Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

tóm tắt luận án so sánh câu nghi vấn trong tiếng anh và tiếng việt trên bình diện ngữ dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.21 KB, 30 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





Nguyễn Thị Châu Anh





SO SÁNH CÂU NGHI VẤN
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
TRÊN BÌNH DIỆN NGỮ DỤNG



Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu
Mã số: 62. 22. 01. 10





TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN







Thành phố Hồ Chí Minh – 2011




Công trình được hoàn thành tại TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ
HỘI VÀ NHÂN VĂN - ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Công Đức


Phản biện độc lập: PGS.TS Trần văn Phước

Phản biện độc lập: PGS.TS Hà Quang Năng

Phản biện 1: GS.TS Diệp Quang Ban

Phản biện 2: PGS.TS Trần văn Phước

Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Văn Huệ




Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường
tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí
Minh
vào lúc 14 h giờ, ngày 24… tháng …04… năm 2012


Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Trung tâm ĐHQG - HCM
- Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh
- Thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.
Hồ Chí Minh
- Thư viện Trường Cao Đẳng Bến Tre, Tỉnh Bến Tre



1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đề tài này nghiên cứu đối chiếu câu nghi vấn trong tiếng Anh và tiếng
Việt trên bình diện ngữ dụng nhằm khẳng định vị trí đặc biệt của loại câu
nghi vấn trong giao tiếp, đồng thời phục vụ cho việc dạy, học tiếng Anh
và tiếng Việt như một ngoại ngữ.
Xã hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ giao tiếp của con người
ngày càng đa dạng, nên việc nghiên cứu các đặc điểm về cấu trúc, ngữ
nghĩa-ngữ dụng của câu nghi vấn và vấn đề sử dụng câu nghi vấn với các
chiến lược hỏi theo các phương thức đảm bảo tính lịch sự qua các hành
vi ngôn ngữ của cả hai ngôn ngữ Anh – Việt trong một tình huống giao
tiếp cụ thể, thật sự là rất cần thiết.
Đây có lẽ là lần đầu tiên câu nghi vấn của cả hai ngôn ngữ trong bối

cảnh giao tiếp tại lớp học qua 5 hành vi ngôn ngữ được làm thành một
đối tượng nghiên cứu riêng cho một luận án khoa học. Một đề tài như
vậy chắc hẳn sẽ chứa đựng những vấn đề phức tạp nhưng không kém
phần lý thú. Những điều đó đã thôi thúc tác giả luận án quyết tâm thực
hiện đề tài này. Đề tài này hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm những
vấn đề thuộc về lý thuyết cũng như thực tiễn có liên quan đến câu nghi
vấn trong Anh ngữ và Việt ngữ trên bình diện ngữ dụng.
2. Lịch sử vấn đề
Luận án đã xác định được một số khái niệm cơ bản và những vấn đề
khác có liên quan đến câu nghi vấn trên bình diện ngữ dụng làm cơ sở lý
thuyết. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và phát huy những thành tựu từ các
nhà ngôn ngữ học trên lĩnh vực ngữ dụng học như: Cao Xuân Hạo
(1998); Nguyễn Thiện Giáp (2006); Nguyễn Đức Dân (1998); Đỗ Hữu
Châu (2003a, 2003b, 2007); Nguyễn Đăng Sửu (2002); Lê Đông (1996);
Leech (1981, 1983), Levinson (1983); Searle (1969); Yule (1996);
Peccei (1999) … luận án đã đặt ra vấn đề đối chiếu câu nghi vấn trên
phương diện lịch sự một cách có hệ thống trên một phạm vi tương đối
rộng và sử dụng bối cảnh giao tiếp tại lớp học làm cơ sở để có thể ứng
dụng trong việc dạy và học tiếng Anh và tiếng Việt như một ngoại ngữ.
Các tác giả nghiên cứu về câu hỏi chính danh và không chính danh trong
cả hai ngôn ngữ trên bình diện kết học và ngữ nghĩa-ngữ dụng trong
những năm gần đây có liên quan đến luận án phải kể đến: 1) Nguyễn
Đăng Sửu đã có những đóng góp đáng kể về mặt phân loại các giá trị
ngôn trung của câu nghi vấn dựa trên một số tác phẩm và phân loại tần


2
số xuất hiện của mỗi loại trên cứ liệu khảo sát trong tiếng Anh và tiếng
Việt; 2) Lê Đông (1996)] nghiên cứu về ngữ nghĩa-ngữ dụng của câu hỏi
chính danh (trên ngữ liệu tiếng Việt); 3) Nguyễn Thúy Oanh [95] đã có

những đóng góp tổng kết các dạng thức của câu hỏi trong tiếng Anh và
tiếng Việt; 4) Nguyễn Thị Thìn đã nghiên cứu và khảo sát một số biểu
thức của các dạng câu nghi vấn không thường dùng để hỏi trong tiếng
Việt, qua đó đã đưa ra một số kiểu câu nghi vấn trích từ các tác phẩm
văn học có tần số xuất hiện cao và phân tích về ngữ nghĩa-ngữ dụng của
một số kiểu câu nghi vấn này trong tiếng Việt.
Các tác giả khác nghiên cứu chuyên sâu về hành vi ngôn ngữ trong giao
tiếp có thể kể đến: 1) Đào Nguyên Phúc (2005) đã khái quát được những
điểm tương đồng và khác biệt cơ bản của hai hành vi “xin” và “xin
phép”; 2) Lê Thị Hoàng Nga (2006) nghiên cứu chuyên sâu về: “Câu cầu
khiến tiếng Việt trên bình diện lịch sự và giao tiếp” (có đối chiếu với
tiếng Anh); 3) Đặng Thị Hảo Tâm (2006) đã thống kê, phân tích và kiến
giải về “Hành vi chê trách trong tiếng Anh-Mỹ (so với tiếng Việt)” trong
bài chuyên khảo của mình; 4) Dương Thị Thu Nhung (2007) trong công
trình nghiên cứu với nội dung: “Lịch sự ngôn từ trong nghi thức lời mời
tiếng Việt” đã cho thấy sự đa dạng phong phú về cách thể hiện lời mời
bằng các biểu thức mời trong tiếng Việt; 5) Nguyễn Thị Lương (2006)
(tr.32-42) đã có những minh họa lý thú liên quan đến nền văn hóa của
người Việt qua “Lời chào gián tiếp của người Việt với phép lịch sự”; 6)
Vũ Thị Thanh Hương (1997) đã nghiên cứu phép lịch sự hiện đại của
người Việt và chiến lược lịch sự của 46 tham nghiệm viên tại Hà Nội qua
phương pháp khảo sát bằng phiếu điều tra ngôn ngữ và phỏng vấn; 7) Tạ
Thị Thanh Tâm đã có những công trình nghiên cứu về vai giao tiếp và
phép lịch sự trong giao tiếp bằng tiếng Việt.
Luận án là bước tiếp nối những thành tựu ngôn ngữ học của tác giả trên,
thực hiện nhiệm vụ khảo sát chuyên sâu hơn về so sánh câu nghi vấn
trong tiếng Anh và tiếng Việt trong sử dụng ở tình huống giao tiếp tại
lớp học, và những ứng ứng dụng của nó trong việc dạy ngoại ngữ và dịch
thuật trong chương trình dịch tự động (dịch máy Google Traslation).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án đã sử dụng khối ngữ liệu khá phong phú và đa dạng để phục vụ
nghiên cứu, gồm: (1) 426 câu nghi vấn trong Quyển 1 của tác phẩm
Harry Potter cùng với bản dịch tiếng Việt tương ứng; (2) các câu nghi
vấn được sinh viên dùng trong lớp học, qua 1119 phiếu khảo sát; và (3)


3
các câu nghi vấn được dùng trong thực tiễn dạy và học ngoại ngữ trong
các tài liệu giảng dạy tiếng Anh. Luận án được thực hiện theo bốn bước:
- khảo sát tổng quan các kiểu câu nghi vấn;
- nghiên cứu câu nghi vấn trong sử dụng thông qua hệ thống các văn
bản;
- nghiên cứu câu nghi vấn trên phương diện lịch sự lịch sự từ 5 hành vi
ngôn ngữ trên thực tiễn giao tiếp tại lớp học;
- thử ứng dụng kết quả nghiên cứu so sánh câu nghi vấn vào việc dịch tự
động Việt – Anh và việc dạy tiếng Anh cho sinh viên Việt Nam.
Để tránh sự dàn trải và cũng phù hợp với tính chất của một luận án nhằm
nghiên cứu sâu đối tượng ở những khía cạnh cần thiết nhất trong thời
điểm nghiên cứu của nó, luận án này được thực hiện với nhiệm vụ cố
gắng trả lời những câu hỏi sau đây:
1. Câu nghi vấn trong tiếng Anh và tiếng Việt có những tương đồng và
khác biệt nào trên bình diện ngữ dụng? Và có bao nhiêu giá trị ngôn
trung trong tập ngữ liệu của mẫu khảo sát loại câu nghi vấn?
2. Xét từ góc nhìn của phép lịch sự trong thực tiễn giao tiếp tại lớp
học, những yếu tố nào tác động lên lực ngôn trung của câu nghi vấn
làm nên phép lịch sự trong giao tiếp từ khách sáo/lễ phép đến không
khách sáo/thân mật và liệu có thể có được một bức tranh khái quát
về sự hành chức đa dạng của câu nghi vấn trong sử dụng cho một
ngữ cảnh được xác lập cụ thể hay không?
3. Sự khác biệt của những yếu tố đánh dấu mức độ lịch sự trong câu

nghi vấn từ khách sáo/ trang trọng/ lễ phép đến không khách sáo/
thân mật/ suồng sã sẽ gây khó khăn như thế nào cho người Việt học
tiếng Anh khi phải nhập mã, giải mã, và chuyển mã Anh-Việt hoặc
Việt-Anh trong thực tiễn giao tiếp và dịch thuật?
4. Có những lời khuyên nào dành cho người Việt học tiếng Anh (và ở
chừng mực nào đó có thể suy diễn ngược lại cho người bản ngữ Anh
học tiếng Việt) liên quan đến việc sử dụng câu nghi vấn trong giao
tiếp và dịch thuật trên bình diện ngữ dụng?

