Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.92 KB, 34 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài 9:
TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG
TRƯỞ
NG KINH TẾ
LỚP KI001 – VB2K15
NHÓM 10
TP. HCM, tháng 10-2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài 9:
TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG
TRƯỞ
NG KINH TẾ
GVHD: Thầy TRƯƠNG MINH TUẤN
Danh sách nhóm 10
STT TÊN THÀNH VIÊN CH
Ữ KÝ
Nguyễn Thị Thanh
Nga
50 Trương Ái Ngân
79 Trương Thùy Trinh


76
Đoàn Thị Minh
Trâm
68 Nguyễn Hoài Thu
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU 1
1.
Lạm phát mục tiêu là gì 1
2.
Đặc tính chung của cơ chế lạm phát mục tiêu 5
3.
Các ưu điểm và hạn chế của cơ chế Lạm phát mục tiêu 7
3.1. Các ưu điểm 7
3.2. Những hạn chế 8
II. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 9
CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH T

I. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH T
Ế NƯỚC NGOÀI 11
II. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH T
Ế TẠI VIỆT NAM 16
CHƯƠNG III: LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CƠ CHẾ LẠM
PHÁT M
ỤC TIÊU TẠI VIỆT NAM
I. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 19

II. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG Ở VIỆT NAM 20
III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CƠ CHẾ LẠM PHÁT MỤC TIÊU Ỡ VIỆT NAM 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
1. Biểu đồ : Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) cuối kỳ giai đoạn 2001 – 2011 19
2. Bảng : Lạm phát CPI và tốc độ tăng GDP ở Việt Nam từ 1987 đến 2010 21
LỜI NÓI ĐẦU
Trước những năm 90 trên thế giới, hầu hết các nước đều chọn khối lượng tiền
(M2, M3…) ho
ặc tỉ giá làm mục tiêu trung gian trong điều hành chính sách tiền tệ
(CSTT) quốc gia. Tuy nhiên, vào đầu những năm 90, một số nước phát triển đã có
s
ự thay đổi trong việc lựa chọn các mục tiêu trung gian tương tự, mà tập trung vào
ch
ỉ số lạm phát. Cách tiếp cận mới này tập trung vào nhiệm vụ kiểm soát lạm phát
và được gọi là lạm phát mục tiêu (Inflation Targeting). Chính sách lạm phát mục
tiêu là chính sách mà ngân hàng trung ương (NHTW) sẽ đưa ra mục tiêu lạm phát
trong m
ột thời gian khá dài (thường là 5 năm) và được quyền chủ động sử dụng các
công c
ụ chính sách tiền tệ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất cơ bản, tỷ giá .v.v
để đạt mục tiêu đó. Một chính sách lạm phát mục tiêu được coi là thành công nếu
rong quá trình th
ực hiện lạm phát sẽ vận động xoay quanh mức mục tiêu đã đề ra.
Chính sách l
ạm phát mục tiêu được áp dụng nhiều bởi các nước phát triển và
các nước mới nổi khi lãnh đạo các nước nhận định rằng, lạm phát hay nói cách khác
ổn định giá là mục tiêu chính của chính sách tiền tệ. Tùy từng thời kỳ, mức lạm phát
m
ục tiêu có thể có những điều chỉnh theo năm, tuy nhiên mức điều chỉnh không quá

l
ớn so với định hướng dài hạn đã xác định từ thời gian trước. Từ đầu những năm 90
thế kỷ 20, một số quốc gia đã tiên phong áp dụng nó là NHTW New Zealand
(1990); NHTW Canada (1991); Vuong qu
ốc Anh (1992); Phần Lan, Thụy Ðiển, Úc
(1993)… Ngày nay, có kho
ảng 30 quốc gia đang áp dụng phương pháp tiếp cận mới
này và g
ần một nửa trong số đó là các quốc gia thuộc nhóm thị truờng mới nổi hoặc
qu
ốc gia có thu nhập thấp. Ngoài ra, một số NHTW của các nền kinh tế phát triển
hơn - bao gồm ECB, FED, Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) và Ngân hàng Quốc gia
Th
ụy Sỹ - đã vận dụng nhiều nội dung trong chính sách mục tiêu lạm phát, và một
s
ố khác thì đang trong quá trình chuyển đổi sang chính sách mục tiêu lạm phát. Việt
Nam c
ũng đang bắt đầu nghiên cứu và định hướng chuyển đổi sang chính sách tiền
t
ệ này để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay.
V
ậy việc theo đuổi một chính sách mục tiêu lạm phát trong trung và dài hạn
h
ạn cùng với việc sử dụng những công cụ chính sách tiền tệ tác đông vào nền kinh
t
ế để kiềm chế lạm phát theo mục tiêu đã đặt ra trước này có ảnh hưởng thế nào đến
tăng trưởng kinh tế của quốc gia và cụ thể trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta?
Bài ti
ểu luận của Nhóm 10 sẽ tìm hiểu về mối quan hệ của giữa lạm phát mục tiêu
và tăng trưởng kinh tế, đồng thời đánh giá khả năng áp dụng chính sách lạm phát

