb et Zucc var chinensis Pilg và Taxus celebrica auct non (warb) H.L.Li);
còn có tên: Sam hạt đỏ lá ngắn, Thông đỏ Trung Quốc; thuộc Họ Thông đỏ:
Taxaceae.
Thuộc cây gỗ lá kim, thƣờng xanh, có kích thƣớc nhỏ, cao 9 – 10m,
đƣờng kính thân cây 30 – 35cm, phân bố ở núi đá vôi Thái Phìn Tùng thuộc
tỉnh Hà Giang, ở độ cao 1500m so với mực nƣớc biển. Ngƣời ta còn phát hiện
thấy loài Thông đỏ Pà Cò ở núi đá vôi Mai Châu (tỉnh Hòa Bình).
* Thông Pà Cò (Pinus Kwangtungenssis Chun ex Tsiang) còn gọi là
thông năm lá Pà Cò; thuộc Họ Thông: Pinaceae.
Cây có kích thƣớc trung bình, cao 15 – 20m, đƣờng kính thân cây: 50 -
70cm, phát hiện Thông Pà Cò phân bố trên núi đá vôi ở huyện Mai Châu
(Hòa bình), với độ cao trên 1000m so với mực nƣớc biển.
* Thông mã vĩ (Pinus massoniana); thuộc Họ Thông: Pinaceae.
Thông mã vĩ là cây thân gỗ lá kim có kích thƣớc tƣơng đối lớn. Cây có
thể cao tới 30m, đƣờng kính 50 – 60cm, thân thẳng vỏ mầu nâu đỏ, gốc có

mầu thẫm hơn, khi già vỏ bong thành từng mảng (đây cũng là một đặc điểm
để phân biệt với các loài Thông nhựa).
Lá Thông mã vĩ có mầu xanh tƣơi, tập trung ở đầu cành, lá mềm và rủ
xuống. Thƣờng có 2 lá kim trong một bẹ lá. Lá hình kim dài 12 – 20cm. Khi
cây Thông mã vĩ từ 5 – 10 tuổi, tán lá có hình tháp, sau đó trở thành hình
trứng và hình ô khi tuổi già
Thông mã vĩ bắt đầu ra hoa, kết quả ở tuổi 6 – 7, hoa đơn tính cùng gốc.
Nón quả khi non có hình tròn, khi già có hình trứng, dài từ 4 – 7cm, đƣờng
kính 2,5 – 4cm. Khi chín nón quả có mầu hạt Dẻ, mặt vẩy hình thoi, dẹt, mép
lá phía trên tròn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

18

Gỗ Thông mã vĩ có lõi và giác phân biệt. Lõi có màu vàng, thớ gỗ thô,
thẳng. Gỗ nhẹ, thƣờng đƣợc làm trụ mỏ, làm cột điện, sản xuất giấy, sợi
celluloso Nhựa Thông mã vĩ dùng để sản xuất tùng hƣơng và tinh dầu
Thông, phục vụ cho ngành công nghiệp và xuất khẩu.
Hiện nay, rừng Thông mã vĩ đƣợc trồng nhiều ở các tỉnh miền Bắc, nhƣ:
Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh, Yên Bái và Lào Cai
1.2.2.2. Các nghiên cứu về rừng trồng Thông mã vĩ
Tính đến 2009, diện tích rừng Thông nƣớc ta có khoảng 327.212,3 ha [8]
phần lớn diện tích rừng trồng chủ yếu là trồng thuần loài. Về vấn đề trồng
rừng cho các loài Thông ở nƣớc ta cũng đã đƣợc các nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu, có thể điểm qua kết quả của một số công trình nghiên cứu điển
hình nhƣ sau:
Các phƣơng thức trồng rừng nói chung trồng Thông mã vĩ nói riêng là
trồng thuần loài hoặc trồng hỗn loài với một số loài cây khác. Theo kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Bình, Phạm Đức Tuấn (2009) [3] rừng Thông
mã vĩ 7 năm tuổi với mật độ để lại 2000 cây/ha hàng năm trả lại cho đất 60,12