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu ngôn ngữ phục vụ cho nghiên cứu trong luận án gồm 426
câu nghi vấn trong tác phẩm Harry Potter (Quyển 1), cùng với bản dịch
tiếng Việt tương ứng và các câu nghi vấn được sinh viên dùng trong lớp
học, qua 1119 phiếu khảo sát, các câu nghi vấn được dùng trong thực
tiễn dạy học trong các tài liệu giảng dạy tiếng Anh (song ngữ).


4
Dựa vào khối ngữ liệu này, tác giả luận án đã thực hiện các nhiệm vụ mô
tả, phân tích và bàn luận về câu nghi vấn trong tiếng Việt và tiếng Anh
từ góc độ ngữ dụng, sử dụng các phương pháp phân tích ngữ nghĩa- ngữ
dụng, phương pháp đối chiếu, phương pháp thống kê và phương pháp
trắc nghiệm.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Những đóng góp mới từ kết quả của luận án (Findings)
1. Luận án đã chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt của câu nghi
vấn trong hai ngôn ngữ đang xét làm cơ sở cho việc nghiên cứu kiểu câu
này trên bình diện ngữ dụng.
2. Luận án đã làm sáng tỏ một số khía cạnh hoạt động chức năng của
câu nghi vấn qua việc phân tích 22 giá trị ngôn trung của câu nghi vấn và

qua sự hành chức của nó trên bình diện ngữ dụng trong bối cảnh giao
tiếp tại lớp học như chức năng tạo lập, chức năng liên kết các từ ngữ của
câu nghi vấn trong vấn đề sử dụng qua việc khảo sát câu nghi vấn từ tác
phẩm Harry Potter.
3. Đặt câu nghi vấn trong giao tiếp thường nhật, luận án đã khảo sát kỹ
và có hệ thống các phương tiện biểu thị lịch sự trong câu nghi vấn qua 5
hành vi ngôn ngữ của cả hai ngôn ngữ, phân tích rõ các mức độ lịch sự
do các hành vi ngôn ngữ mang lại và tìm hiểu cách dùng các từ ngữ
xưng gọi trong câu nghi vấn qua thực tiễn sử dụng chúng tại lớp học.
4. Khảo sát thực trạng dạy và học câu nghi vấn trong tiếng Anh trên
thực tế dạy tiếng Anh cho sinh viên Việt Nam, điều tra việc dịch câu
nghi vấn từ Anh sang Việt từ phía sinh viên, kiểm định độ tin cậy trong
việc dịch tự động Anh – Việt và Việt – Anh từ công cụ Google
Translation (GT), luận án đã chỉ ra những yếu kém, nêu rõ nguyên nhân
và biện pháp cải tiến chất lượng giảng dạy cách dùng câu nghi vấn trong
sử dụng và đề xuất những ứng dụng thiết thực để chỉnh sửa công cụ GT
và những giải pháp nhằm vận dụng vào việc dạy và học câu nghi vấn
trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Khả năng ứng dụng trong thực tiễn và những vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu
Với phương pháp thu thập cơ sở ngữ liệu mới, nguồn tư liệu ngôn ngữ
riêng, phạm vi đề cập riêng, khái quát khoa học riêng, luận án khẳng
định sự hành chức của câu nghi vấn trong cả hai ngôn ngữ trong giao
tiếp tại lớp học. Kết quả nghiên cứu nhằm cải tiến việc dạy và học ngoại
ngữ, đặc biệt là phục vụ cho việc biên soạn giáo trình giảng dạy tiếng


5
Anh giao tiếp cho sinh viên và giúp sinh viên nâng cao kỹ năng nói, viết
và dịch câu nghi vấn trong cả hai ngôn ngữ tốt hơn.

Hy vọng rằng địa hạt còn bỏ ngỏ về những yếu tố hứng thú trong việc so
sánh câu nghi vấn của cả hai ngôn ngữ đang xét ở các thể loại văn bản
khác, tình huống giao tiếp khác và hướng khảo sát điều tra khác nhau
dành cho số lượng sinh viên đông hơn có thể giúp học viên hiểu sâu sắc
hơn về câu nghi vấn trong sử dụng ở mọi tình huống giao tiếp, cần được
tiếp tục nghiên cứu.
6. Bố cục của luận án
Không thuộc phần chính văn của luận án là Mục lục, Quy ước trình bày,
Bảng danh sách các chữ viết tắt, Tóm tắt, Tài liệu tham khảo và Nguồn
ngữ liệu minh họa, Danh mục công trình khoa học đã công bố, và 15 Phụ
lục. Phần chính văn gồm bốn chương sau đây: Mở đầu, Chương 1,
Chương 2, Chương 3, Chương 4, và Kết luận.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÂU NGHI VẤN TRONG TIẾNG
ANH VÀ TIẾNG VIỆT TRÊN BÌNH DIỆN NGỮ DỤNG
Chương 1 điểm qua những vấn đề lý thuyết có liên quan đến câu nghi
vấn trong tiếng Anh và tiếng Việt qua những công trình nghiên cứu của
các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước và các tác giả khác có quan
tâm nghiên cứu chuyên sâu về câu nghi vấn. Phần đầu của Chương 1
trình bày khái niệm câu nghi vấn và các vấn đề có liên quan đến câu nghi
vấn như phép lịch sự và các hành vi ngôn ngữ được thể hiện qua hình
thức câu nghi vấn trong hai ngôn ngữ khác nhau, tiếng Anh và tiếng Việt
để từ đó tìm ra được các tiêu chí phân loại câu nghi vấn qua thực tiễn sử
dụng trong một bối cảnh giao tiếp cụ thể.
Dù xuất phát từ hai quan niệm khác nhau về hình thức liên kết của các
thành tố trong câu nghi vấn trong cả hai ngôn ngữ nhưng cả hai ngôn
ngữ đều nhìn thấy phép lịch sự có vị trí đặc biệt quan trọng trong các
hành vi ngôn ngữ xét trong mối quan hệ liên nhân, thái độ ứng xử trong
giao tiếp và nội dung giao tiếp mà câu nghi vấn thể hiện, nó còn mang
dấu ấn của một nền văn hóa mà ngôn ngữ đó đang hành chức trong giao

tiếp xã hội.
Trên bình diện ngữ dụng, chúng tôi tập trung quan sát chức năng quy
chiếu và chỉ xuất của các từ ngữ chỉ xuất xưng hô và qua đó có thể thấy
được yếu tố chủ quan của người sử dụng ngôn ngữ trong những hoàn
cảnh cụ thể, biểu hiện thái độ, tình cảm của người nói cũng như sự phù
hợp hay không phù hợp với hoàn cảnh của môi trường sử dụng ngôn ngữ


6
đó xét trên phương diện lịch sự trong cả hai ngôn ngữ. Nhìn chung, câu
nghi vấn trong tiếng Anh và tiếng Việt có điểm chung là cùng một hình
thức nhưng có nhiều giá trị ngôn trung khác nhau trong bối cảnh giao
tiếp khác nhau, và nhiều kiểu câu nghi vấn với cấu trúc khác nhau nhưng
diễn đạt cùng một giá trị ngôn trung trên các thang độ lịch sự với màu
sắc biểu cảm rất khác nhau.
Điểm khác biệt giữa tiếng Anh và tiếng Việt trong việc phân định câu
nghi vấn trên cơ sở lý thuyết là cách dùng các từ ngữ xưng hô theo phép
lịch sự và các từ tình thái trong hai ngôn ngữ không hoàn toàn tương ứng
với nhau. Bước đầu, chúng tôi nhận thấy rằng các từ ngữ chỉ xuất xưng
hô và các tiểu từ tình thái cuối câu cũng như các từ kèm để hỏi thể hiện ý
nghĩa tình thái trong câu nghi vấn trong tiếng Việt đóng vai trò linh hoạt
và tích cực hơn các từ ngữ chỉ xuất xưng hô, các từ ngữ thể hiện tính tình
thái trong câu nghi vấn của tiếng Anh trong khả năng thể hiện ý nghĩa
của câu theo quan điểm của người sử dụng ngôn ngữ.
Tiểu kết Chương 1

