Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

đánh giá khả năng sinh trưởng của năm loài cây bản địa trồng dưới tán rừng thông mã vĩ ( pinus massoniana lamb) ở chi lăng – lạng sơn làm cơ sở để chuyển hóa rừng thông thuần loài thành rừng hỗn loài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 113 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





NGUYỄN THỊ XUÂN VIÊN






ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG
CỦA NĂM LOÀI CÂY BẢN ĐỊA TRỒNG DƢỚI
TÁN RỪNG THÔNG MÃ VĨ (PINUS MASSONIANA LAMB)
Ở CHI LĂNG – LẠNG SƠN LÀM CƠ SỞ CHUYỂN HÓA
RỪNG THÔNG THUẦN LOÀI THÀNH RỪNG HỖN LOÀI







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP










THÁI NGUYÊN - 2010


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN THỊ XUÂN VIÊN





ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG
CỦA NĂM LOÀI CÂY BẢN ĐỊA TRỒNG DƢỚI
TÁN RỪNG THÔNG MÃ VĨ (PINUS MASSONIANA LAMB)
Ở CHI LĂNG – LẠNG SƠN LÀM CƠ SỞ CHUYỂN HÓA

RỪNG THÔNG THUẦN LOÀI THÀNH RỪNG HỖN LOÀI
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60 62 60




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP





Ngƣờ i hƣớng dẫn khoa học : TS. NGUYỄN HUY SƠN




THÁI NGUYÊN - 2010


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên




LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn

của tôi hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ học vị nào. Mọi
sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn này đều được cảm ơn. Các thông tin,
tài liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Xuân Viên













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN

Luận văn thạc sỹ khoa học Lâm Nghiệp được hoàn thành theo chương
trình đào tạo cao học khóa 15 trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên – Đại
học Thái Nguyên.
Để hoàn thành luận văn này tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành

tới các nhà khoa học, các thầy cô giáo trong khoa Lâm Nghiệp, các cơ quan
đơn vị đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả. Đặc biệt, là TS. Nguyễn Huy Sơn đã trực
tiếp hướng dẫn, dìu dắt và giúp đỡ tác giả với những chỉ dẫn khoa học quý
báu trong suốt quá trình triển khai nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Nhân dịp này, tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại
Học Nông Lâm Thái Nguyên, Khoa Sau đại học, các thầy cô giáo trong Khoa
Lâm Nghiệp đã giúp đỡ trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tác giả xin cảm
ơn sâu sắc nhất đến TS. Nguyễn Huy Sơn đã giúp đỡ tận tình cho tác giả
trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được
sự giúp đỡ của các cán bộ Trung tâm Nghiên cứu Lâm Đặc Sản, Trường Đại
học Lâm Nghiệp, Trường Đại học Hùng Vương, Hạt kiểm lâm huyện Chi
Lăng, UBND xã Mai Sao, xã Khuôn Khoan huyện Chi Lăng – Tỉnh Lạng Sơn
đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình thu thập số liệu, thực
hiện luận văn.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần trong quá
trình học tập và thực hiện luận văn này.
Thái
Nguyên, ngày tháng năm 2010
Học viên

Nguyễn Thị Xuân Viên
MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Ở nước ngoài 4
1.1.1. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa 4
1.1.2. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây lá

kim với cây bản địa lá rộng 9
1.2. Ở trong nước 10
1.2.1. Nghiên cứu về trồng rừng hỗn giao 10
1.2.2. Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng trồng 14
1.2.3. Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng
Thông mã vĩ (Pinus massoniana Lamb) 16
Chƣơng 2: MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, GIỚI HẠN, NỘI DUNG
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1. Mục tiêu 20
2.1.1. Mục tiêu tổng quát 20
2.1.2. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể 20
2.2. Đối tượng nghiên cứu 20
2.3. Giới hạn nghiên cứu 20
2.3.1. Giới hạn về địa điểm 20
2.3.2. Giới hạn về thời gian nghiên cứu 20
2.3.3. Giới hạn đối tượng nghiên cứu 21
2.3.4. Giới hạn nội dung nghiên cứu 21
2.4. Ý nghĩa của đề tài 21
2.5. Nội dung nghiên cứu 21
2.5.1. Đặc điểm rừng Thông mã vĩ tại khu vực nghiên cứu. 22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

2.5.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ tàn che tới khả năng
sinh trưởng của các loài cây bản địa 22
2.5.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ dốc đến khả năng
sinh trưởng của các loài cây bản địa 22
2.5.4. Ảnh hưởng tổng hợp của một số nhân tố tới khả
năng sinh trưởng của các loài cây bản địa 22
2.5.5. Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật chuyển hóa rừng
Thông mã vĩ thành rừng hỗn loài với cây lá rộng bản địa 22

2.6. Phương pháp nghiên cứu 23
2.6.1. Phương pháp luận tổng quát 23
2.6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 25
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ
XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU 29
3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 29
3.1.1. Vị trí địa lý 29
3.1.2. Địa hình, đất đai 29
3.1.3. Khí hậu 30
3.1.4. Thuỷ văn 30
3.1.5. Tài nguyên rừng 31
3.2. Điều kiện kinh tế-xã hội 31
3.3. Lịch sử rừng trồng Thông mã vĩ 34
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 36
4.1. Đặc điểm rừng Thông mã vĩ tại khu vực nghiên cứu 36
4.1.1. Đặc điểm tầng cây cao (Thông mã vĩ) 36
4.1.2. Đặc điểm lớp cây tái sinh, cây bụi thảm tươi dưới tán
rừng Thông mã vĩ 41
4.1.3. Đặc điểm đất dưới tán rừng Thông mã vĩ 44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