kg đạm và 19,54 kg lân, nhƣng thực tế khả năng nâng cao độ phì của đất dƣới
tán rừng Thông mã vĩ không cao và diễn ra với mức độ tƣơng đối chậm.
Ngoài ra, việc trồng Thông mã vĩ thuần loài thƣờng xẩy ra dịch sâu róm
Thông, đồng thời cũng không hạn chế đƣợc nạn cháy rừng Thông trong mùa
khô, đây là những nhƣợc điểm nổi bật của rừng Thông trồng thuần loài đã
đƣợc các nhà khoa học khẳng định. Ngoài ra, các tác giả đã đƣa ra một số yêu
cầu kỹ thuật trồng rừng Thông mã vĩ từ khâu chọn cây con đến khi trồng rừng
và chăm sóc rừng trồng nhƣ sau:
- Về hỗn hợp ruột bầu gồm 75% đất mùn tế guột, 15% đất vƣờn ƣơm,
9% phân chuồng hoai (không ủ vôi), 1% Sufe lân. Sau từ 6 đến 10 tháng tuổi,
cây con đạt tiêu chuẩn xuất vƣờn với chiều cao trung bình từ 28 – 50cm, cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

19

cứng cáp, không cụt ngọn. Thời vụ trồng vụ xuân (tháng 2 đến tháng 3), vụ
thu (tháng 8 đến tháng 10)
- Kích thƣớc hố đào 30cm x 30cm x 30cm, đào hố trƣớc khi trồng một
tháng. Mật độ trồng: 2500 cây/ha (2m x 2m). Tiêu chuẩn cây con xuất vƣờn:
Tuổi cây, từ 6 đến 10 tháng tuổi, cây cao từ 28 - 50cm, cây cứng cáp, không
bị sâu bệnh và không cụt ngọn.
- Chăm sóc rừng trồng: Năm thứ nhất: 3 lần, năm thứ 2: 2 lần, năm thứ 3:
1 lần. Nội dung chăm sóc chủ yếu phát dọn thƣc bì lấn át cây thông, cuốc đất
và xới sáo quanh gốc cây.
- Tỉa thƣa lần đầu vào năm thứ 5 và năm thứ 6. Cƣờng độ tỉa thƣa 30%
tổng số cây trong rừng.
1.2.3. Các nghiên cứu về trồng cây bản địa dƣới tán rừng Thông mã vĩ
Với các nhƣợc điểm của rừng Thông trồng thuần loài đã đƣợc các nhà
khoa học xác định và đã phân tích ở phần trên. Để khắc phục vấn đề này, việc
trồng rừng hỗn loài giữa các loài Thông nói chung và Thông mã vĩ nói riêng

với các loài cây bản địa là rất cần thiết và có ý nghĩa cả khoa học và thực tiễn.
Vấn đề này đã đƣợc một số nhà khoa học trong nƣớc quan tâm nghiên cứu
trong những năm gần đây, có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu điển
hình sau đây:
Gần đây nhất Lê Minh Cƣờng (2007) đã nghiên cứu trồng một số loài
cây bản địa dƣới tán rừng Thông mã vĩ ở Đại Lải Vĩnh Phúc [7], tác giả đã đề
xuất đƣợc 3 loài cây bản địa có triển vọng để gây trồng dƣới tán rừng Thông
mã vĩ (Pinus massoniana) đó là: Lim xanh (Erythrophleum pordii), Re hƣơng
(Cinnamomum iners), Sao đen (Hopea odorata). Trong đó, Lim xanh là loài
cây có khả năng sinh trƣởng tốt nhất dƣới tán rừng Thông mã vĩ sau 7 năm
trồng đƣờng kính gốc trung bình đạt từ 6,0cm - 6,4cm, chiều cao vút ngọn đạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

20

từ 4,2m - 4,6m. Ngoài ra, tác giả đã đề xuất một số biện pháp kỹ thuật gây
trồng cây bản địa dƣới tán rừng Thông mã vĩ.
Trƣờng đại học Lâm nghiệp Xuân Mai cũng đã xây dựng vƣờn sƣu tập
vƣờn thực vật với gần 300 loài cây bản địa trồng dƣới tán rừng Thông mã vĩ
(Pinus massoniana) và Keo tai tƣợng (Acacia mangium). Sau nhiều năm
nghiên cứu đã tìm ra một số loài cây thích nghi dƣới tán rừng nhƣ Đinh thối
(Fernandoa brilletii), Máu chó (Knema pierrei), Tai chua (Garcinia cowa),
Re hƣơng (Cinnamomun iners), Long não (Cinnamomun camphora) (dẫn
theo Lê Minh Cƣờng 2007)[7].
Cũng trên nền tảng rừng Thông mã vĩ và Keo lá tràm tại Núi Luốt, Xuân
Mai, Đỗ Thị Quế Lâm (2003) [12] đã nhận định các loài Lim xanh
(Erythrophleum pordii), Đinh thối (Fernandoa brilletii), Re hƣơng
(Cinnamomun iners), sinh trƣởng tƣơng đối tốt dƣới tán rừng Thông mã vĩ.
Tuy nhiên, dƣới các độ tàn che khác nhau, khả năng sinh truởng của các loài
cây bản địa cũng rất khác nhau.