CHƯƠNG 2: SO SÁNH CÂU NGHI VẤN TRONG BẢN TIẾNG
ANH CỦA TÁC PHẨM HARRY POTTER, QUYỂN 1 VÀ TRONG
BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT CỦA DỊCH GIẢ LÝ LAN
Qua so sánh đối chiếu những điểm tương đồng và khác biệt của câu nghi

vấn trong cả hai ngôn ngữ đang xét từ nguồn ngữ liệu là một tác phẩm
văn học đương đại, chúng tôi có những nhận xét sau:
Thứ nhất, loại câu hỏi tổng quát trong tiếng Anh được phân loại thành 5
dạng thức chính với tổng số là 125 trường hợp dựa trên cứ liệu khảo sát,
chiếm tỉ lệ 58,69%. Bên cạnh đó, câu hỏi chuyên biệt trong tiếng Anh
được phân làm 2 dạng thức chính, gồm 88 trường hợp, chiếm tỉ lệ
41,31%.
Loại câu hỏi tổng quát trong tiếng Việt được phân loại thành 7 dạng thức
chính, gồm 123 trường hợp, chiếm tỉ lệ 57,75%. Trong khi đó, loại câu
hỏi chuyên biệt trong tiếng Việt có 4 dạng thức chính, gồm 90 trường
hợp xuất hiện trên cứ liệu khảo sát, chiếm tỉ lệ 42,25%.
Khi so sánh các dạng thức của câu nghi vấn trong tiếng Anh và tiếng
Việt qua tác phẩm Harry Potter (Quyển 1) về mặt hình thức, có thể thấy
sự tương đồng trong cả hai ngôn ngữ về các dạng thức như sau:
Câu nghi vấn trong tiếng Anh và tiếng Việt đều có dạng câu hỏi tỉnh
lược và dạng câu hỏi sử dụng ngữ điệu (Declarative questions) nhưng
chiếm tỉ lệ không cao, dựa trên ngữ liệu khảo sát. Trong tiếng Anh đối


7
với loại câu hỏi tổng quát, dạng câu hỏi sử dụng ngữ điệu chiếm tỉ lệ
12,21%, và các dạng câu hỏi tỉnh lược trong cả hai loại câu hỏi tổng quát
và câu hỏi chuyên biệt là 27,23%. Trong tiếng Việt, đối với loại câu hỏi
tổng quát, loại câu hỏi sử dụng ngữ điệu cuối câu chỉ chiếm tỉ lệ 4,69%,
và đối với cả hai loại câu hỏi tổng quát và câu hỏi chuyên biệt, dạng câu
hỏi tỉnh lược chiếm tỉ lệ 23,94%.
Điểm khác biệt của câu nghi vấn trong tiếng Việt khi so sánh với tiếng
Anh là phương thức sử dụng các tiểu từ kép để hỏi tách rời nhau và xen
kẻ trong cấu trúc Chủ -Vị (C-V) của câu, trong khi đó chúng lại không
xuất hiện ở các loại câu nghi vấn trong tiếng Anh. Phương thức dùng từ

kèm để hỏi, thêm các tiểu từ kép và sử dụng các tiểu từ tình thái cuối câu
là một trong những phương thức đặc thù của câu nghi vấn trong tiếng
Việt. Trong khi tiếng Anh lại dựa vào phương thức từ vựng, cú pháp
hoặc hình thái-cú pháp để tạo thức nghi vấn.
Sự tương đồng về cấu trúc câu nghi vấn của hai ngôn ngữ là điều kiện
thuận lợi người Việt học tiếng Anh và người nước ngoài học tiếng Việt
trên thực tiễn giao tiếp và dịch thuật. Trong tiếng Việt, sự vắng mặt của
các tiểu từ hỏi trong câu hỏi tổng quát và chuyên biệt trong tiếng Việt,
điển hình là các loại câu hỏi sử dụng ngữ điệu (Declarative questions)
tạo nhiều thuận lợi hơn cho việc dịch câu nghi vấn từ Việt sang Anh khi
thiết kế các giải thuật cho chương trình dịch tự động Google Translation
(GT) trên ngữ liệu song ngữ. Sự có mặt của các tiểu từ kèm để hỏi nằm
xen kẽ hoặc cuối câu nghi vấn thực sự là một trở ngại cho người học
tiếng và cũng là những thách thức không nhỏ cho chương trình dịch tự
động GT mà luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu và khảo sát trong Chương 4.
Thứ hai, bằng kết quả khảo sát các từ ngữ chỉ xuất xưng hô trong tiếng
Việt theo sự hành chức của nó trên cứ liệu khảo sát (Xem Bảng 2.5),
luận án chứng minh những từ ngữ xưng hô này cũng đóng vai trò là các
phương tiện chỉ dẫn để góp phần nhận diện các giá trị ngôn trung của các
câu nghi vấn trên cứ liệu khảo sát: mi/ lão/ thầy/ trò/ tụi con/ tụi bay/ bồ/
các cháu. Các từ ngữ chỉ xuất xưng hô trong câu nghi vấn theo 3 ngôi ở
số đơn, số phức đã mang 4 sắc thái biểu cảm trong sự hành chức của nó
khi đối chiếu các câu nghi vấn trong cả hai ngôn ngữ đang xét trên bình
diện ngữ dụng. Xét về mối quan hệ tôn ti trong xã hội, luận án bổ sung
và phân tích thêm 2 đại từ chỉ xuất xưng hô: Thầy và Trò. Sự hành chức
của hai đại từ này trong mối quan hệ tôn ti trong xã hội theo 3 mức trên,
dưới, ngang theo quan hệ thứ bậc và 4 mức độ về sắc thái biểu cảm mà 2
đại từ này đang hành chức khi khảo sát câu nghi vấn trong tiếng Việt.



8
Kết quả khảo sát các đại từ chỉ xuất xưng hô cho thấy 16 từ ngữ chỉ xuất
xưng hô trong tiếng Anh đối chiếu với 49 từ ngữ chỉ xuất xưng hô tương
ứng trong tiếng Việt. Đây là cứ liệu chứng minh khả năng hoạt động linh
hoạt của đại từ chỉ xuất xưng hô trong tiếng Việt cao hơn và phong phú,
đa dạng hơn so với các từ ngữ tương ứng của tiếng Anh trong câu nghi
vấn. Do vậy, sự đa dạng về các từ ngữ chỉ xuất xưng hô trong tiếng Việt
cũng là một rào cản lớn cho người nước ngoài học tiếng Việt.
Kết quả khảo sát từ Chương 2 cho thấy việc dùng từ ngữ xưng hô trong
tiếng Anh phải phù hợp với từ ngữ dùng trong tiếng Việt khi chuyển dịch
từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Điều này phụ thuộc vào các yếu tố ngữ
nghĩa, ngữ dụng như thái độ tôn trọng hay không tôn trọng, quan hệ thân
mật hay không thân mật, tuổi tác và các hành vi ngôn ngữ cụ thể ứng với
đối tượng giao tiếp cụ thể của các vai giao tiếp trong bối cảnh diễn ra các
phát ngôn đó.
Thứ ba, kết quả thống kê và mô tả 22 giá trị ngôn trung qua khảo sát
(Bảng 2.9 trong Chương 2 của luận án) đã phân loại theo hệ thống theo
hai trường hợp trong sử dụng: (1) câu nghi vấn với đích ngôn trung là
yêu cầu thông tin - loại câu nghi vấn chính danh; và (2) gồm các trường
hợp có các giá trị ngôn trung khác - loại câu nghi vấn không chính danh
(phi chính danh). Kết quả khảo sát đã cho thấy các câu nghi vấn chính
danh trong ngữ liệu khảo sát gồm 150 trường hợp, chiếm tỉ lệ 70,42%.
Các câu nghi vấn không chính chỉ xuất hiện 63 trường hợp với tỉ lệ
29,58% trên tổng số 426 câu nghi vấn được khảo sát.
Bảng 2.9: Thống kê các giá trị ngôn trung của câu nghi vấn trong tiếng
Anh và tiếng Việt dựa trên cứ liệu khảo sát
Số
thứ
tự
Loại câu nghi vấn

theo giá trị ngôn
trung dưới góc
nhìn ngữ dụng
Giá trị ngôn trung
của câu nghi vấn
trong tiếng Anh và tiếng Việt
Tần
số
xuất
hiện
(%)
1 Tìm thông tin Yêu cầu thông tin từ người được hỏi
(Câu hỏi chính danh) 150 70.42
2 Yêu cầu Yêu cầu người được hỏi thực hiện
một hành động nào đó
5 2.35
3 Thỉnh cầu Nhằm cầu xin, nhờ người được hỏi
thực hiện yêu cầu nào đó mà người
được hỏi đang ở vị thế thượng phong
xét trong mối quan hệ xã hội với
người hỏi (người phát ngôn
hỏi<người thụ ngôn)
1 0.47