4.2. Ảnh hưởng của độ tàn che tới khả năng sinh trưởng của
các loài cây bản địa 45
4.2.1. Sinh trưởng của cây Re gừng dưới các độ tàn che khác nhau 45
4.2.2. Sinh trưởng của cây Trám trắng dưới các độ tàn che khác nhau 47
4.2.3. Sinh trưởng của cây Giổi xanh dưới các độ tàn che khác nhau 50
4.2.4. Sinh trưởng của cây Lát hoa dưới hai độ tàn che khác nhau 53
4.2.5. Sinh trưởng của cây Lim xanh ở hai độ tàn che khác nhau 55
4.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ dốc đến khả năng
sinh trưởng của các loài cây bản địa 58

4.3.1. Ảnh hưởng của nhân tố độ dốc tới sinh trưởng của cây Re gừng 58
4.3.2. Ảnh hưởng của nhân tố độ dốc tới sinh trưởng của cây Trám trắng 59
4.3.3. Ảnh hưởng của nhân tố độ dốc tới sinh trưởng của cây Giổi xanh 61
4.3.4. Ảnh hưởng của nhân tố độ dốc tới sinh trưởng của cây Lát hoa 63
4.3.5. Ảnh hưởng của nhân tố độ dốc tới sinh trưởng của cây Lim xanh 65
4.4. Ảnh hưởng tổng hợp của một số nhân tố tới khả năng
sinh trưởng của các loài cây bản địa 66
4.5. Đề xuất các biệp pháp kỹ thuật chuyển hóa rừng Thông mã vĩ
thành rừng hỗn loài ở Chi Lăng – Lạng Sơn 68
4.5.1. Chọn đối tượng và lập địa gây trồng 68
4.5.2. Chọn loài cây trồng 69
4.5.3. Biện pháp kỹ thuật chuyển hóa 69
Chƣơng 5: KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 73
5.1. Kết luận 73
5.2. Tồn tại 75
5.3. Kiến nghị 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

7
MỘT SỐ KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

a: Tuổi của lâm phần
D
00
: Đường kính gốc (cm)
D
1.3

: Đường kính tại vị trí 1,3m (cm)
Hvn: Chiều cao vút ngọn (m)
H
dc
: Chiều cao dưới cành
D
T:
Đường kính tán (m)
D
1.3
: Đường kính trung bình tại vị trí 1,3m (cm)
D
00
: Đường kính gốc trung bình (cm)
H
vn
: Chiều cao vút ngọn trung bình (m)
∆D
00
: Tăng trưởng đường kính gốc bình quân năm (cm/năm)
∆Hvn: Tăng trưởng chiều cao vút ngọn bình quân năm (m/năm)
OTC: Ô tiêu chuẩn
T: Cây có chất lượng sinh trưởng tốt
TB: Cây có chất lượng sinh trưởng trung bình
X: Cây có chất lượng sinh trưởng xấu
S: Sai tiêu chuẩn
S%: Hệ số biến động
CL: Chi Lăng
CVL: Cát vật lý
SVL: Sét vật lý

ĐTC: Độ tàn che
ĐD: Độ dốc
TLS: Tỷ lệ sống




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 4.1: Tổng hợp các chỉ tiêu thống kê của rừng
Thông mã vĩ ở giai đoạn 13 tuổi 38
Bảng 4.2: Tổng hợp các chỉ tiêu của cây tái sinh,
cây bụi và thảm tươi 42
Bảng 4.3: Kết quả phân tích lý, hóa tính của đất
tại khu vực nghiên cứu 44
Bảng 4.4: Sinh trưởng và chất lượng thân cây của loài Re gừng
dưới các độ tàn che khác nhau 45
Bảng 4.5: Sinh trưởng và chất lượng thân cây của loài Trám trắng
dưới các độ tàn che khác nhau 48
Bảng 4.6: Sinh trưởng và chất lượng thân cây của loài Giổi xanh
dưới các độ tàn che khác nhau 51
Bảng 4.7: Sinh trưởng và chất lượng thân cây của loài Lát hoa
dưới các độ tàn che khác nhau 53
Bảng 4.8: Sinh trưởng và chất lượng thân cây của loài Lim xanh
dưới các độ tàn che khác nhau 56
Bảng 4.9: Sinh trưởng và chất lượng thân cây của loài Re gừng
dưới các độ dốc khác nhau 58

Bảng 4.10: Sinh trưởng và chất lượng thân cây của loài Trám trắng
dưới các độ dốc khác nhau 60
Bảng 4.11: Sinh trưởng và chất lượng thân cây loài cây Giổi xanh
dưới các độ dốc khác nhau 61
Bảng 4.12: Sinh trưởng và chất lượng thân cây của loài Lát hoa
dưới các độ dốc khác nhau 63
Bảng 4.13: Sinh trưởng và chất lượng thân cây của loài Lim xanh
dưới các độ dốc khác nhau 64

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

9

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Trang
Hình 2.1: Sơ đồ các bước tiến hành nghiên cứu 24
Hình 4.1: Trắc đồ ngang rừng Thông mã vĩ có độ tàn che 0,46 (otc 11) 39
Hình 4.2: Trắc đồ ngang rừng Thông mã vĩ có độ tàn che 0,54 (otc 14) 40
Hình 4.3: Trắc đồ ngang rừng Thông mã vĩ có độ tàn che 0,6 (otc 15) 40