m
ục tiêu ở Việt Nam.
Đề tài 9
Nhóm 10
1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. NHỮNG CƠ SỞ LUẬN VỀ LẠM PHÁT MỤC TIÊU
1. L
ạm phát mục tiêu là gì?
Lạm phát mục tiêu (inflation targeting) là một cơ chế chính sách tiền tệ
(CSTT) đượ
c áp dụng từ cuối những năm 1980 và đã tỏ ra khá thành công, kể cả
những quốc gia thị trường mới nổi như Chilê. Tại các quốc gia đang phát triển và
tăng trưởng kinh tế nhanh yêu cầu ổn định giá cả trong nền kinh tế là một điều cấp
th
ết bởi hiệu ứng tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế - sự méo mó của giá cả,
phân b
ố không hiệu quả các nguồn lực khan hiếm và mất công bằng xã hội. Tác
động tiêu cực của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế đã được đề cập trong nhiều
công trình nghiên c
ứu, chẳng hạn, Barro (1995); Bruno và Easterly (1995); Ghosh
và Phillips (1998)… Các nghiên c
ứu chỉ ra hậu quả của lạm phát là làm méo mó sự
phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế, làm tổn thương các thành viên nghèo nhất
trong xã h
ội, gây bất ổn và tái phân phối thu nhập và tài sản một cách tùy tiện.
L
ạm phát hủy hoại sự ổn định kinh tế và gây thất bại trong phát triển bền
v

ững. Sự lựa chọn cơ chế lạm phát mục tiêu như một công cụ quản lí kinh tế vĩ mô
ngày càng chứng tỏ sức sống của mình kể từ khi New Zealand, Canada thực hiện
thành công vào đầu những năm 90. Đến nay đã có gần 30 quốc gia và tới đây còn
nhi
ều quốc gia khác áp dụng cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu
và đã thu được những kết quả đáng kể. Theo Loayza và Soto (2002), ngoại trừ hai
trường hợp đã tham gia Liên minh Tiền tệ châu Âu (Phần Lan và Tây Ban Nha),
không có qu
ốc gia nào từ bỏ cơ chế này, xu hướng các quốc gia nghiêng sử dụng
công c
ụ chính sách này đề điều tiết nền kinh tế ngày càng nhiều nhưng có thể nói
r
ằng cơ chế này hiện vẫn còn hết sức mới mẻ và nhiều bàn cãi xung quanh. Vậy lạm
phát m
ục tiêu (LPMT) chính xác là gì?
Qu
ỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng: ”Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu là
m
ột bản thông báo ra công chúng về chỉ tiêu trung hạn của lạm phát cũng như uy tín
của cơ quan thẩm quyền về tiền tệ để đạt mục tiêu này. Các yếu tố khác bao gồm
ph
ổ biến thông tin về các kế hoạch và mục tiêu của nhà hoạch định chính sách tiền
t
ệ tới công chúng và thị trường, cũng như trách nhiệm giải trình của Ngân hàng
Trung ương (NHTW) để đạt được các chỉ tiêu lạm phát của mình. Các quyết định
Đề tài 9
Nhóm 10
2
về chính sách tiền tệ sẽ dựa trên độ lệch dự báo lạm phát (một cách hoàn toàn hay
rõ ràng)

đóng vai trò là chỉ tiêu trung gian của chính sách tiền tệ”.
Theo các nhà kinh t
ế học Thomas Laubach, Rick Mickin và Adam Poxen
định nghĩa về LPMT như sau “LPMT là nền tảng cơ sở cho CSTT, được đặc trưng
bởi việc NHTW công bố với công chúng một mục tiêu định lượng chính thức
(thường là một khung phạm vi hơn là một giá trị cụ thể) cho tỷ lệ lạm phát trong
m
ột hoặc vài thời kỳ, dựa trên quan điểm ổn định giá cả là mục tiêu duy nhất của
CSTT trong dài h
ạn. Một trong những đặc trưng về quan điểm có tác động mạnh là
công khai v
ới công chúng về những kế hoạch và mục tiêu của các nhà hoạch định
chính sách và trong nhi
ều truờng hợp, là cả về cơ chế truyền dẫn, trong đó nhấn
m
ạnh đến trách nhiệm của NHTW trong việc theo đuổi mục tiêu”
Vi
ệc công bố các mục tiêu lạm phát là một nhiệm vụ bắt buộc. Tùy thuộc vào
NHTW mà m
ục tiêu này có thể là một con số hoặc là một khoảng. Ở các nền kinh tế
phát triển, mục tiêu này khoảng 2%, trong khi ở các nền kinh tế đang phát triển, con
s
ố này lớn hơn khoảng vài phần trăm. Chẳng hạn, ở các nền kinh tế phát triển, mục
tiêu l
ạm phát mà NHTW New Zealand theo đuổi là từ 1% đến 3%, của NHTW
Th
ụy Điển và Canada là 2% với 1% biên độ dao động được cho phép về hai phía,
c
ủa NHTW Nauy là 2.5%, của Anh là 2%; ở Đông Nam Á, mục tiêu lạm phát cho
năm 2010 của Thái Lan là 0.5% đến 3%, Philippines là 4.5% với biên độ dao động