9
4 Giả định Phát ngôn nghi vấn dựa trên vấn đề
được giả định
6 2.82
5 Khen ngợi Phát ngôn nghi vấn với mục đích

khen ngợi 1 0.47
6 Chào hỏi-lễ nghi Chào hỏi hoặc hỏi không cần lời đáp
nhằm đảm bảo các quy tắc lịch sự
trong giao tiếp 4 1.88
7 Tu từ Câu hỏi không nhằm để trả lời mà để
lôi kéo sự chú ý của người nghe.
Thậm chí thách thức người được hỏi
khả năng bác bỏ hoặc đưa ra câu trả
lời 3 1.41
8 Thăm dò Nhằm làm tiền dẫn nhập mở đường
cho phát ngôn tiếp theo được cho là
đặc biệt bất ngờ hoặc có thể táo bạo
đối với người được hỏi 1 0.47
9 Xin phép Nhằm xin phép người được hỏi trước
khi thực hiện một điều gì đó
2 0.94
10 Phàn nàn Nhằm bày tỏ ý phàn nàn hoặc than
phiền với người nghe hoặc với chính
mình 2 0.94
11 Thông báo Thông báo cho người nghe biết một
điều gì đó thông qua phát ngôn nghi
vấn
2 0.94
12 Băn khoăn Nhằm bày tỏ ý nghĩa biểu thái là băn
khoăn về mệnh đề được hỏi
1 0.47
13 Hoài nghi Nhằm đánh giá mệnh đề được
hỏi là trái với lẽ thường, hoài
nghi về tính xác thực của
mệnh đề được hỏi 2 0.94

14 Cảm thán Nhằm bày tỏ tình cảm hay cảm xúc
của mình trong mệnh đề được hỏi
4 1.88
15 Mời Yêu cầu ai đến nơi nào hoặc làm điều
gì đó một cách thân mật, không phân
biệt vị thế xã hội
2 0.94
16 Rủ Nhằm thực hiện hành vi mời trong bối
cảnh người thực hiện hành vi mời có
vị thế xã hội ngang bằng với người
được mời 2 0.94
17 Trách móc Nhằm nêu vấn đề làm mình không hài
lòng với ý trách móc người đang đối
thoại 1 0.47


10
18 Đề nghị Yêu cầu người được hỏi thực hiện
một yêu cầu hay đưa ra một ý kiến
yêu cầu thực hiện trên cơ sở bình
đẳng trong quan hệ giao tiếp 3 1.41
19 Yêu cầu xác nhận Yêu cầu xác nhận lại một giả thiết đã
nêu hoặc một thông tin
12 5.63
20 Phủ định Nhằm phủ định một thông tin để bác
bỏ 4 1.88
21 Giễu cợt, mỉa mai Nhằm giễu cợt hay mỉa mai một vấn
đề nào đó dựa trên thông tin của phát
ngôn nghi vấn 1 0.47
22 Điều tiết (siêu ngôn

ngữ) để kết nối
cuộc thoại
Nhằm kết nối cuộc thoại, đảm bảo
tính liên tục của cuộc thoại trong giao
tiếp 4 1.88
Tổng cộng:
213 100.00

Ghi chú: Câu hỏi yêu cầu thông tin từ người được hỏi với giá trị ngôn trung là
tìm thông tin được quy ước là câu hỏi chính danh được xếp đầu tiên trong Bảng
2.9 có số lượt xuất hiện nhiều nhất (150 lượt). Các câu hỏi khác từ số thứ tự
thứ 2 đến số 22 thuộc loại câu hỏi không chính danh.

Những nhận xét rút ra từ việc phân tích đánh giá kết quả khảo sát các giá
trị ngôn trung của câu nghi vấn trong cả hai ngôn ngữ cho phép đi đến
một nhận định:
Khi chuyển dịch qua lại các câu nghi vấn từ Anh sang Việt và ngược lại,
người dịch cần phải đảm nhận vai trò trung gian đúng nghĩa của hai nền
văn hóa với từng nét đặc trưng riêng. Để đảm bảo được các giá trị ngôn
trung trong câu nghi vấn tiếng Việt khi so sánh với tiếng Anh, điều quan
trọng là cần phải lựa chọn các từ xưng hô thích hợp trong từng câu nghi
vấn của từng ngôn ngữ cụ thể, tuân theo các qui tắc về phép lịch sự trong
mối quan hệ giữa các tham thể giao tiếp. Các dạng thức câu nghi vấn
cùng với những chỉ dẫn lực ngôn trung phải đảm bảo tương thích và phù
hợp trong nền văn hóa tiếp nhận. Cần kết hợp cả hai khía cạnh: Cấu trúc
và quy tắc xưng hô thì mới đạt được hiệu quả ngữ dụng.
Tiểu kết Chương 2


11

CHƯƠNG 3: SO SÁNH CÂU NGHI VẤN TRONG TIẾNG ANH
VÀ TIẾNG VIỆT QUA CÁC HÀNH VI NGÔN NGỮ TRONG
GIAO TIẾP TẠI LỚP HỌC
Phương pháp nghiên cứu: Thống kê mô tả
Bảng 3.1: Thông tin mô tả về các tham nghiệm viên
Male/Female

Frequency Percent Valid
Percent
Cumulative
Percent
Valid Nam 338 30.2 30.2 30.2
Nữ 781 69.8 69.8 100.0
Total 1119 100.0 100.0
Age Frequency Percent Valid
Percent
Cumulative
Percent
Valid Từ 18 đến 25 927 82.8 82.8 82.8
Từ 26 đến 35 192 17.2 17.2 100.0

Total 1119 100.0 100.0
Colleges/ Universities Frequency Percent Valid
Percent
Cumulative
Percent
Valid 1. Trường Cao đẳng
Bến Tre, Thành phố
Bến Tre
552 49.3 49.3 49.3

2. Trường Cao đẳng
Sư Phạm Đà Lạt,
Thành phố Đà Lạt
197 17.6 17.6 66.9
3. Trường Cao đẳng
Sư phạm Bà Rịa -
Vũng Tàu, Vũng
Tàu
288 25.7 25.7 92.7
4. Cao đẳng và Đại
học USA
15 1.3 1.3 94.0
5. Trường Đại học
Khoa học Xã hội -
Nhân văn, TP. HCM
65 5.8 5.8 99.8
6. Khác 2 .2 .2 100.0
Total: 1119 100.0 100.0
Một số ví dụ minh chứng cho cách thức phân loại các hành vi ngôn ngữ
mà sinh viên thể hiện qua 5 hành vi ngôn ngữ trên thang độ lịch sự
(scales of politeness)
1
gồm các điểm mốc A,B,C,D, E trên thang đo

1
Các ví dụ diển hình trích từ phiếu trưng cầu ý kiến nhằm khảo sát ngôn ngữ dùng trong
lớp học của sinh viên. Các câu nghi vấn trong cả hai ngôn ngữ hướng tới 5 hành vi ngôn


12

khoảng (ranges) qua câu nghi vấn trong tiếng Anh và tiếng Việt. Chẳng
hạn, trong hành vi mượn:
Trong tiếng Anh
a. Xét theo vai giao tiếp: Sinh viên (SV) và Giáo viên (GV)
(Sp1<Sp2)
Loại A: 94. May I please borrow the statistics book?
Loại B: 95. Would you mind if I borrow your book for a little while?
Loại C: 96. Could I please borrow that book to study?
Loại D: 97. Can I borrow this for research?
Loại E: 98. *Would you mind to lend me this book?
Câu 98 được xếp loại E do câu sai về ngữ pháp trong tiếng Anh. Sau cấu
trúc “Would you mind” phải là một mệnh đề if clause hoặc V-ing.
b. Xét theo vai giao tiếp: Sinh viên (SV) và Sinh viên (SV) (Sp1 =
Sp2):
Loại A: 99. Can I please borrow your book?
Loại B: 100. Can I borrow your statistics book?
Loại C: 102. Hey, do you have that book?
Loại D: 103. Let me borrow your book?
Loại E: 104.*Would you like to borrow a book?
Câu 104 là câu không thể chấp nhận được do dùng sai mục đích phát
ngôn. Tác động của lực ngôn trung cho hành vi mượn không thích hợp vì
phát ngôn này đã làm đổi vai người mượn thành người cho mượn.
Trong tiếng Việt
a. Xét theo vai giao tiếp: Sinh viên (SV: Sp1) và Giáo viên (GV: Sp2)
trong tình huống (Sp1< Sp2):
Loại A: 110. Thưa cô, cô có thể cho em mượn quyển sách này để về nhà
em tham khảo thêm được không ạ?
Loại B: 111. Quyển sách tiếng Anh thầy giới thiệu hay quá, thầy cho em
mượn một lát để photo được không (ạ)?
Loại C: 112. Cô ơi, cho em mượn quyển sách này nha cô?/ Thầy ơi, cho

em mượn cuốn sách của thầy nhé?
Loại D: 113. Cô cho em mượn quyển sách?
b. Xét theo vai giao tiếp: Sinh viên (SV) và Sinh viên (SV)
(Sp1=Sp2):

ngữ được khảo sát từ phía sinh viên các trường đại học và cao đẳng được tác giả trình
bày trong Quyển Phụ lục của luận án (Xem Phụ lục 7,8). Số thứ tự của các ví dụ được
trích từ phần chính văn trong luận án.