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1: Sinh trưởng đường kính gốc trung bình
của 5 loài cây bản địa 67
Biểu đồ 4.2: Sinh trưởng chiều cao trung bình
của 5 loài cây bản địa 67

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

10

DANH MỤC ẢNH
Trang
Ảnh 4.1: Rừng thông mã vĩ 13 tuổi 39
Ảnh 4.2: Ảnh cây Re gừng 2 tuổi 47
Ảnh 4.3: Ảnh cây Trám trắng 2 tuổi 50
Ảnh 4.4: Ảnh cây Giổi xanh 2 tuổi 53
Ảnh 4.5: Ảnh cây Lát hoa 2 tuổi 55
Ảnh 4.6: Ảnh cây Lim xanh 2 tuổi 57
1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

ĐẶT VẤN ĐỀ

Việt Nam là một quốc gia đất hẹp người đông, hiện nay diện tích rừng

bình quân trên đầu người vào loại thấp nhất thế giới, chỉ đạt khoảng 0,14ha
rừng/người, nằm trong danh sách những nước nghèo về tài nguyên rừng, theo
thống kê của FAO diện tích rừng bình quân đầu người toàn thế giới năm 2001
là 0,6 ha [30]. Không những vậy, Việt Nam còn là một trong những nước có
tốc độ mất rừng khá nhanh, tỷ lệ che phủ của rừng giảm từ 40,7% (13,5 triệu
ha rừng) vào năm 1943 xuống còn 26,2% vào năm 1985 (dẫn theo Nguyễn
Hoàng Nghĩa, 1997). Trong những năm gần đây, Nhà nước và nhân dân ta đã
có nhiều nỗ lực để từng bước phục hồi lại độ che phủ của rừng, nên đến năm
2009 độ che phủ của rừng ở nước ta xấp xỉ 39,1%, với tổng diện tích có rừng
hiện có 13.258.843 triệu ha, trong đó diện tích rừng trồng của cả nước đã đạt
hơn 2.919.538 triệu ha, nhưng phần lớn là rừng trồng thuần loài [1].
Tuy diện tích rừng tăng nhưng trữ lượng và chất lượng chưa được cải
thiện, phần lớn rừng tự nhiên hiện nay là rừng nghèo kiệt, giá trị kinh tế
không cao. Trong số diện tích rừng tự nhiên hiện chỉ có 0,57 triệu ha rừng
giầu phân bố rải rác ở những nơi xa, với trữ lượng trung bình trên 150 m
3
/ha,
rừng nghèo với trữ lượng dưới 80 m
3
/ha chiếm đa số [30].
Trong thời gian qua rừng trồng thuần loài ở Việt Nam bao gồm cả
trường hợp rừng trồng các loài cây lá rộng và cây lá kim được đánh giá là
những hệ sinh thái kém bền vững: Gần đây đã xuất hiện sâu, bệnh hại hàng
loạt như bệnh đốm và cháy lá ở Bạch đàn, bệnh phấn hồng ở Keo đã phát
dịch ở nhiều nơi, gây thiệt hại lớn về kinh tế và ảnh hưởng không nhỏ đến
môi trường sinh thái trong khu vực, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu
như hiện nay.
2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


Với sự suy thoái rừng tự nhiên, khả năng phòng hộ và giá trị bảo tồn đa
dạng sinh học của rừng cũng bị suy giảm, nhiều loài động thực vật có nguy cơ
tuyệt chủng.
Hiện nay, năng suất và chất lượng các sản phẩm từ rừng chưa đủ sức
cạnh tranh trên thị trường và chưa khai thác hết tiềm năng trong sản xuất lâm
nghiệp, tác động đến công việc xoá đói giảm nghèo còn hạn chế. Ngành lâm
nghiệp đang đứng trước nhiều thách thức như: Nguy cơ mất rừng do sức ép
dân số tăng, nhu cầu lâm sản ngày càng cao Do vậy, việc trồng rừng và
kinh doanh rừng bền vững trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Hơn nữa, Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới điển hình nên cần phải
xây dựng rừng nhiều tầng và đa dạng về loài cây để kết hợp kinh tế với bảo vệ
đất và môi trường sinh thái được tốt hơn. Vì vậy, công tác trồng rừng được
xúc tiến mạnh mẽ trên cơ sở những tiến bộ kỹ thuật đã có để rừng phát huy
được tiềm năng vốn có của nó [24], theo nhiều nhà khoa học thì ngày nay xu
thế phát triển rừng trồng hỗn loài là cần thiết.
Nhận thức rõ vai trò của rừng hỗn loài, những năm gần đây ngành lâm
nghiệp đã có chủ trương xây dựng, phát triển rừng hỗn loài trên quy mô lớn ở
nhiều địa phương và rất chú trọng sử dụng cây bản địa để trồng rừng. Tuy vậy,
việc trồng rừng cây bản địa, chọn lựa cơ cấu loài cây trồng phù hợp với điều kiện
cụ thể ở từng nơi và mục tiêu kinh doanh và phát triển bền vững là rất cần thiết.
Đặc biệt, với diện tích trồng các loài Thông thuần loài ở nước ta hiện
nay khá lớn, tình trạng sâu bệnh hại thường xuyên phát dịch, nên việc nghiên
cứu chuyển hóa rừng Thông thuần loài thành rừng hỗn loài với các loài cây
bản địa là hết sức quan trọng.
Đề tài này được thực hiện trên cơ sở kế thừa mô hình của Dự án trồng
rừng Việt - Đức, mà Trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản là đơn vị phối hợp
3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