Qua những nghiên cứu trên cho thấy việc trồng rừng hỗn loài giữa Thông
và cây bản địa, đặc biệt là trồng các loài cây bản địa dƣới tán rừng Thông mã
vĩ đã và đang đƣợc nhiều tác giả trong và ngoài nƣớc quan tâm. Nhiều loài
cây gỗ có giá trị đã đƣợc lựa chọn để trồng rừng nhƣ: Đinh thối, Lim xanh,
Re hƣơng
Tuy nhiên, các nghiên cứu chƣa đề cập đến biện pháp kỹ thuật gây
trồng và tác động cụ thể vào tầng cây cao nhƣ thế nào, các biện pháp kỹ thuật
gây trồng cây bản địa dƣới tán nhƣ thế nào. Hơn nữa, chƣa thấy có nghiên
cứu nào về trồng cây bản địa dƣới tán rừng Thông mã vĩ ở Lục Ngạn - Bắc
Giang.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật gây trồng cây bản
địa dƣới tán rừng, đặc biệt là rừng Thông mã vĩ để làm cơ sở chuyển hoá rừng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

21

Thông mã vĩ thuần loài thành rừng hỗn loài với các loài cây bản địa nhằm
phát triển bền vững và nhân rộng mô hình là cần thiết.
1.3. THẢO LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu trong và ngoài nƣớc cho thấy các công
trình nghiên cứu trên thế giới nói chung và ở nƣớc ta nói riêng tƣơng đối
phong phú và toàn diện về tất cả các mặt, những nghiên cứu chủ yếu tập trung
vào mối quan hệ qua lại và ảnh hƣởng lẫn nhau giữa các loài cây, biện pháp
kỹ thuật nuôi dƣỡng rừng trồng hỗn loài trong quá trình sinh trƣởng. Tuy
nhiên, một số vấn đề còn tiếp tục phải đặt ra để nghiên cứu nhƣ sau:
+ Tuổi rừng Thông tỉa thƣa và trồng cây bản địa;
+ Tiêu chuẩn cây con cây bản địa trồng dƣới tán;
+ Độ tàn che của rừng Thông mã vĩ để trồng cây bản địa cho từng loài;
+ Địa hình trồng cây bản địa;
+ Hƣớng phơi trồng cây bản địa;

+ Loại đất trồng cây bản địa
Nhƣng trong phạm vi nghiên cứu này ở Lục Ngạn – Bắc giang, đề tài
này chỉ có thể giải quyết đƣợc một số vấn đề nhằm bổ sung thêm cơ sở lý
luận để chuyển hoá rừng thuần loài thành rừng hỗn loài nhƣ sau:
+ Đánh giá điều kiện lập địa khu vực nghiên cứu;
+ Đánh giá đặc điểm của rừng Thông mã vĩ sau khi tỉa thƣa và đã trồng
cây bản địa;
+ Đánh giá đặc điểm cây bụi, thảm tƣơi dƣới tán rừng Thông mã vĩ;
+ Đánh giá khả năng sinh trƣởng của các loài cây bản địa dƣới tán rừng
Thông mã vĩ.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

22

Chƣơng 2
ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
2.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Lục Ngạn là huyện trung du miền núi nằm ở phía Đông Bắc của
tỉnh Bắc Giang, thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Có toạ độ vị trí địa lý: từ
21
0
16

00
’’
- 21

0
34

40
’’
vĩ độ Bắc và 106
0
26

30
’’
- 106
0
52

00
’’
kinh độ Đông.
Phía Bắc giáp huyện Hữu Lũng và huyện Chi Lăng của tỉnh Lạng Sơn.
Phía Đông giáp huyện Sơn Động của tỉnh Bắc Giang và huyện Lộc Bình
tỉnh Lạng Sơn.
Phía Tây và Nam giáp huyện Lục Nam của tỉnh Bắc Giang.
Trung tâm huyện lỵ nằm cách thành phố Bắc Giang 40 km về phía Đông,
cách Hà Nội 90 km về phía Đông Bắc và cách cửa khẩu Lạng Sơn 120 km về
phía Nam. Có trục đƣờng Quốc lộ 31, 279 và nhiều trục đƣờng tỉnh lộ đi qua,
tƣơng đối thuận lợi cho giao lƣu kinh tế với các vùng miền khác.
2.1.2. Địa hình
Lục Ngạn là một bồn địa đƣợc bao bọc bởi 2 dải núi lớn là Bảo Đài ở
phía Bắc và Yên Tử, Huyền Định ở phía Nam và Đông Nam. Địa hình chia
thành 2 vùng rõ rệt là vùng cao và vùng thấp.