±1%, và Indonesia là 5% v
ới biên độ dao động ±1%. Tuy nhiên, sự khác biệt này
không làm thay
đổi cách các NHTW tiếp cận với mục tiêu lạm phát của mình.
N
ếu các NHTW chọn mục tiêu lạm phát là một khoảng, thường họ sẽ nhắm
vào điểm giữa của khoảng; trong khi, nếu chọn mục tiêu lạm phát là một điểm, họ
sẽ nhắm vào chính điểm mục tiêu lạm phát đó.Ðiểm quan trọng ở đây là cơ chế
LPMT không chỉ giới hạn ở việc công bố mục tiêu lạm phát bằng một con số cụ thể.
V
ấn đề này có ý nghĩa quyết định đặc biệt đối với các các nước đang phát triển, bởi
vì các nhà ho
ạch định chính sách của các quốc gia này đôi khi cũng báo cáo các
mục tiêu lạm phát, nhưng không có nghĩa các nước này thực hiện cơ chế LPMT. Cơ
chế LPMT cũng đòi hỏi các đặc điểm nêu trên, phải đặt nặng vai trò khả năng dự
báo lạm phát và tối thiểu phải dựa trên ba điểm chính. i) Một mục tiêu lạm phát rõ
ràng mà NHTW theo đuổi trong một khoảng thời gian nhất định. ii) Một chiến lược
th
ực hiện mục tiêu lạm phát dựa trên các dự báo sao cho lạm phát nằm trong mục
Đề tài 9
Nhóm 10
3
tiêu đã định hướng. iii) Một mức độ minh bạch (transparency) và trách nhiệm giải
trình (accountability) cao.
Chi
ến lược thực hiện mục tiêu lạm phát dựa trên các dự báo (inflation-
forecast targeting) là m
ột qui trình khá phức tạp. Tuy nhiên, về mặt cơ bản, qui trình
này g
ồm một số bước như sau. Mỗi NHTW đầu tiên sẽ xây dựng cho riêng mình

m
ột dự báo về lạm phát dựa trên các thông tin đạt được, gọi là mức-dự-báo-lạm-
phát-có-
điều-kiện, và dùng nó như một biến tham khảo trung gian. Một công cụ
chính sách sau đó sẽ đượ
c chọn để tác động vào mức dự-báo-lạm-phát-có-điều-kiện
này sao cho m
ức dự báo lạm phát sau khi bị tác động theo dự đoán sẽ rơi vào các
mục tiêu lạm phát đã đề ra trước đó. Chính sách tiền tệ sau đó sẽ được thực thi dựa
vào công c
ụ chính sách được chọn này và với sự tham khảo các thông tin khác có
được trên thị trường. Khi thị trường xuất hiện các cơn sốc kinh tế, cách hữu hiệu mà
các NHTW x
ử lý là xem xét lại ảnh hưởng của các cơn sốc đó đến mức dự-báo-
l
ạm-phát-có-điều-kiện đã được đưa ra trước đây như thế nào và từ đó có những thay
đổi thích hợp về công cụ chính sách (nếu cần thiết) nhằm tác động để đưa mức dự-
báo-l
ạm-phát-có-điều-kiện hướng về lại các mục tiêu lạm phát đã đề ra.
Khi mà s
ự thành công của chính sách tiền tệ được đánh giá dựa vào những
k
ết quả cuối cùng và tồn tại một khoảng thời gian từ lúc một chính sách được thực
hi
ện đến khi chính sách có tác động, sự thành công của chính sách tiền tệ, do đó,
còn tùy thuộc vào những biến chuyển xảy ra trong những khoảng thời gian này.
Nh
ững biến chuyển mới phát sinh có thể bị cộng hưởng dưới tác động của các tác
nhân trong n
ền kinh tế làm cho hiện trạng nền kinh tế trở nên bi đát hơn khi chính