thực hiện. Tác giả của luận văn rất may mắn là cộng tác viên tham gia điều tra
đánh giá mô hình trong những năm vừa qua.
Với mục đích góp phần tìm ra cơ sở khoa học cho việc phát triển rừng
trồng hỗn loài, nên việc thực hiện đề tài "Đánh giá khả năng sinh trưởng
của năm loài cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ ( Pinus
massoniana Lamb) ở Chi Lăng – Lạng Sơn làm cơ sở để chuyển hóa rừng
thông thuần loài thành rừng hỗn loài” là cần thiết.
4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Ở nƣớc ngoài
Do trồng rừng thuần loài đã bộc lộ nhiều nhược điểm nên nhiều nhà
khoa học trên thế giới đã quan tâm nghiên cứu nhằm tạo lập các lâm phần
rừng trồng hỗn loài bằng nhiều loài cây khác nhau trong đó đa số là sử dụng
cây bản địa. Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu thử nghiệm và trồng rừng
hỗn loài thành công bằng loài cây này. Sau đây là một số công trình nghiên
cứu điển hình:
1.1.1. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa
Tại Malaysia, năm 1999 trong dự án xây dựng rừng nhiều tầng đã giới
thiệu cách thiết lập mô hình rừng hỗn loài trên 3 đối tượng: Rừng tự nhiên,
rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) 10 – 15 tuổi và 2 – 3 tuổi. Dự án
đã sử dụng 23 loài cây bản địa có giá trị, trồng theo băng 30m trong rừng tự
nhiên, trên mỗi băng người ta có thể trồng 6 hàng cây bản địa và trồng 14 loài
cây bản địa dưới tán rừng Keo tai tượng. Thí nghiệm đối với rừng Keo tai
tượng dự án chia thành 2 khu:

Khu chặt theo băng:
Mở băng 10m trồng 3 hàng cây bản địa;
Mở băng 20m trồng 7 hàng cây bản địa;
Mở băng 40m trồng 15 hàng cây bản địa;
Khu chặt theo hàng:
Chặt 1 hàng Keo trồng 1 hàng cây bản địa;
Chặt 2 hàng Keo trồng 2 hàng cây bản địa;
Chặt 4 hàng Keo trồng 4 hàng cây bản địa;…
5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Kết quả cho thấy, trong các loài cây bản địa được trồng trong các băng
có 3 loài cây gồm: Shorea roxburrghii; S.ovalis; S.leprosula có khả năng sinh
trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất. Tỷ lệ sống giữa các công thức không
khác biệt, sinh trưởng chiều cao cây trồng trong băng 10m và băng 40m tốt
hơn băng 20m. Kết quả thí nghiệm trồng theo hàng đã chỉ ra rằng trồng 1
hàng cho tỷ lệ sống, khả năng sinh trưởng chiều cao cao hơn nơi trồng từ 2 –
4 hàng. Về khả năng sinh trưởng đường kính lại tốt ở công thức trồng 6 hàng
và 16 hàng. Dự án còn vạch ra kế hoạch điều chỉnh các công thức trồng tại
những thời điểm 2, 8, 12, 18, 28, 34, 41, 47 năm sau khi trồng (dẫn theo Lê
Minh Cường, 2007).
Tại Bayern - Đức, Vân sam (Abies) trồng hỗn loài với Sồi (Terminalia
Catappa) có sản lượng cao hơn trồng thuần loài, nhưng ngược lại Sồi lại mọc
tốt hơn trong các quần thụ thuần loài. Hỗn giao của loài Bạch dương (Bulô)
với Vân sam đã nâng cao sản lượng lên từ 135-160% (dẫn theo Nguyễn Đức
Thế, 2007). Linh sam Douglas (Pseudotsuga menziesii) trong quần thụ hỗn
giao với Tuyết tùng đỏ (Cryptomeria Japonica) cũng đạt tới 217 m
3
/ha, so với

các quần thụ thuần loài Linh sam Douglas chỉ đạt 203m
3
/ha và Tuyết tùng đỏ
cũng chỉ đạt 175m
3
/ha. Điều này chứng tỏ trồng hỗn loài có năng suất cao
hơn trồng thuần loài.
Tại Đan Mạch, thông qua nghiên cứu sinh trưởng của Jensen (1983)
cho thấy rằng Vân sam (Abies) trồng hỗn giao với Linh sam bạc (Abies alba)
có sản lượng cao hơn chính nó trồng thuần loài. Tương tự, Bulô hỗn giao với
Thông tốt hơn Bulô thuần loài. Hỗn giao giữa Betula pendula với Abies theo
tỷ lệ 25-50% đã làm tăng sản lượng của Abies ở tất cả các tuổi (dẫn theo
Nguyễn Đức Thế, 2007).
Tại Costa Rica, ba kiểu rừng trồng, mỗi kiểu rừng trồng là hỗn giao của 4
loài cây bản địa chịu bóng khác nhau trong vùng đất thấp ẩm ướt cho thấy từ 2 - 4
6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

năm tuổi, đường kính ngang ngực trong các quần thụ hỗn giao lớn hơn trong các
quần thụ thuần loài của những loài mọc nhanh (dẫn theo Nguyễn Đức Thế,
2007).
Một nghiên cứu khác tại Costa Rica, Haggar.J và J.Ewel (1995) đã
trồng hai loài cây Hyeronima alchorneoides và Cordia alliodora ở vùng đất
thấp theo hai phương thức khác nhau là thuần loài và hỗn loài. Các tác giả đã
nhận định rằng cả hai loài trồng hỗn giao với nhau đều sinh trưởng tốt hơn
trồng thuần loài. Hơn nữa, hai loài cây này trồng phối hợp với nhau khá thích
hợp. Bởi vì, sự phân bố của hệ thống rễ cũng như tán lá ở các vị trí khác nhau
trong không gian tạo nên sự phối hợp hỗ trợ lẫn nhau nhiều hơn là cạnh tranh
không gian dinh dưỡng. Cũng hai tác giả này, khi nghiên cứu về khả năng