13
Loại A: 114. Bạn xem xong quyển sách này chưa? Có thể cho mình
mượn được không?
Loại B: 116. Cho mình mượn quyển sách này chút nha?
Loại C: 117. Mình mượn cuốn sách tí nha bồ?
Loại D: 119. Mượn cuốn sách kia đi?; 120. Mượn cuốn sách, mày?
Việc phân loại chủ yếu dựa trên cơ sở lý thuyết từ quan điểm của các tác
giả đi trước về phép lịch sự, và theo cách phân định của các nhà ngôn
ngữ học: [15], [16], [18], [19], [37], [73], [81], [117], [172], [174], [175],
[178], [198], [199], [200], [201], [206], [212]. Ngoài ra, mức độ từ A
(more formal) đến D (more informal) còn tùy thuộc vào tình huống, ngữ
cảnh cụ thể, tùy thuộc vào đối tượng được hỏi trong từng cặp thoại theo
các vai giao tiếp khác nhau.
Kết quả nghiên cứu về những từ ngữ sinh viên thích sử dụng trong xưng
và hô tại lớp học cho thấy sinh viên Việt Nam học tiếng Anh thích
thầy/cô sử dụng cặp từ “I” để xưng và “tên sinh viên” để hô gọi (Xem
Bảng 3.3a trong Chương 3 của luận án). Trong tiếng Việt, hai cặp từ ngữ
chỉ xuất xưng hô trong giao tiếp tại lớp học là “thầy/cô – các bạn”
(28%) chiếm tỉ lệ phần trăm cao nhất trong Bảng kết quả khảo sát, đứng
thứ hai là cặp từ: “tôi –các bạn” chiếm tỉ lệ 22,9% trong số 6 cặp từ ngữ

dùng để xưng và hô trong lớp học.
Bước đầu, luận án đã phân định các câu nghi vấn trong cả 5 hành vi ngôn
ngữ từ 1119 tham nghiệm viên một cách khá chi tiết và có hệ thống với
các mức độ phân định gồm 4 cột mốc gồm A, B, C, D, E theo thứ tự từ
lịch sự nhất (loại A) mang tính khách sáo, giữ khoảng cách (trang
trọng/lễ phép) đến mức không giữ khoảng cách, không khách sáo (loại
D) (thân mật/suồng sã) trên thang độ lịch sự. Các câu nghi vấn trong
tiếng Anh sai do lỗi về ngữ kết và ngữ nghĩa-ngữ dụng được xếp vào loại
E, theo thống kê từ cứ liệu khảo sát có104 trường hợp.
Trong tiếng Việt, theo thống kê mô tả 5 HVNN trên thang độ lịch sự gồm 4
mức được đánh dấu bằng ký hiệu A, B, C, D trên thang đo về nghi thức lịch
sự, các câu nghi vấn loại A (lễ phép/ trang trọng/ giữ khoảng cách) trong 4
hành vi ngôn ngữ: mượn, khen, mời, yêu cầu được sử dụng nhiều nhất. Chỉ
có hành vi chê, các câu nghi vấn có khuynh hướng tập trung ở loại C. Trong
hành vi mượn, loại A có tần số xuất hiện là 209 trên tổng số 415 câu nghi
vấn được khảo sát. Loại A (lễ phép/khách sáo/giữ khoảng cách) chiếm tỉ lệ
50,4% so với các câu nghi vấn loại khác được dùng trong hành vi ngôn ngữ
này. (Xem Bảng 3.12 và 3.14 trong Chương 3 của luận án).


14
Kết quả nghiên cứu qua mẫu khảo sát (N=1119) cho thấy “sự im lặng”
kèm theo hành động để giải mã cho sự chọn lời đáp “đồng ý” cho câu
nghi vấn dùng để “hỏi mượn” là 4 trường hợp, và cho câu nghi vấn dùng
để hỏi mời là 14 trường hợp. Qua Bảng hỏi để trưng cầu ý kiến từ 1119
sinh viên, cách trả lời có tần số xuất hiện cao nhất trong cả ba bảng kết
quả khảo sát về cách thức cách thức trả lời cho 3 hành vi ngôn ngữ
mượn, mời và yêu cầu là “rõ ràng, thẳng thắn và nhiệt tình” bằng một
phát ngôn trực tiếp nào đó. “Trả lời rõ ràng một cách thẳng thắn và nhiệt
tình” trong hành vi mượn số lượt xuất hiện chiếm tỉ lệ cao nhất (93%),

đứng thứ hai là trong hành vi mời (84,7%) và sau cùng là hành vi yêu
cầu (71,9%) theo thứ tự trong Bảng 3.16a, 3.16b, và 3.16c. Các Biểu đồ
mô tả trong Chương 3 đã cho thấy bức tranh khá sinh động về nghi thức
lịch sự trong các hành vi ngôn ngữ trong lớp học của sinh viên Việt
Nam. Điều này cũng chứng minh sự đa dạng phong phú về nghi thức
lịch sự của phép lịch sự trong tương tác qua các hành vi ngôn ngữ.
Kết quả khảo sát này cũng chứng minh trong số các yếu tố tác động lên
lực ngôn trung của câu nghi vấn được xét trong cả ba hành vi ngôn ngữ:
mượn (Bảng 3.17a), mời (Bảng 3.17b), và yêu cầu (Bảng 3.17c), yếu tố
“sự chân thành/tính chân thật” được chọn là yếu tố quan trọng nhất,
chiếm tỉ lệ cao nhất trong Bảng kết quả khảo sát.
Sự chọn lựa các từ ngữ trong câu nghi vấn trên bề mặt ngôn ngữ cũng
được xem là cách để chọn lựa hành vi ngôn ngữ sao cho đạt được mục
đích giao tiếp và cũng để giữ thể diện cho nhau trong tương tác xã hội.
Chương 3 cũng đã khái quát lên phương thức mở rộng cấu trúc hạt nhân
làm nòng cốt cho câu nghi vấn bằng cách mở rộng về phía trái, và về
phía phải theo nghi thức lịch sự bằng các khả năng kết hợp của các từ
ngữ làm phương tiện biểu đạt nghi thức lịch sự trong câu nghi vấn (Bảng
3.20).
Dựa trên cơ sở lý luận của các nhà ngôn ngữ học về vấn đề lịch sự trên
lĩnh vực của ngữ dụng học, Chương 3 bước đầu xác lập bức tranh ngôn
ngữ về mức độ lịch sự trong giao tiếp từ khách sáo (giữ khoảng cách)
đến thân mật suồng sã (không tạo khoảng cách) theo mối quan hệ dọc
(thấp – cao) và quan hệ ngang, xét về mặt tôn ti trật tự trong giao tiếp xã
hội. Với hình thức câu nghi vấn, bức tranh về “nghi thức lịch sự qua hình
thức ngôn ngữ” trong tương tác xã hội của con người được định vị trong
hai vai giao tiếp cụ thể là trò/thầy và trò/ trò, trong đó người nghiên cứu
đang đứng từ góc nhìn của người thầy. Kết quả nghiên cứu cho thấy



15
những đặc điểm về ngữ dụng của câu nghi vấn trong cả hai ngôn ngữ
như sau:
- Vị thế xã hội của người nói trong mối quan hệ với người nghe và các từ
ngữ biểu đạt tình thái trong câu nghi vấn qua hành động hỏi tạo nên những
thang độ xã hội khác nhau làm nên tính lịch sự trên thang đo của phép lịch
sự trong tương tác xã hội khi giao tiếp. Do vậy, việc sử dụng ngôn ngữ để
đảm bảo phép lịch sự phải tùy thuộc vào vị thế xã hội. Các hành vi ngôn ngữ
được thể hiện qua câu nghi vấn cho thấy sự đánh giá tính lịch sự trong câu
nghi vấn thể hiện các giá trị ngôn trung khác nhau chịu sự chi phối nhiều ở
các từ ngữ xưng hô và các từ ngữ biểu đạt tình thái trong câu.
- Chương này đã làm rõ được mối quan hệ giữa cấu trúc cú pháp và tiền giả
định dụng pháp của câu nghi vấn, mối quan hệ của câu nghi vấn với các loại
câu khác trong các hành vi ngôn ngữ, sự hành chức của câu nghi vấn trong
mối liên hệ với các thành tố ngôn ngữ khác có liên quan đến câu nghi vấn để
tạo nên hiệu lực tại lời của một hành vi ngôn ngữ, và mối quan hệ giữa việc
dùng các từ ngữ xưng hô trong câu nghi vấn với vị thế xã hội của các vai
giao tiếp trên phương diện lịch sự.
- Mặc dù chưa có điều kiện để miêu tả về ngữ điệu của câu nghi vấn
trong cả hai ngôn ngữ nhưng luận án cũng góp phần xác định rõ các
phương thức biểu đạt lịch sự trong câu nghi vấn khi mở rộng cấu trúc
nòng cốt của câu theo nghi thức lịch sự. Qua kết quả khảo sát, luận án
cũng khẳng định được các yếu tố tác động lên lực ngôn trung của câu
nghi vấn cụ thể trong tình huống giao tiếp tại lớp học trên phương diện
lịch sự nói riêng và trên bình diện ngữ dụng nói chung cho bức tranh
toàn cảnh về ngôn ngữ học. Những gì tìm được từ Chương này cũng
thiết thực góp phần phục vụ giảng dạy ngoại ngữ và là tài liệu tham khảo
về đặc điểm ngữ dụng của câu nghi vấn qua các hành vi ngôn ngữ trong
cả hai ngôn ngữ đang xét.
Tiểu kết Chương 3