sách tiền tệ chưa kịp có hiệu lực. Mức lãi suất trong ngắn hạn có tác động rất ít đến
hành động của các chủ thể kinh tế. Cái mà ảnh hưởng hơn nhiều đó là các dự đoán
và mong đợ
i của các chủ thể trong nền kinh tế đối với các chính sách thiết lập lãi
su
ất của ngân hàng trung ương. Các chủ thể kinh tế đưa ra các quyết định và hoạt
động kinh tế dựa trên các dự đoán và mong đợi này. Do đó, khả năng của các ngân
hàng trung ương trong việc định hướng dư luận trở thành một nhiệm vụ cực kì quan
tr
ọng. “Neo giữ” được niềm tin và mong đợi của các tác nhân trong nền kinh tế,
ngân hàng trung ương xem như đã thiết lập được các điều kiện ban đầu nhằm bình
ổn lạm phát. Và ở đây, uy tín của ngân hàng trung ương phát huy tác dụng. Một uy
tín t
ốt là một tài sản lớn đối với bất kì một ngân hàng trung ương nào. Và khi mà
Đề tài 9
Nhóm 10
4
xây dựng được một uy tín như vậy, ngân hàng trung ương đã thành công môt phần
trong nhi
ệm vụ của mình.
Để xây dựng và duy trì một mức độ khả tín cao, ngân hàng trung ương cần
m
ột sự minh bạch cao. Các NHTW thường xuyên cung cấp các báo cáo chính sách
ti
ền tệ, giải thích ý nghĩa của chúng cũng như động lực phía sau các chính sách đó.
Trong nhiều trường hợp, họ cũng sẽ khuyến cáo các chính sách có thể được thực
hi
ện trong tương lai tới các chủ thể trong nền kinh tế. Ngược lại, một mức độ tin
c
ậy cao còn cho phép các NHTW uyển chuyển hơn trong việc thực hiện chính sách

ti
ền tệ của mình. Về lâu về dài, thay vì chỉ tập trung duy nhất vào việc bình ổn lạm
phát, chính sách ti
ền tệ còn phải hướng đến các mục tiêu khác như bình ổn nền kinh
t
ế thực, hiệu quả trong sử dụng tài nguyên, v.v. Ở đây, NHTW cũng phải rõ ràng
khi cho các tác nhân kinh t
ế biết cách tiếp cận của mình.
Và sau cùng, ngân hàng trung ương là cá thể chịu trách nhiệm cuối cùng về
các chính sách đề
ra. Một mức giải trình (accountability) cao là điều cần thiết nhằm
giúp NHTW có thêm động lực thực hiện những mục tiêu của mình. Khi mà các mục
tiêu được đưa ra công khai và minh bạch, hoạt động của các NHTW chịu sự giám
sát ch
ặt chẽ của công chúng. Trong nhiều trường hợp, các NHTW còn chịu sự giám
sát và trách nhi
ệm giải trình với các tổ chức, cơ quan khác nhau, thường là quốc hội
ho
ặc một cơ quan chỉ định bởi chính phủ, với trách nhiệm giải trình khi lạm phát ra
kh
ỏi mục tiêu đã đề ra.
Trong th
ực tiễn, không có 2 quốc gia nào có cơ chế LPMT y hệt nhau, mà có
s
ự kết hợp giữa các thành tố của cơ chế LPMT trong hầu hết các quốc gia. Một số
NHTW như Ngân hàng Dự
trữ Úc có chỉ thị kép, bao gồm ổn định giá cả và việc
làm đầy đủ. Bên cạnh đó, một số NHTW thiết lập mục tiêu là điểm lạm phát (một
ch
ỉ số lạm phát cụ thể), một số khác là một khung chỉ số lạm phát, một số khác lại

xác định khung thời gian để đạt mục tiêu lạm phát, trong khi số khác thì không…
(Truman, 2003).
M
ục đích chính của LPMT là duy trì và kiểm soát lạm phát ở mức thấp. Ðiều
này t
ạo nền tảng ổn định kinh tế, đẩy lùi sự không chắc chắn và thúc đẩy các hợp
đồng dài hạn. Tuy nhiên đạt được một chỉ số lạm phát trong kế hoạch không phải là
m
ục tiêu cuối cùng của một quốc gia, Seyfried và Bremmer (2003) cho rằng, mục
đích của LPMT không chỉ kiềm chế lạm phát hiện hành, mà còn tập trung vào mục
tiêu trung, dài h
ạn. Vì vậy, NHTW, theo Bernanke và Mishkin (1997) nên theo dõi
Đề tài 9
Nhóm 10
5
chặt chẽ các chỉ báo có quyền năng dự báo lạm phát trong tương lai. Pui (2003)
cảnh báo cơ chế LPMT với ý nghĩa thuần túy (trong đó, sản lượng và tăng trưởng
kinh t
ế không gắn trọng số hay tầm quan trọng) không chắc sẽ tối đa hóa phúc lợi
xã h
ội bởi vì một sự thu hẹp hay mở rộng hoạt động kinh tế sẽ không có ý nghĩa
chừng nào mục tiêu lạm phát không thực hiện được.
2. Đặc tính chung của cơ chế lạm phát mục tiêu
Lạm phát mục tiêu có thể được miêu tả như một cơ chế điều hành CSTT dựa
trên n
ền tảng sử dụng việc dự báo lạm phát làm chỉ số mục tiêu trung gian. NHTW
s
ẽ dự báo xu hướng lạm phát năm tới để đưa ra chỉ số lạm phát mục tiêu (định
hướng bằng một chỉ số hoặc một khoảng biên độ) cho năm kế hoạch mà không có
trách nhi