sinh trưởng của loài Cordia alliodora trong rừng hỗn loài ở Costa Rica thì
thấy loài này sinh trưởng nhanh hơn so với các quần thụ thuần loài (7,9m
trong hỗn giao và 4,9m trong thuần loài ở giai đoạn 2 năm tuổi) (dẫn theo
Nguyễn Đức Thế, 2007).
Tại Nga, G.S. A.A. Montanoop đã nghiên cứu sinh trưởng của loài Dẻ
với một số loài khác theo các băng có chiều rộng khác nhau 20m, 50m, 100m,
200m. Kết quả cho thấy Dẻ sinh trưởng ở băng 50m là tốt nhất [14].
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu khác về trồng rừng dưới
tán, trồng theo băng, rạch với độ tàn che nhẹ và có sử dụng cây bản địa. Điển
hình ở các nước Nigieria, Congo, Camorun… đây là những công trình đã đạt
được nhiều thành công do lợi dụng được thảm che tự nhiên, chúng đã hỗ trợ
tốt cho cây bản địa trong giai đoạn đầu.
Nghiên cứu về lĩnh vực này điển hình là Mathew (1995), ông đã nghiên
cứu tạo lập mô hình rừng trồng hỗn loài giữa cây thân gỗ với cây họ đậu. Kết
quả cho thấy cây họ đậu có tác dụng hỗ trợ rất tốt cho cây trồng chính. Ngoài
việc xác định được loài cây phù trợ thì việc nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật
7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

điều chỉnh lâm phần rừng trồng hỗn loài theo quá trình sinh trưởng cũng rất
quan trọng. Các tác giả Ball, Wormald và Russo (1994) đã tác động vào các
lâm phần rừng trồng hỗn loài thông qua việc giảm bớt sự cạnh tranh giữa các
loài cây. Kết quả cho thấy, sau khi được tác động các biện pháp tỉa cành, tỉa
thưa thì các loài cây mục đích đã được tạo điều kiện thuận lợi để sinh trưởng
phát triển tốt hơn [28].
Không chỉ có vậy, khi nghiên cứu trồng rừng hỗn loài cũng cần lưu ý
đến cấu trúc tầng thứ. Vì thế, nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng cũng đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm. Trong lĩnh vực này điển hình là tác giả
Bennar Dupuy (1995), tác giả cho thấy rằng kết cấu tầng tán của rừng trồng

hỗn loài phụ thuộc vào đặc tính sinh học và tính hợp quần của các loài cây
trong trong lâm phần (dẫn theo Hoàng Văn Thắng, 2007). Điều này cho thấy,
để tạo được các mô hình rừng trồng hỗn loài có cấu trúc hợp lý, tận dụng
được tối đa không gian dinh dưỡng thì cần phải dựa vào khả năng sinh trưởng
cũng như phải quan tâm đến mối quan hệ qua lại giữa các loài cây để lựa chọn
các loài cây trồng cho phù hợp. Đây là cơ sở quan trọng quyết định đến sự
thành công hay thất bại của các mô hình rừng trồng hỗn loài.
Kolexnitsenko (1997) khi nghiên cứu về sự phối hợp giữa các loài cây
gỗ trong trồng rừng hỗn loài đã đúc kết được 5 nguyên tắc lựa chọn loài cây
trồng, đó là:
 Nguyên tắc kinh nghiệm.
 Nguyên tắc kiểu lâm hình học.
 Nguyên tắc lý sinh.
 Nguyên tắc sinh vật dinh dưỡng.
 Nguyên tắc cảm nhiễm tương hỗ.
Có thể nói đây là những nguyên tắc rất cơ bản và tương đối toàn diện
về các lĩnh vực của rừng trồng hỗn loài. Để xây dựng thành công các mô hình
8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

rừng trồng hỗn loài cần phải dựa vào 5 nguyên tắc trên. Trong đó, nguyên tắc
cảm nhiễm tương hỗ là rất quan trọng và cần phải có thời gian dài nghiên cứu.
Nhìn chung, các nguyên tắc này phản ánh được mối quan hệ bên trong và có
tính chi phối tới sự tồn tại và sinh trưởng của các loài. Sự phân loại theo đặc
điểm hoạt hóa của chúng như kích thích, ức chế hoặc kìm hãm quá trình sống
thông qua ảnh hưởng của phitonxits là căn cứ để quyết định tỷ lệ tổ thành các
loài cây trong lâm phần hỗn loài. Nghiên cứu về vấn đề này tác giả đã đề nghị
mật độ loài cây trồng chính trong mô hình trồng rừng hỗn loài không nên ít
hơn 50%, loài cây hoạt hóa không nên quá 30 – 40%, loài cây ức chế không