CHƯƠNG 4: ỨNG DỤNG KẾT QUẢ ĐỐI CHIẾU NHỮNG
PHƯƠNG TIỆN DIỄN ĐẠT CÂU NGHI VẤN CỦA TIẾNG ANH
VÀ TIẾNG VIỆT TRONG VIỆC DẠY VÀ HỌC NGOẠI NGỮ
Trong tiếng Việt, hành động hỏi được thể hiện trong câu nghi vấn có khả
năng thiếu vắng danh từ chỉ vật sở chỉ, hoặc các từ hạn định
(determiners) chỉ xuất rõ người hoặc vật được nói đến trong danh ngữ,
một trong những thành tố ngôn ngữ có mặt trong câu nghi vấn. Tuy
nhiên, bằng phương tiện chỉ trỏ, thái độ, ngữ điệu và ngữ cảnh có tiền giả


16
định xác định cụ thể qua phương thức chiếu vật chỉ xuất trong ngữ cảnh
cụ thể, người phát ngôn và người thụ ngôn đều có thể hiểu rõ vật sở chỉ
được nói đến trong câu nghi vấn.
Trong tiếng Anh, chẳng hạn, danh từ book (sách) được nói đến trong
hành vi mượn là cuốn sách mà người mượn nghĩ tới khi tiến hành phát
ngôn hỏi mượn. Ngoài ra, danh từ book trong các hành vi ngôn ngữ được
khảo sát luôn được xác định bằng các từ hạn định đứng trước nó. Chẳng
hạn, trong cứ liệu khảo sát từ sinh viên: May I (please) borrow your
book?/ Can I borrow that book?/ Would you mind if I borrow a book?/
Can you lend me some books? Và trong tiếng Anh không thể nói: *Can I
borrow book? vì từ book cần phải được xác định rõ trong câu hay được
chỉ xuất rõ trong phát ngôn, nghĩa là cần phải có ít nhất là một từ hạn
định đứng trước nó, chẳng hạn, tính từ sở hữu (possessive adjectives):
your; mạo từ (articles): a/the; tính từ chỉ định (demonstrative
adjectives): this/ that hoặc được thay thế bằng đại từ. Đây là điều mà học
viên người nước ngoài cảm thấy tiếng Việt không thể được gọi là “dễ
hiểu” khi sử dụng cấu trúc danh ngữ trong câu nghi vấn của tiếng Việt để
diễn đạt các hành vi ngôn ngữ trong giao tiếp bằng tiếng Việt. Trong

Chương 4, kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên Việt Nam mắc nhiều
lỗi về ngữ nghĩa-ngữ dụng trong cách sử dụng câu nghi vấn trong tiếng
Anh qua 5 hành vi ngôn ngữ. Chẳng hạn, trong trường hợp sử dụng câu
nghi vấn trong lớp học qua các hành vi ngôn ngữ, tổng số lỗi (Loại E)
được thống kê là 104 lượt trong số 2898 câu nghi vấn trong tiếng Anh
được khảo sát. Qua đó, luận án cũng đề ra biện pháp khắc phục khi sử
dụng câu nghi vấn trong tiếng Anh dành cho sinh viên Việt Nam.
Luận án cũng đã tổng kết lại hướng nhìn câu nghi vấn từ góc độ của ngữ
dụng học rằng ngôn ngữ không hiểu quy luật ngữ dụng dành riêng cho
nó, mà nó tự có khả năng tự biến đổi linh động và uyển chuyển theo
quan điểm và nhu cầu của người dùng. Điều cần thiết là người dạy có
những giải pháp cụ thể trong phương pháp dạy trong chương trình giảng
dạy, để có thể chỉ cho người học những gì họ chưa nắm bắt được và
những gì họ cần khi sử dụng câu nghi vấn trong tiếng Anh và tiếng Việt
theo chuẩn mực của nghi thức lịch sự trong thực tiễn giao tiếp.
Phép lịch sự trong giao tiếp là một vấn đề hết sức thú vị và cũng là một
nhu cầu cấp thiết trong xã hội, là một trong những vấn đề ngữ dụng học
quan tâm nghiên cứu. Xét cho cùng, phép lịch sự là sự nhận thức của con
người về cách ứng xử trong các quan hệ xã hội. Miêu tả và đối chiếu câu
nghi vấn qua những phương tiện khác nhau trong cả hai ngôn ngữ trên


17
phương diện lịch sự vừa góp phần làm sáng tỏ nét đặc thù của từng hành
vi ngôn ngữ, vừa đóng góp vào việc hình thành năng lực giao tiếp trong
ngôn ngữ mà người học cần phải bắt chước, phải nhận thức kỹ lưỡng
cách thức mà ngôn ngữ đó hành chức khi chưa thủ đắc được ngôn ngữ
đó như người bản ngữ. Điều này có ý nghĩa trong các hành động hỏi -
đáp trong giao tiếp. Khi học viên có những sai sót và va vấp khi thực
hiện các hành vi ngôn ngữ mới để lộ ra cho giáo viên những phương

hướng để điều chỉnh thích hợp. Qua đó, có thể thấy rằng việc luyện tập
ngôn ngữ bằng cách thực hành giao tiếp với nhau theo hướng tiếp cận
giao tiếp (communicative approach) là con đường duy nhất để học viên
có thể tiếp thu và sử dụng các hành vi ngôn ngữ này hiệu quả hơn.
Trong giải pháp dịch câu nghi vấn từ tiếng Anh sang tiếng Việt và ngược
lại, luận án đề nghị một công cụ thiết thực giúp sinh viên tự học Anh ngữ
bằng phương tiện dịch tự động (dịch máy bằng công cụ Google
Translation): Chương 4 đã kiểm định độ tin cậy của chương trình dịch tự
động GT. Kết quả kiểm định cho thấy nếu theo giải pháp đề nghị gồm 9
nguyên tắc nhập dữ liệu tiếng Việt khi đề nghị GT dịch các câu nghi vấn
từ Việt sang Anh, GT cho kết quả dịch chính xác hơn, kết quả dịch tốt
hơn. Chẳng hạn, trong việc cải tiến chất lượng dịch của GT khi dịch Việt
– Anh 36 câu nghi vấn trích từ các phiếu điều tra ngôn ngữ của sinh
viên, GT cho kết quả dịch sai 100% trong lần dịch đầu tiên. Trong lần
dịch thứ hai, theo cách nhập dữ liệu tiếng Việt được đề nghị tại Chương
4, GT cho kết quả dịch đúng lên đến 94,44%. Kết quả kiểm định lần thứ
hai với 108 câu nghi vấn được trích từ các giáo trình, tài liệu giảng dạy
Anh ngữ (song ngữ) cho thấy kết quả dịch đúng tăng một cách đáng kể:
số câu được GT dịch cho kết quả đúng trong việc sử dụng câu nghi vấn
để có thể giao tiếp được tăng từ 28 câu đúng (25,93%) lên 91 câu
(84,26%).
Chương 4 nghiêng về khía cạnh thực tiễn hơn hơn là lý luận của vấn đề.
Qua phân tích một số phương tiện diễn đạt nghi thức lịch sự trong lời nói
trên thang đo về phép lịch sự trong câu nghi vấn của tiếng Anh và tiếng
Việt, người học có thể nhận thức được cái bảng màu của phong cách lịch
sự trong bức tranh ngôn ngữ trên bình diện của ngữ dụng học, mà trong
đó các từ ngữ xưng hô và những từ tình thái, cũng như những từ ngữ làm
tiền dẫn nhập, hay liên kết bắc cầu để một hành vi ngôn ngữ được biểu
đạt qua hình thức câu nghi vấn có thể phát huy được hiệu lực tại lời của
nó một cách thích hợp trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.