ệm thực hiện bất cứ chỉ tiêu nào khác. Trong giới hạn của mình, NHTW
có th
ể linh hoạt lựa chọn và sử dụng bất kỳ các công cụ để chỉ đạt một mục tiêu
duy nh
ất - chỉ số lạm phát mục tiêu.
V
ề kỹ thuật việc xác định chỉ số mục tiêu (hay lạm phát mục tiêu) bao gồm
các bước:
(1)L
ựa chọn loại chỉ số giá (dựa trên mức độ giá cả hoặc tỷ lệ lạm phát);
(2)Hình thành m
ục tiêu;
(3)
Tính toán xu hướng lạm phát năm sau;
(4)Ưu việt cơ bản nhất của lạm phát mục tiêu là nó không bị can thiệp bởi các
ch
ỉ số kinh tế vĩ mô khác như các mục tiêu trung gian truyền thống (M2, M3
hay t
ỷ giá). Một sự khác biệt nữa với các cơ chế điều hành khác là nó tạo cho
NHTW s
ự tự do và linh hoạt trong việc điều hành CSTT. Ví dụ trong trường
h
ợp lấy khối lượng tiền hoặc tỷ giá lạm mục tiêu trung gian, công chúng và
các doanh nghi
ệp có thể kiểm soát dễ dàng và khi các chỉ số như lạm phát, lãi
su
ất hay tỷ giá biến động họ sẽ có những phản ứng tiêu cực trước tình trạng
điều hành CSTT của quốc gia. Chính sự khác biệt này tạo điều kiện cho
NHTW ch
ủ động hơn trong điều hành CSTT. Xác định lạm phát mục tiêu

(m
ột chỉ số hoặc một khoảng biên độ);
(5)Tho
ả thuận về khả năng huỷ bỏ giá trị mục tiêu hoặc từ chối chỉ số lạm phát
m
ục tiêu trong một số trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên để áp dụng lạm phát
m
ục tiêu thì NHTW, trước hết, phải có được mức tin tưởng cao từ phía xã hội
và ph
ải hoạt động một cách minh bạch. Hơn nữa, kinh nghiệm quý báu của
các nước áp dụng chỉ số lạm phát mục tiêu đã chỉ ra sự cần thiết hình thành
Đề tài 9
Nhóm 10
6
những điều kiện tối thiểu để áp dụng lạm phát mục tiêu trong điều hành
CSTT. Trên h
ết tất cả, lạm phát mục tiêu chỉ có thể áp dụng ở những nước

ở đó có thể đảm bảo duy trì lạm phát ở mức thấp không chỉ trên hình thức
mà trên c
ả thực tế. Các cơ quan quản lý tiền tệ cần hiểu rằng lạm phát không
th
ể bù đắp tổn hại cho nền kinh tế, có nghĩa rằng với sự trợ giúp của tiền tệ,
vi
ệc bành trướng ngân sách sẽ không những không thúc đẩy phát triển các
khu v
ực kinh tế, mà tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách sẽ còn là tiền đề trực tiếp
cho s
ự gia tăng giá cả trong nền kinh tế, phá hủy tính ổn định của khu vực tài
chính và làm t