quá 10 – 20% trong tổng số các loài cây được lựa chọn để trồng [37].
Với đặc thù riêng của rừng nhiệt đới người ta thường tác động theo các
hướng sau (dẫn theo Hoàng Đức Doanh, 2007):
a. Hướng thứ nhất:
Từ những lâm phần rừng tự nhiên hỗn giao lá rộng, thông qua sự tác
động của những biện pháp kỹ thuật lâm sinh trở thành những lâm phần có cấu
trúc ít phức tạp. Ưu thế thuộc về một số loài cây có giá trị kinh tế, tuổi ít
chênh lệch nhau. Tại một số nước Châu Phi thuộc khu vực nói tiếng Pháp,
người ta sử dụng phương thức trồng dặm dưới tán theo kiểu quảng canh.
Fomy (1956) đã tóm tắt kinh nghiệm thu được về kiểu rừng trồng dặm và nêu
ra một số điểm cần thiết về kỹ thuật để đi đến thành công như sau:
1. Đặt cây theo khoảng cách hẹp, dọc trên rạch trồng để có được sự lựa
chọn về số cây cần giữ lại và hạ được chi phí về nhân công chăm sóc.
2. Chỉ dùng những loài cây ưa sáng.
3. Thiết kế rạch trồng theo hướng Đông - Tây để tận dụng được tối đa
ánh sáng.
4. Phương pháp không đem lại hiệu quả gì nếu có thú lớn.
9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

5. Không bao giờ đánh giá thấp sự cạnh tranh của rễ cây và bóng rợp ở
trên đầu và bên sườn.
b. Hướng thứ hai.
Thay thế hoàn toàn lâm phần cũ bằng lâm phần mới (phương pháp cải
tạo triệt để) đã được nhiều quốc gia áp dụng nhằm tạo diện tích rừng đều tuổi
thuần loài có giá trị kinh tế cao. Theo tài liệu của Baur và Catino đã giới thiệu
và đánh giá các phương thức tái sinh rừng tự nhiên và nhân tạo ở Châu Phi,
Ấn Độ và một số nước Đông Nam Á đều đi đến kết luận rằng việc đưa cây
rừng vào các thảm rừng tự nhiên nhằm bổ xung tổ thành, nâng cao chất lượng

rừng tùy thuộc vào cách xử lý, điều kiện ánh sáng, xử lý các thảm rừng cũ
một cách thích hợp đối với đặc tính sinh thái của từng loài ở từng giai đoạn
tuổi khác nhau mới có thể đem lại hiệu quả (dẫn theo Hoàng Đức Doanh,
2007).
1.1.2. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây lá kim với cây bản địa
lá rộng
Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cây lá
kim phục vụ cho công tác trồng rừng như ở Anh, Pháp, Úc, Canada, Đan
Mạch…. Đa số các công trình tập trung chủ yếu là nghiên cứu các quy luật
phân bố, quy lụât tăng trưởng, cấu trúc, đặc tính cơ lý gỗ, một số tính chất lý
hoá học đất, tính chất hoá học của nhựa…Về trồng rừng hỗn loài giữa cây lá
kim và cây lá rộng bản địa đã có một số nước nghiên cứu về vấn đề này song
chưa nhiều.
Nghiên cứu trồng cây lá kim hỗn giao với cây bản địa điển hình là ở
Đài Loan và một số nước Châu Á. Sau khi trồng phủ xanh đất trống đồi núi
trọc bằng cây lá kim đã tiến hành gây trồng cây bản địa dưới tán. Kết quả cho
thấy đã tạo ra những mô hình rừng hỗn giao bền vững, đạt năng suất cao, có
tác dụng tốt trong việc bảo vệ chống xói mòn đất [10].
10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Tóm lại, các kết quả nghiên cứu về cây bản địa và trồng rừng hỗn loài
trên thế giới tuy chưa nhiều, song với những thông tin thu thập được về cách
lợi dụng độ tàn che tầng cây cao, cách sử dụng cây phù trợ và các phương
thức bố trí loài cây trong các mô hình thí nghiệm và với những thông tin về
tiểu hoàn cảnh rừng … là những tài liệu tham khảo và bài học kinh nghiệm có
giá trị.
1.2. Ở trong nƣớc
1.2.1. Nghiên cứu về trồng rừng hỗn giao

Trồng rừng hỗn loài là một phương thức đã được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu từ rất sớm, điển hình là nhà khoa học người Pháp,
Maurand (1931) đã thử nghiệm là giầu rừng thứ sinh nghèo kiệt bằng các loài
cây bản địa ở Trảng Bom – Đồng Nai. Rừng thứ sinh nghèo kiệt được xử lý
thực bì theo rạch, lúc ban đầu rạch được phát dọn theo đường đồng mức rộng
từ 1 -2m. Sau khi trồng một thời gian, rạch được mở rộng 5m. Loài cây bản
địa thử nghiệm gây trồng rừng hỗn loài là Sao đen (Hopera odorata), Dầu rái
(Dipterocarpus alatus) và Vên vên (Anisoptera costata). Sau 2 năm thí
nghiệm, do rạch quá hẹp, cây bản địa trồng dưới tán đã bị che lấp bởi tầng cây
cao, tác giả đã cải tiến bằng cách cho tiến hành phát quang các tầng trên và
chỉ để lại loài cây ưu thế. Phương pháp này được gọi là phương pháp “trồng
rừng dưới tàn che cao và nhẹ”. Ngoài ra, tác giả cũng đã nghiên cứu trồng cây
bản địa trên đất trống đồi trọc và sử dụng các loài cây phù trợ gồm Muồng
đen (Cassia siamea), Đậu tràm (Indigofora teysmanii). Kết quả cho thấy việc
dùng cây che phủ ban đầu kết hợp với cây che phủ trung gian đạt kết quả khá
tốt (dẫn theo Hoàng Đức Doanh, 2007).
Trong một nghiên cứu khác ở Đồng Nai, Nguyễn Minh Đường và Lê Đình
Cẩm (1985) đã thí nghiệm trồng hỗn loài các cây bản địa: Sao đen(Hopera
odorata), Dầu nước (Dipterocapus Alatus), Gõ đỏ (AfZelia xylocapa), Cẩm
11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