Vùng thấp bao gồm những dãy đồi bát úp xen kẽ những cánh đồng có độ
cao trung bình từ 100 – 150m so với mực nƣớc biển, độ dốc < 20
0
, rất thuận
lợi cho phát triển cây ăn quả và trồng rừng, đặc biệt là xây dựng những mô
hình vƣờn rừng, đồi rừng, trang trại lâm nghiệp…
Vùng cao bao gồm những dãy núi có độ dốc trung bình từ 25 – 30
0
, độ
cao trung bình > 300m so với mực nƣớc biển. Vùng này diện tích đất chƣa sử
dụng còn khá lớn, có thể dùng cho sản xuất kinh doanh rừng trồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

23

Vì vậy, có thể nói Lục Ngạn có nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế đồi
rừng cũng nhƣ đẩy mạnh phát triển sản xuất lâm nghiệp.
2.1.3. Đặc điểm thổ nhƣỡng
Lục Ngạn có nhiều loại đất khác nhau nhƣng chủ yếu là đất feralit vàng
đỏ và nâu xám phát triển trên 3 loại đá mẹ chủ yếu là: sa thạch, phiến thạch và
phấn xa. Thành phần cơ giới từ trung bình đến sét nặng, có kết cấu viên, độ
xốp lớp đất mặt từ 50 – 70%, khả năng thấm và giữ nƣớc trung bình, hàm
lƣợng mùn trong đất khoảng 4%, đạm từ 0,01 - 0,4%, rất thích hợp cho các
loài cây lâm nghiệp, cây ăn quả và cây công nhiệp. Tuy nhiên, do có độ dốc
tƣơng đối lớn kiểu bát úp lên cần phải chú ý đến những biện pháp chống xói
mòn và rửa trôi đất.
Ngoài ra, còn có diện tích nhỏ đất phù sa đƣợc bồi tụ hàng năm ở ven
sông, suối đƣợc ngƣời dân sử dụng trồng lúa nƣớc, hoa màu và cây ăn quả.
Với tiềm năng đất đai lớn và phù hợp cho sản xuất lâm nghiệp cũng nhƣ
cây ăn quả, Lục Ngạn đang là một huyện đứng đầu tỉnh Bắc Giang về công

tác bảo vệ rừng và trồng rừng cũng nhƣ phát triển kinh tế đồi rừng.
2.1.4. Khí hậu, thuỷ văn
Lục Ngạn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa thuộc vùng Đông
Bắc. Một năm có bốn mùa rõ rệt. Mùa đông lạnh, mùa hè nóng ẩm, mùa xuân
và mùa thu khí hậu nhìn chung là ôn hoà. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 22
- 23
0
c, ẩm độ dao động lớn từ 73 - 87%. Lƣợng mƣa trung bình hàng năm
1.417,5mm đủ đáp ứng nhu cầu nƣớc cho sản xuất và đời sống.
Vùng cao của huyện Lục Ngạn là lƣu vực phòng hộ chính của hồ Cấm
Sơn, vùng thấp là một trong những lƣu vực của sông Lục Nam. Hệ thống khe,
suối, các hồ nhỏ khá nhiều nhƣng phần lớn cạn nƣớc vào mùa khô và chảy
xiết dâng cao vào mùa mƣa, gây khó khăn cho sản xuất nông lâm nghiệp.
2.1.5. Hiện trạng sử dụng đất đai và tài nguyên rừng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