18
Miêu tả các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Anh khi so với tiếng Việt
đúng với đặc thù và thực tế sử dụng ngôn ngữ, luận án đã cố gắng nghiên
cứu tương đối chi tiết một số phương tiện diễn đạt ý nghĩa lịch sự và góp
một tiếng nói khẳng định những nét riêng trong câu nghi vấn của tiếng
Anh và tiếng Việt.
Qua việc khảo sát lỗi, nhận diện lỗi, nguyên nhân của tình trạng yếu kém
và tìm biện pháp khắc phục những lỗi nêu trên, Chương cuối của luận án
đã đóng góp một số ý kiến đề xuất và những giải pháp cụ thể nhằm cải
tiến công việc dạy và học tiếng Anh cho người Việt học tiếng Anh, và
trong một chừng mực nào đó, dùng làm tư liệu tham khảo cho người
nước ngoài học tiếng Việt như một ngoại ngữ.
Tiểu kết Chương 4

KẾT LUẬN
Sau khi tìm hiểu về bản chất của câu nghi vấn về mặt lý luận và quan sát
sự hành chức của loại câu nghi vấn trong tiếng Anh và tiếng Việt trong
thực tế sử dụng, chúng tôi có những nhận xét và đề xuất sau:
1. Việc khảo sát thực tế tác phẩm Harry Potter (Quyển 1) qua văn bản
tiếng Anh (bản gốc) và tiếng Việt (bản dịch tương ứng) cho thấy những
điểm sau: Tần số xuất hiện của câu nghi vấn chính danh (tìm thông tin)
cao hơn khoảng 2,5 lần tần số xuất hiện của các câu nghi vấn không
chính danh (có các đích ngôn trung khác). Qua đó, có thể chứng minh
được trong thực tế sử dụng hành động hỏi qua hình thức câu nghi vấn
rằng hành động hỏi thường được dùng chủ yếu là để tìm thông tin.
2. Khi mở rộng cấu trúc nòng cốt của câu nghi vấn trong tiếng Anh và
trong tiếng Việt về phía trái hay về phía phải, các thành tố có nhiệm vụ
tạo câu nghi vấn trong thức nghi vấn trong tiếng Anh là cần thiết và bắt

buộc, đặc biệt là các từ ngữ dùng để chiếu vật chỉ xuất trong các danh
ngữ, trong khi các thành tố này trong tiếng Việt có thể được tỉnh lược, và
thay bằng sự chỉ trỏ hay bằng các phương tiện phi ngôn ngữ khác (nếu
không gây hiểu lầm nơi người đọc hay người nghe). Sự khác biệt này
cho thấy rằng về bản chất cú pháp, tiếng Anh hầu như coi trọng tính
hoàn chỉnh của câu nghi vấn về mặt hình thức hơn so với câu nghi vấn
trong tiếng Việt.
3. Luận án đã hệ thống và phân loại qua phương pháp thống kê mô tả câu
nghi vấn trong cả hai ngôn ngữ trên phương diện hình thức. Kết quả cho
thấy câu nghi vấn trong tiếng Việt phong phú và đa dạng hơn so với câu


19
nghi vấn trong tiếng Anh và có nhiều sự khác biệt về mặt hình thức.
Thông thường, rất hiếm khi có sự tương ứng “một đối một” khi chuyển
dịch câu nghi vấn từ tiếng Anh sang tiếng Việt do sự hành chức đa dạng
và linh hoạt của các tiểu từ tình thái cuối câu và các từ kèm để hỏi trong
câu nghi vấn của tiếng Việt.
4. Các từ ngữ chỉ xuất xưng hô nằm trong câu nghi vấn của tiếng Việt
đóng vai trò linh hoạt về sắc thái biểu cảm và biểu thị các mức độ lịch sự
khá đa dạng và linh hoạt hơn trong mối quan hệ về tôn ti cũng như quan
hệ thân tộc so với các từ ngữ tương ứng trong câu nghi vấn của tiếng
Anh. Do vậy, việc chọn lựa sử dụng từ ngữ chỉ xuất xưng hô trong câu
nghi vấn của tiếng Việt đòi hỏi phải xét trong mối quan hệ liên nhân, nét
nghĩa biểu cảm và ngữ dụng phức tạp, trong khi đó, sự chi phối của các
yếu tố biểu cảm và các đặc điểm về ngữ nghĩa-ngữ dụng của các từ ngữ
chỉ xuất xưng hô trong câu nghi vấn tiếng Anh lại có phần hạn chế hơn.
5. Từ góc nhìn sự hành chức của các hành vi ngôn ngữ thể hiện dưới
hình thức câu nghi vấn trên phương diện lịch sự theo quan điểm ngữ
dụng, qua nghiên cứu từ việc khảo sát, kết quả tìm được đã khẳng định

một lần nữa rằng: câu nghi vấn dùng trong hành động hỏi có thể thực
hiện được nhiều giá trị ngôn trung khác nhau, bằng nhiều hình thức khác
nhau, bằng các phương thức khác nhau để liên kết bắc cầu hoặc làm tiền
dẫn nhập cho một hành vi ngôn ngữ khác phát huy hiệu lực tại lời của nó
trong bối cảnh giao tiếp cụ thể. Đây là một phát hiện quan trọng vì trước
đó, câu nghi vấn chỉ được giới hạn tầm quan sát khi phân tích ở phạm vi
trong câu, khi được trích từ các tác phẩm văn học, nên không nhận thấy
hết vai trò quan trọng của nó trong phạm vi lớn hơn để thực hiện cụ thể
một hành vi ngôn ngữ cụ thể trên thực tế khi sinh viên sử dụng câu nghi
vấn trong giao tiếp tại lớp học.
6. Qua việc điều tra từ 1119 phiếu khảo sát thực tế sử dụng ngôn ngữ từ
sinh viên, chúng tôi nhận thấy sinh viên thích thầy cô dùng cặp từ “I -
tên sinh viên để xưng gọi trong tiếng Anh và “Thầy/cô – các bạn” trong
tiếng Việt để xưng gọi trong lớp học (cách dùng từ ngữ này chiếm tỉ lệ
cao nhất trong Bảng kết quả khảo sát). Thêm vào đó, yếu tố “chân thành/
sự chân thật” được xem là yếu tố quan trọng nhất tác động lên lực ngôn
trung của câu nghi vấn (trong số các yếu tố ngôn ngữ và phi ngôn ngữ
được khảo sát). Im lặng là một trong những cách trả lời cụ thể cho hành
vi ngôn ngữ (HV mượn và HV mời), và đa số cách trả lời cho hành động
hỏi là “trả lời trực tiếp, nhiệt tình, rõ ràng và thẳng thắn”.


20
7. Bằng việc khảo sát năm hành vi ngôn ngữ trên thực tiễn giao tiếp tại
lớp học, chúng tôi nhận thấy câu nghi vấn của tiếng Anh được sử dụng
nhiều nhất trong các hành vi yêu cầu, trong khi đó câu nghi vấn tiếng
Việt lại xuất hiện nhiều nhất trong hành vi mượn, khi so với các loại câu
khác dùng để thực hiện các giá trị ngôn trung qua các hành vi ngôn ngữ
dùng trong lớp học.
8. Trong phạm vi hành chức của câu nghi vấn trong tiếng Anh qua thực

tiễn giao tiếp tại lớp học trên phương diện lịch sự, kết quả khảo sát cho
thấy hành động hỏi trong lời khen và chê thường ở mức/ hình thức thân
mật, suồng sã (loại C, D); trong khi đó ở hành vi mời, câu nghi vấn
thường ở hình thức trang trọng, lễ phép và loại A và B (trang trọng/ lịch
sự, lễ phép) được sử dụng nhiều nhất; trong hành vi yêu cầu và hành vi
mượn, câu nghi vấn thường dùng ở mức không khách sáo, mang tính
trung hòa, và cũng không quá thân mật suồng sã (loại B). Câu nghi vấn
trong hành vi mượn và yêu cầu thường xuất hiện loại B trên thang đo
mức độ theo nghi thức lịch sự. Trong tiếng Việt thì tình hình lại khác,
hành động hỏi trong 4 hành vi ngôn ngữ: mượn, khen, mời, và yêu cầu
đều có khuynh hướng từ trang trọng, lễ phép, khách sáo theo nghi thức
lịch sự đến trung hòa, không quá thân mật (loại A, B), chỉ có trong hành
vi chê, hành động hỏi được chọn dùng trong tình huống thân mật, suồng
sã trên thang độ lịch sự (loại C và D).
9. Mức độ lịch sự trong hành vi ngôn ngữ thể hiện qua hình thức câu
nghi vấn còn được quy định bởi mức độ lợi ích của người thụ ngôn do
hành vi ngôn ngữ mang lại. Tiếng Anh và tiếng Việt đều có điểm chung
là trong mối quan hệ dọc, các câu nghi vấn loại A và B (lịch sự, lễ phép)
thường được dùng, và theo mối quan hệ ngang, thường có sự xuất hiện
của các câu nghi vấn loại C và D (thân mật, suồng sã) theo thang đo mức
độ lịch sự. Luận án khi khảo sát các trường hợp câu sai (loại E) do lỗi về
ngữ nghĩa-ngữ dụng khi học viên sử dụng câu nghi vấn trong tiếng Anh
để thực hiện các hành vi ngôn ngữ. Qua việc khảo sát cách dịch câu nghi
vấn từ Anh sang Việt, cũng như mức độ nắm vững các giá trị ngôn trung
của các câu nghi vấn trong tiếng Anh, luận án đã góp phần tìm ra những
biện pháp khắc phục khó khăn để tháo gỡ những gì còn gọi là “rào cản”
cho sinh viên Việt Nam học tiếng Anh trong tình huống giao tiếp tại lớp
học.
10. Luận án đã tổng hợp lại hướng nhìn câu nghi vấn từ góc độ của ngữ
dụng học rằng ngôn ngữ nói chung và cụ thể là loại câu nghi vấn trong