lai (Dalbergia basiaensis), Căm xe (Xylia xyclocarpa) trồng theo băng và
theo rạch, với các loài cây phù trợ là Muồng đen (Cassia siamea), Keo lá tràm
(Acacia auricoliformis), Đậu tràm (Indigofora teysmanii) và Keo dậu
(Leucaena leucocephala). Thí nghiệm được bố trí với cự ly 4x4m, cứ 1 hàng
cây bản địa mục đích thì trồng xen 1 hàng cây phù trợ. Ngoài ra, tác giả đã
trồng các loài cây phù trợ trước khi trồng cây bản địa, sau đó tỉa thưa theo
băng, băng chặt rộng từ 10 - 20m và băng chừa cũng rộng từ 10 – 20m. Sau 1

năm trồng cây bản địa mục đích trên các băng chặt, kết quả cho thấy cây phù
trợ đã có tác dụng, tỷ lệ sống của cây bản địa đạt khá cao, nhưng chưa ảnh
hưởng rõ tới khả năng sinh trưởng ở các băng có kích thước khác nhau. [11].
Năm 1962, các nhà lâm học Học viện Nông lâm đã tiến hành thí
nghiệm trồng rừng hỗn loài, lấy cây Mỡ (Manglietia glauca) làm đối tượng
chính của rừng hỗn loài và dùng các loài cây bạn theo từng cặp: Mỡ
(Manglietia glauca) + Lim Xanh (Erythrophloeum); Mỡ (Manglietia glauca)
+ Xà cừ (Khay senegalensis), Mỡ (Manglietia glauca) + Tếch (Tectona
grandis). Mỗi loài trồng 1 hàng, hàng cách hàng 2m, cây cách cây 2m, kết
quả cho thấy Xà cừ và Tếch không thích hợp với phương thức trồng này nên
tốc độ sinh trưởng chậm và bị các loài cây khác cạnh tranh, cuối cùng chỉ còn
Mỡ thuần loài. Đối với Lim xanh, 2 năm đầu sinh trưởng kém, nhưng giai
đoạn tiếp theo Lim xanh phát triển chiều cao nhanh hơn, đến tuổi 10 – 12 Lim
xanh đã vươn lên cùng tầng với Mỡ. Trần Nguyên Giảng đã nhận xét rằng
Lim xanh có khả năng trồng hỗn loài với Mỡ nhưng chưa tìm được tỷ lệ thích
hợp. Xét về mặt cải thiện đất, cây Lim xanh có thể là cây cải tạo đất khá tốt,
nhưng Xà cừ và Tếch thể hiện tác dụng này chưa rõ [11]
Nguyễn Bá Chất và các cộng sự (1976) đã sử dụng cây phù trợ là các
loài cây có khả năng cố định đạm như: Cốt khí (Polygonum reynontria),
Ràng ràng mít (Ormosia balansae), Lim xẹt (Peltophorum tonkinense), để thí
12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

nghiệm trồng rừng hỗn loài Bồ đề (Styrax tonkinensis) với Mỡ (Manglietia
glauca) và Xoan đào (Betula alnoides) ở Tuyên Quang và Phú Thọ. Tác giả
đã bố trí thí nghiệm theo băng và theo hàng, kết quả sau 5 năm cho thấy năng
suất của rừng Bồ đề trồng hỗn loài có cây phù trợ tăng 15 – 20% so với rừng
Bồ đề trồng thuần loài. Lượng thảm mục dưới tán rừng trồng hỗn loài cũng
được cải thiện hơn so với rừng trồng thuần loài .

Từ năm 1980 trở lại đây, việc phục hồi rừng bằng các loài cây bản địa
lá rộng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Nổi bật là công trình
nghiên cứu phục hồi rừng vùng Sông Hiếu thông qua việc xây dựng cấu trúc
hỗn loài Lát hoa với một số loài cây khác của Nguyễn Bá Chất (1994). Tác
giả đã trồng hỗn loài Lát hoa (Chukrasia tabularis) với một số loài cây lá
rộng bản địa như: Lim xẹt (Peltophorum tonkinense), Giổi xanh (Michelia
mediocris), Thôi chanh (Alangium barbatum), Lõi thọ (Gmelina Arborea),
Ràng ràng (Orosia Pinnata) nhằm tạo được một cấu trúc rừng hợp lý. Mô
hình này được theo dõi đến năm thứ 10 kết quả cho thấy khả năng sinh trưởng
rừng Lát hoa trồng hỗn loài tốt hơn rừng Lát hoa trồng thuần loài .
Khi nghiên cứu trồng rừng cung cấp nguyên liệu gỗ lạng ở Tây
Nguyên, Nguyễn Xuân Quát và cộng sự (1990) đã sử dụng cây Đậu tràm
(Indigofora teysmanii) và Muồng đen (Cassia siamea) như là cây phù trợ để
trồng rừng hỗn giao với Tếch (Tectona grandis). Kết quả bước đầu cho thấy
Tếch sinh trưởng khá tốt và phân cành muộn hơn so với Tếch trồng thuần
loài. Hơn nữa, cỏ dại dưới tán rừng trồng cũng hạn chế hơn nhiều, độ ẩm đất
dưới tán rừng trong mùa khô cũng cao hơn ở nơi trồng Tếch thuần loài [11].
Nguyễn Bá Chất (1996) đã nhận thấy việc chọn loài phối hợp với Lát
hoa đang còn khoảng trống cơ sở lý luận và thực tiễn. Thí nghiệm trồng hỗn
giao Lát hoa với các loài Trai (Garcinia fagraeo), Nghiến (Burretiodendron
13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