ổn hại đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Ngoài ra, lạm
phát m
ục tiêu đòi hỏi phải thoả mãn hai điều kiện then chốt:
Thứ nhất, NHTW cần có một mức độc lập tương đối để thực thi CSTT, mặc
dù không có m
ột NHTW nào có thể hoàn toàn độc lập khỏi sự ảnh hưởng của chính
ph
ủ. NHTW cần phải, trong giới hạn cho phép, được tự do lựa chọn các công cụ để
đạt đượ
c tỷ lệ lạm phát mục tiêu. Để thực hiện yêu cầu này, quốc gia đó cần từ bỏ
nguyên tắc ''ngân sách chi phối'', cũng như các vấn đề thuộc chính sách tài khoá
không được gây bất cứ ảnh hưởng nào đến CSTT. Số thoát khỏi ngân sách chi phối
ng
ụ ý rằng các khoản vay từ NHTW của chính phủ phải ở mức thấp nhất (hoặc tốt
nh
ất bằng 0) và các thị trường tài chính trong nước có đủ độ sâu để ''nuốt chửng''
các đợt phát hành nợ của chính phủ.
Hơn nữa, sự thoát khỏi ngân sách chi phối cũng ngụ ý rằng chính phủ phải có
cơ sở nguồn thu rộng rãi và không phải đưa một cách có hệ thống vào nguồn thu từ
in tiền. Nếu chi phối về mặt tài khoá tồn tại thì chính sách thuế khoá sẽ gây áp lực
đến lạm phát và thổi bay hiệu quả của CSTT. Trên thực tế, điều này được thể hiện
qua vi
ệc chính phủ không muốn làm mếch lòng công chúng bằng việc yêu cầu
NHTW, ví d
ụ, giảm lãi suất để tăng thuế.
Thứ hai, NHTW phải có khả năng thực hiện lạm phát mục tiêu cũng như
không có trách nhiệm với các mục tiêu khác như: tiền lương, mức thất nghiệp hay
t
ỷ giả. Ví dụ, nếu một quốc gia duy trì chế độ tỷ giá cố định, trong điều kiện các
lu

ồng vốn dịch chuyển mạnh như hiện nay thì không thề cùng một lúc thực hiện
được lạm phát mục tiêu. Hơn nữa là khi NHTW duy trì cùng lúc hai hay nhiều mục
tiêu thì th
ị trường không hiểu trong trường hợp xấu đi, mục tiêu nào sẽ được ưu tiên
thực hiện. Ví dụ, khi xuất hiện mối đe doạ đến tỷ giá, NHTW buộc phải lựa chọn:
Đề tài 9
Nhóm 10
7
hoặc duy trì tỷ giá cố định, từ bỏ mục tiêu lạm phát; hoặc bảo vệ chỉ tiêu lạm phát
k
ế hoạch, hy sinh tỷ giá cố định.
3. Các ưu điểm và hạn chế của cơ chế Lạm phát mục tiêu
3.1. Các ưu điểm
Cơ chế LPMT có một số ưu điểm như một chiến lược CSTT so với các cơ
chế chính sách khác.
(1) LPMT cung c
ấp một neo danh nghĩa cho CSTT và kì vọng lạm phát.
Kh
ẳng định rõ mục tiêu tối thượng của CSTT là ổn định giá cả, thể hiện ở
lạm phát thấp, có tính minh bạch cao. Mục tiêu lạm phát rõ ràng, dễ quan sát và
không thay d
ổi nhiều so với các mục tiêu khác. Chỉ số lạm phát do NHTW công bố
và những cam kết thực hiện tạo được niềm tin trong công chúng, thuận lợi trong
điều hành CSTT và được công chúng, doanh nghiệp đồng thuận khi NHTW thực
hi
ện các công cụ CSTT để đạt lạm phát mục tiêu.
(2) Khác v
ới cơ chế tỉ giá mục tiêu, LPMT mang lại cơ hội đối phó với các
cơn sốc có thể tác động đến nền kinh tế và tập trung vào các điều kiện kinh tế trong
nước.

(3) LPMT không đòi hỏi mối quan hệ ổn định giữa cung tiền và lạm phát như
trong cơ chế điề
u hành CSTT lấy cung tiền làm mục tiêu trung gian. Nó sử dụng
toàn b
ộ các thông tin hiện có để xây dựng chính sách.
(4) CSTT tác động đến các hoạt động kinh tế với các độ trễ dài và biến động
nên nó không th
ể tác động đến lạm phát hiện hành. Vì vậy, mục tiêu lạm phát
thường được hiểu là mang tính trung hạn. Ðiều đó có nghĩa rằng NHTW theo đuổi
m
ục tiêu lạm phát trong một thời kì nhất định thông qua việc kiểm soát và duy trì
l
ạm phát ở mức thấp và ổn định. Trong ngắn hạn, những biến động của lạm phát
th
ực tế so với mục tiêu là có thể chấp nhận được và không nhất thiết làm mất đi
lòng tin của công chúng đối với NHTW. Nói cách khác, cơ chế LPMT đem lại vai
trò cho các
độ trễ của CSTT trong việc lựa chọn công cụ chính sách.
(5) Cơ chế LPMT có thể giảm khả năng rơi vào bẫy không nhất quán về thời
gian thông qua vi
ệc giảm áp lực từ các chính khách nhằm kích thích nền kinh tế.
(6) M
ột uu điểm khác của cơ chế LPMT, đó là tăng cuờng mối quan hệ đối
tho
ạivà truyền thông với công chúng và tính minh bạch. Thuộc tính này có vai trò
quan tr
ọng trong các thành công của cơ chế LPMT tại các nước công nghiệp phát
tri
ển. Các nhà hoạch định chính sách ở các nước phát triển tận dụng mọi cơ hội để
Đề tài 9