tiếng Anh và tiếng Việt nói riêng, có khả năng tự biến đổi một cách linh


21
động và uyển chuyển theo quan điểm và nhu cầu của người dùng. Luận
án đã đặt câu nghi vấn trong bối cảnh giao tiếp cụ thể thường nhật giữa
người nói và người nghe, và những ngữ liệu thu thập được qua khảo sát
của luận án cũng có thể được xem như sản phẩm mẫu có giá trị cho
người dùng để tham khảo và chọn lọc, đặc biệt là có sự tham gia của
ngôn ngữ mạng, ngôn ngữ của thế hệ 8x/9x để làm tư liệu cho học viên
người nước ngoài tham khảo về cách dùng câu nghi vấn của người Việt
trong nền văn hóa Việt.
11. Luận án đã tìm được giải pháp chỉnh sửa để nâng cao độ tin cậy của
công cụ dịch tự động Google Translation khi dịch câu nghi vấn từ tiếng
Việt sang tiếng Anh bằng nhiều phép thử. Việc kiểm định giả thuyết,
bằng cách mã hóa và cách giải mã khi dịch câu nghi vấn theo 9 bước đề
nghị để nhập dữ liệu tiếng Việt trong GT và sử dụng ngôn ngữ mạng
(ngôn ngữ 8x/9x) trong việc khử nhập nhằng về từ đa nghĩa trên ngữ
liệu song ngữ đã ủng hộ giả thuyết khoa học đề ra trong việc dịch các
câu nghi vấn từ Việt sang Anh trong sử dụng tại lớp học khi thử nghiệm
chương trình dịch máy GT.
Để kết luận cho những điều đã trình bày trong luận án, có thể nói rằng
trong việc giảng dạy câu nghi vấn trong tiếng Anh cho người Việt hay
tiếng Việt cho người bản ngữ Anh cũng như trong vấn đề dịch thuật từ
Anh sang Việt hay ngược lại, không thể nào không nắm vững được câu
nghi vấn trong cả hai ngôn ngữ một cách thấu đáo cả trên phương diện lý
thuyết lẫn thực hành. Với phương pháp thu thập cơ sở ngữ liệu mới,
nguồn tư liệu ngôn ngữ riêng, phạm vi đề cập riêng, khái quát khoa học
riêng, luận án khẳng định sự hành chức của câu nghi vấn trong cả hai
ngôn ngữ trong giao tiếp tại lớp học. Kết quả nghiên cứu nhằm cải tiến

việc dạy và học ngoại ngữ, đặc biệt là phục vụ cho việc biên soạn giáo
trình giảng dạy tiếng Anh giao tiếp cho sinh viên và giúp sinh viên nâng
cao kỹ năng nói, viết và dịch câu nghi vấn trong cả hai ngôn ngữ tốt hơn.
Qua các cứ liệu thống kê cụ thể đã trình bày, luận án đã góp phần làm
sáng tỏ một số khía cạnh hoạt động chức năng của câu nghi vấn qua sự
hành chức của nó trên bình diện ngữ dụng trong bối cảnh giao tiếp lớp
học như chức năng tạo lập, chức năng liên kết bắc cầu, chức năng làm
tiền dẫn nhập bằng các từ ngữ trong câu nghi vấn trên phương diện lịch
sự nhằm phát huy hiệu quả của hành động hỏi.
Nhìn chung, ngôn ngữ đang theo quy luật biến đổi tự nhiên của xã hội và
những biến đổi có thể thấy được này là điều tất yếu. Sự biến đổi của
ngôn ngữ thông thường theo chiều hướng thuận lợi cho người dùng.


22
Ngôn ngữ cũng chính là tài sản chung của nhân loại, của những ai nắm
bắt và hiểu được quy luật của ngôn ngữ đang vận hành trong hệ thống
như các quân cờ trong một bàn cờ. Vận dụng ngôn ngữ như thế nào để
có thể đáp ứng được nhu cầu giao tiếp trong xã hội, để có thể giữ được
thể diện của người nói và người nghe theo phép lịch sự trong hành vi
ngôn ngữ chính là những vấn đề mà luận án tập trung nghiên cứu.
Tuy nhiên, luận án vẫn còn một số hạn chế nhất định vì chỉ mới góp
phần tìm ra được một số chức năng và những đặc thù của câu nghi vấn
trong cả hai ngôn ngữ, cũng như một số đặc điểm nổi bật nhất để mô tả
diện mạo của câu nghi vấn trong sự hành chức của nó, xét về mặt ngữ
dụng. Thiết nghĩ, cần có một sự phân tích sâu sắc hơn, với nguồn ngữ
liệu phong phú hơn từ phía người bản ngữ Anh và việc khảo sát nhiều
góc cạnh của câu nghi vấn hơn nữa trên bình diện ngữ dụng trong hướng
nghiên cứu kế tiếp để cung cấp thêm cho người đọc một cái nhìn toàn
diện hơn về câu nghi vấn trong lĩnh vực này.

Hy vọng rằng địa hạt còn bỏ ngỏ về những yếu tố hứng thú trong việc so
sánh câu nghi vấn của cả hai ngôn ngữ đang xét ở các thể loại văn bản
khác, tình huống giao tiếp khác và hướng khảo sát điều tra khác nhau
dành cho số lượng sinh viên đông hơn để có thể giúp học viên hiểu sâu
sắc hơn về câu nghi vấn trong sử dụng ở mọi tình huống giao tiếp, cần
được tiếp tục nghiên cứu.Tác giả luận án mong rằng qua văn bản của
luận án này, người đọc có thể có cách nhìn sâu sắc hơn về câu nghi vấn
của cả hai thứ tiếng đang xét trên bình diện ngữ dụng.

MỤC LỤC
N
ội dung


Trang

L
ời cam đoan

i

Quy ư
ớc tr
ình bày

ii

M
ục lục


vi


M
Ở ĐẦU

1

1

Lý do ch
ọn đề t
ài

1

2

L
ịch sử vấn đề

4

3

M
ục đích v
à nhi
ệm vụ nghi
ên c

ứu

9

4

Phương pháp nghiên c
ứu v
à ngu
ồn t
ư li

u

10



23
5

Ý ngh
ĩa khoa học v
à th
ực tiễn

14

5


B
ố cục của luận án

16

CHƯƠNG 1: T
ỔNG QUAN VỀ CÂU NGHI VẤN TRONG
TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT TRÊN BÌNH DIỆN NGỮ
DỤNG
18

1.1


Khái ni
ệm về câu nghi vấn v
à các quan ni
ệm về câu nghi
vấn trong tiếng Anh trên bình diện ngữ dụng
18

1.2

Khái ni
ệm về phép lịch sự v
à hành vi ngôn ng
ữ có li
ên
quan đến câu nghi vấn trong tiếng Anh
24


1.3

Khái ni
ệm về câu nghi vấn v
à các quan ni
ệm về câu nghi
vấn trong tiếng Việt trên bình diện ngữ dụng
29

1.4

Khái ni
ệm về phép lịch sự v
à hà
nh vi ngôn ng
ữ có li
ên
quan đến câu nghi vấn trong tiếng Việt
36


Ti
ểu kết Ch
ương 1

41

CHƯƠNG 2: SO SÁNH CÂU NGHI VẤN TRONG BẢN
TIẾNG ANH CỦA TÁC PHẨM HARRY POTTER, QUYỂN

1 VÀ TRONG BẢN TIẾNG VIỆT CỦA DỊCH GIẢ LÝ LAN
43

2.1


K
ết quả khảo sát câu nghi vấ
n trong ti
ếng Anh v
à ti
ếng
Việt trong tác phẩm Harry Potter, Q1 về mặt hình thức
45


2.1.1


K
ết quả thống k
ê phân lo
ại câu nghi vấn trong
tiếng Anh về mặt hình thức
47


2.1.2



K
ết quả thống k
ê phân lo
ại câu nghi vấn trong
tiếng Việt về mặt hình thức
54

2.2

Nh
ận xét về t
ương đ
ồng v
à khác bi
ệt của câu nghi vấn
trong cả hai ngôn ngữ đang xét từ góc độ tiền dụng học
đến dụng học
56


2.2.1


Nh
ững điểm t
ương đ
ồng

56



2.2.2


Nh
ững điểm khác biệt

57

2.3

K
ết quả khảo sát câu nghi vấn trong tiếng Anh v
à ti
ếng
Việt trong tác phẩm Harry Potter, Quyển 1 về mặt ngữ
dụng
59


2.3.1


K
ết quả thống k
ê và phân tích d
ữ liệu thống k
ê
về các từ ngữ chỉ xuất xưng và gọi trong tiếng
Anh và tiếng Việt

61


2.3.2


K
ết quả khảo sát các giá trị ngôn trung của câu
nghi vấn trong tác phẩm Harry Potter, Quyển 1
70


Ti
ểu kết Ch
ương 2

76

×