tonkinense), Bứa (Garcinia oblongifolia)… ở tuổi 5 chưa thấy có ảnh hưởng
đến sinh trưởng của Lát hoa [7].
Nghiên cứu tạo rừng trồng hỗn loài nhiều tầng, Trần Ngũ Phương
(2000) đã đề xuất mô hình thiết kế rừng hỗn loài nhiều tầng cho mục đích
phòng hộ và sản xuất thông qua các phương thức hỗn loài khác nhau như:
Hỗn loài giữa cây cao và cây bụi, hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Căn cứ

các công trình nghiên cứu về quy luật chủ yếu của rừng tự nhiên Miền
Bắc – Việt Nam tác giả cũng đã chỉ ra rằng thảm thực vật rừng ở nước ta đều
phân thành nhiều tầng, từ 2 đến 3 tầng cây gỗ chưa kể tầng cây nhỡ và thảm
tươi. Dựa trên quy luật đó tác giả đã đề xuất mô hình trồng rừng hỗn loài đáp
ứng mục tiêu phòng hộ đầu nguồn cho các vùng xung yếu. Trong đó, có 2 mô
hình hỗn loài nổi bật là mô hình rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng và
rừng sản xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng.
Khi đánh giá một số mô hình trồng rừng hỗn loài giữa cây bản địa với
Keo tai tượng ở các tỉnh phía Bắc, Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005) đã có
nhận xét rằng hầu hết cây trồng chính trong các mô hình rừng hỗn loài đều đã
và đang bị cây phù trợ (Keo tai tượng) lấn át mạnh. Nhưng đối với mô hình
trồng rừng hỗn loài trong nghiên cứu đã điều chỉnh được cây phù trợ kịp thời
nên bước đầu đã tạo điều kiện cho cây trồng chính sinh trưởng tốt, tỷ lệ sống
cao từ 80 – 93%. Tỷ lệ sống chung cho cả lâm phần đạt trên 90%. Tác giả còn
đề xuất được 2 mô hình có triển vọng nhất đó là mô hình trồng hỗn loài với
thảm che Keo tai tượng 7 tuổi ở Ngọc Lặc - Thanh hóa và mô hình trồn hỗn
loài với cây phù trợ Keo tai tượng trồng trước 1 năm ở Cầu Hai – Phú Thọ.
Một nghiên cứu khác của Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005) về
trồng rừng hỗn giao giữa Keo trắng (Paraserianthes falcataria) với Lõi thọ
(Gmelia arboria) ở Lương Sơn - Hoà Bình, trên đất rừng sau nương rẫy với
độ dốc từ 15
0
- 20
0
. Kết quả cho thấy cả Keo trắng và Lõi thọ đều sinh trưởng
14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

tốt, chưa thấy xuất hiện sâu, bệnh hại, Lõi thọ đã bắt đầu ra hoa, có thể

chuyển hoá thành rừng giống.
Khi nghiên cứu trồng rừng hỗn loài giữa các loài cây lá rộng bản địa
với cây ngoại nhập (Eucalyptus urophylla) ở Đoan Hùng – Phú Thọ, Nguyễn
Đức Thế (2007) đã cho thấy cây Giổi xanh (Michelia mediocris) trồng xen
với Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) có khả năng sinh trưởng cao gấp 1,5 lần
so với trồng thuần loài.
Ngoài các công trình nghiên cứu tạo lập các lâm phần rừng trồng hỗn loài
bằng các loài cây lá rộng còn có một số công trình nghiên cứu tạo ra rừng hỗn loài
giữa cây lá kim với cây lá rộng, giữa các loài cây ngoại nhập với nhau. Điển hình
là công trình nghiên cứu của Phùng Ngọc Lan (1986) đã cho thấy rừng hỗn loài ở
Núi Luốt (Trường Đại học Lâm nghiệp – Xuân Mai) giữa Thông đuôi ngựa với
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) và Bạch đàn trắng (Eucalyptus
camaldulensis) theo các tỷ lệ, mật độ, phương thức, thời điểm khác nhau. Kết quả
cho thấy sau 2 năm sinh trưởng của Thông trồng hỗn loài tốt hơn so với
Thông trồng thuần loài. Tỷ lệ hỗn giao chưa có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh
trưởng của Thông trên các công thức thí nghiệm. Đất dưới tán rừng được cải
thiện tốt hơn, giun đất phát triển nhiều hơn so với nơi trồng thuần loài. Điều
này chứng tỏ đất dước các mô hình trồng rừng hỗn loài thì các tính chất của
đất đã được cải thiện rõ rệt. Với thí nghiệm trên sau 2 năm, kết quả cho thấy
khả năng sinh trưởng chiều cao của Thông trồng thuần loài đạt 2,53m trong
khi đó chiều cao Thông được trồng hỗn loài với Keo theo tỷ lệ 1:1 là 2,8m và
tỷ lệ 1:2 là 2,72m. Sinh trưởng đường kính của Thông trồng hỗn loài với Keo
theo tỷ lệ 2:1 cũng lớn hơn và nhanh hơn [11].
1.2.2. Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng trồng
Đa số rừng trồng trong những năm trước đây là rừng thuần loài, mà
rừng trồng thuần loài rất kém bền vững, nhất là ở những khu vực phòng hộ

×