Nhóm 10
8
đối thoại, giao tiếp với công chúng thông qua các hình thức như cung cấp các thông
di
ệp chính sách, các cuộc thảo luận mục tiêu chính sách, các báo cáo lạm phát…
(7) Tính minh b
ạch của chính sách sẽ tăng cuờng trách nhiệm giải trình với
công chúng, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của chính sách trong thực hiện
các m
ục tiêu lạm phát và tạo được sự đồng thuận và hỗ trợ cao từ phía công chúng
v
ới NHTW.
3.2. Những hạn chế
(1) Cơ chế LPMT bị chỉ trích do quá chú trọng đến lạm phát, cơ cấu cứng
nh
ắc, tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và do nó loại trừ các mục tiêu khác
như ổn định sản lượng. Tuy nhiên, thông báo của các quốc gia thực hiện cơ chế
LPMT về tỉ lệ lạm phát mục tiêu lớn hơn 0 cho thấy NHTW vẫn quan tâm đến tăng
trưở
ng sản lượng một cách tổng thể, vấn đề thiểu phát và các tác động không mong
mu
ốn của thiểu phát đến nền kinh tế.
(2) Khác v
ới tỉ giá và cung tiền, kiểm soát lạm phát là vấn đề không dễ và các
công c
ụ chính sách chỉ cho thấy tác động với độ trễ dài và biến động. Ðây là một
v
ấn đề đặc biệt nghiêm trọng ở các nước đang phát triển khi tỉ lệ lạm phát đang
đượ
c kéo thấp từ những mức cao. Trong tình huống này, sẽ có những sai lầm lớn

trong d
ự báo và hiện tượng chệch mục tiêu có thể xẩy ra thường xuyên. Vì vậy,
NHTW s
ẽ gặp khó khăn trong việc giải thích lí do để tạo dựng niềm tin, một vấn đề
trung tâm trong cơ chế
LPMT. Theo Masson và các cộng sự (1997), cơ chế LPMT
s
ẽ hiệu quả hơn nếu bắt đầu thực hiện sau khi đã thực hiện các biện pháp giảm lạm
phát thành công. M
ột nhân tố khác có thể ảnh huởng đến năng lực của NHTW trong
ki
ểm soát lạm phát là phạm vi kiểm soát giá cả của chính phủ còn khá lớn và đây là
một trong những nhân tố cần quan tâm xem xét ở các nước đang phát triển. Ðể thực
thi cơ chế LPMT một cách thành công, đòi hỏi một sự phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan có thẩm quyền quyết định giá cả các hàng hóa chịu sự kiểm soát của chính
ph
ủ hoặc loại bỏ các loại hàng hóa này trong tính toán tỉ lệ lạm phát mục tiêu. Hơn
nữa, quy trình dự báo lạm phát ở các quốc gia này cần lưu ý đến lộ trình, thời điểm
và biên độ điều chỉnh của giá cả các loại hàng hóa nêu trên.
(3) Cơ chế LPMT không thể ngăn chặn hoàn toàn sự chi phối của chính sách
tài chính. V
ề dài hạn, thâm hụt ngân sách lớn sẽ dẫn đến việc tiền tệ hóa các khoản
thâm h
ụt hay phá giá đồng tiền và sẽ gây ra lạm phát cao.
Đề tài 9
Nhóm 10
9
(4) Cơ chế LPMT đòi hỏi cơ chế tỉ giá linh hoạt, nhưng chính điều này có thể
gây bất ổn tài chính.
(5) Có m

ột số nhà kinh tế (như Calvo, 1999) lập luận rằng cơ chế LPMT là quá
tùy nghi (too discretionary) và nó có th
ể khiến các nhà hoạch định chính sách theo
đuổi các chính sách mở rộng quá mức. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, cơ chế
LPMT tăng cuờ
ng trách nhiệm giải trình và minh bạch của chính sách. Trách nhiệm
gi
ải trình làm tăng chi phí của những sai lầm chính sách đối với các nhà hoạch định
chính sách, còn tính minh b
ạch sẽ làm cho việc xây dựng chính sách mở rộng quá
m
ức mà không có sự thông báo hoặc giải thích trở nên khó triển khai thực hiện hơn .
Vì vậy, sẽ không thuyết phục khi cho rằng CSTT trong cơ chế LPMT là quá tùy nghi.
(6) M
ột số nhà kinh tế cho rằng cơ chế LPMT là quá cứng nhắc và nó có thể
gây cản trở cho các nhà chức trách tiền tệ trong đối phó với các cơn sốc tác động
đến nền kinh tế. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, cơ chế LPMT không phải là
m
ột quy tắc cứng nhắc, nó có thể được xem như một sự “tự do trong khuôn khổ”.
Nó không bao hàm các quy t
ắc giản đơn về xây dựng CSTT, trái lại, cơ chế LPMT
bu
ộc các nhà hoạch định chính sách sử dụng toàn bộ thông tin hiện có để đạt được
m
ục tiêu đề ra.
II. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát
tri
ển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các
nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ mỗi giai đoạn của một quốc gia