24

* Hiện trạng sử dụng đất đai
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 101.223,72 ha, trong đó diện tích đất
có rừng là 43.631,4 ha, chiếm 43% diện tích đất tự nhiên. Trong tổng số
43.631,4 ha đất có rừng thì diện tích rừng trồng phòng hộ là 21.419,6 ha
(chiếm 49%), đất trồng rừng sản xuất 22.211,8 ha (chiếm 51%). Diện tích đất
chƣa có rừng quy hoạch cho lâm nghiệp là 14.318,2 ha. Qua đây chúng ta có
thể thấy diện tích đất trống còn lớn, đây là cơ hội và tiềm năng cho phát triển
rừng.
* Thực vật rừng
+ Rừng tự nhiên: Tổ thành loài khá phong phú với trên 100 loài cây gỗ.
Tuy nhiên, do khai thác quá mức và không hợp lý trong nhiều thập kỷ qua
nên hiện nay chỉ còn tập trung chủ yếu tại rừng phòng hộ Cấm Sơn và vùng

cao giáp huyện Sơn Động.
+ Rừng trồng: Các loài cây trồng rừng chủ yếu là những loài cây nhập
nội, sinh trƣởng nhanh, cung cấp nguyên liệu giấy, gỗ trụ mỏ hoặc làm ván
nhƣ Bạch đàn, Thông, Keo…
2.2. ĐIỀU KIỆN DÂN SINH, KINH TẾ - XÃ HỘI
2.2.1. Dân sinh
* Dân số: Dân số toàn huyện là 196.616 ngƣời, trong đó có 97.161 nam
( chiếm 49,44%) và 99.355 nữ (chiếm 50,56%) tỷ lệ tăng dân số hàng năm
1,3%.
* Lao động: Với khoảng 85.000 ngƣời trong độ tuổi lao động, chiếm
khoảng 43% tổng dân số, lao động nông lâm nghiệp chiếm 85%, hầu hết là
lao động chƣa có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Lục Ngạn là một địa phƣơng
khá thuận lợi để phát triển sản xuất, đặc biệt là ngành nông lâm nghiệp vốn là
thế mạnh của một huyện miền núi.
* Dân tộc: Trong huyện có nhiều dân tộc anh em khác nhau cùng chung
sống, nhƣng chủ yếu 8 dân tộc chính là Kinh, Tày, Nùng, Sán Chí, Sán Dìu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

25

Cao Lan, Hoa, Dao, sinh sống ở 397 thôn, bản. Mỗi dân tộc đều có phong tục,
tập quán khác nhau, có nền văn hoá riêng theo tộc ngƣời.
2.2.2. Giao thông và cơ sở hạ tầng
Ngoài quốc lộ 31 từ Bắc Giang đi Sơn Động và quốc lộ 279 đi Đồng Mỏ
- Lạng Sơn, Lục Ngạn còn nằm trên tuyến tỉnh lộ 285 và 290. Các tuyến
đƣờng liên xã nối với quốc lộ chính đến trung tâm huyện tạo thành mạng lƣới
giao thông, vận tải cho việc vận chuyển hàng hoá. Đây cũng là một yếu tố
thuận lợi để đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, học tập và trao đổi
kinh nghiệm sản xuất trong và ngoài huyện.
Mạng lƣới diện đã cung cấp cho toàn huyện, một thế mạnh có thể khai

thác phục vụ chủ động cho tƣới tiêu và sản xuất nông, lâm nghiệp.
2.2.3. Văn hoá – giáo dục
Hiện nay, toàn huyện đã đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục THCS; 100%
số các xã ở Lục Ngạn đã có trƣờng học kiên cố, trạm y tế và bƣu điện văn hoá
xã, đặc biệt là đã xây dựng đƣợc Bệnh viện đa khoa khu vực, hoạt động văn
hoá, thông tin, tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc đƣợc đẩy mạnh;
nhiều xã đã duy trì tổ chức tốt lễ hội văn hoá nhƣ: Tân Sơn, Kim sơn, Tân
Hoa Huyện tổ chức ngày hội văn hoá các dân tộc hàng năm vào ngày 17 -18
tháng hai (Âm lịch); góp phần làm phong phú đời sống văn hoá, khơi dậy
phát huy giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc. Lục Ngạn còn là nơi
lƣu giữ nhiều bản sắc văn hoá dân tộc với các lễ hội hát dân ca nhƣ hát sli, hát
soong hao Tuy nhiên, các phong tục và tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại,
ảnh hƣởng không tốt đến hoạt động kinh tế, xã hội của huyện, đặc biệt là tƣ
tƣởng trọng nam khinh nữ.
2.2.4. Thu nhập và đời sống
Tổng sản lƣợng lƣơng thực quy ra thóc toàn huyện đạt 50.854 tấn/năm
2009, sản lƣợng lƣơng thực bình quân đầu ngƣời tăng từ 218kg năm 2004 lên
320kg năm 2009. Toàn huyện vẫn còn trên 4000 hộ nghèo, chiếm 10%.

×