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn
b
ộ nền kinh tế trong 1 thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Tăng trưởng kinh tế có
th
ể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc bằng số tương đối (tỷ lệ
tăng trưở
ng) – đó là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng tăng thêm của thời kỳ nghiên
c
ứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó hoặc kỳ gốc.
Tăng trưởng kinh tế còn được xem xét dưới góc độ chất lượng, chất lượng
tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của
n
ền kinh tế, thể hiện qua các đặc điểm sau:
 Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong 1 thời gian dài.
 Phát triển có hiện quả thể hiện qua năng suất lao động, năng suất tài sản cao
và ổn định. Hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) phù hợp, và đóng góp của nhân tố
năng suất tổng hợp (TFP) cao.
Đề tài 9
Nhóm 10
10
 Cơ cấu chuyển dịch kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả, phù hợp với thực
tiễn nền kinh tế trong mỗi thời kỳ.
 Nền kinh tế có tính cạnh tranh cao.
 Tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo hài hòa đời sống kinh tế xã hội.
 Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái.
Để
phản ánh tăng trưởng kinh tế, các nhà kinh tế sử dụng số liệu về GDP – 1
ch
ỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập của mọi người trong nền kinh tế.
Chương tiếp theo của bài tiểu luận sẽ tìm hiểu về mối quan hệ giữa lạm phát

m
ục tiêu và tăng trưởng kinh tế, mức độ ảnh hưởng giữa hai thành tố này qua các
nghiên c
ứu và lý thuyết từ trước đến nay.
Đề tài 9
Nhóm 10
11
CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC
TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC
TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NƯỚC NGOÀI
Lạm phát mục tiêu là một chính sách tiền tệ khá mới mẻ, và hiện được đa số
các quốc gia đang phát triển áp dụng, trong đó Việt Nam vẫn trong giai đoạn bắt
đầu xem xét và nghiên cứu, chuẩn bị thử nghiệm chính sách này như một công cụ
điề
u hành chính sách tiền tệ quốc gia. Với mục tiêu đặt một chỉ tiêu lạm phát cho
m
ột giai đoạn trung và dài hạn, các công cụ điều tiết vĩ mô khác sẽ hoạt động xoay
quanh m
ục tiêu lạm phát này. Trong bối cảnh đặc thù của một quốc gia đang phát
triển như Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm luôn ở mức khá cao so với
các qu
ốc gia khác, trong khi đó lạm phát cũng luôn ở mức cao, liệu mối quan hệ
trực tiếp giữa hai chỉ số cơ bản luôn được quan tâm là lạm phát và tốc độ tăng
trưở
ng sẽ có mối quan hệ thế nào?
Có ý kiến cho rằng muốn chống lạm phát phải hi sinh tăng trưởng. Điều đó
không đúng hoàn toàn. Tăng trưởng kinh tế và chống lạm phát là hai mục tiêu gắn
bó chặt chẽ với nhau, muốn tăng trưởng kinh tế cao và hiệu quả cần phải chống lạm
phát, và ngược lại chống lạm phát làm cho kinh tế phát triển cao và bền vững. Lạm

phát và tăng trưởng là bạn đồng hành tin cậy nếu như tỷ lệ giữa chúng không vượt
quá 1.45 lần. Thực tế nền kinh tế các nước chứng minh điều đó. Một số nước trong
khu vực có mức tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8-9%, chẳng hạn Trung Quốc đạt
10%, Ấn Độ đạt 8,9%, Campuchia 9,5%. Nhìn chung toàn Châu Á là 8%, trong đó
các nền kinh tế đang nổi là 9,5%, nhưng vẫn giữ chỉ số lạm phát chỉ ở mức 2-3%,
Trung Quốc cũng chỉ 5,4%, Singapore 3%.
V
ề mặt lý thuyết, lạm phát có ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực đến tăng
trưở
ng. Trong quan niệm của nhiều người, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng
trưở
ng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động. Lạm phát bóp méo mức độ khan
hi
ếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo
các quyết định đầu tư và sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn
làm gi
ảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao
tài s
ản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến
gi
ảm năng suất. Hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi kể cả
Đề tài 9
Nhóm 10
12
trong thời kỳ lạm phát ổn định. Như vậy, các nhà đầu tư thường có xu hướng mắc
l
ỗi trong quyết định của mình và chọn những “gói” yếu tố sản xuất không phải là tối
ưu, làm giảm hiệu quả kinh tế và, do đó, giảm năng suất.
T
ừ một khía cạnh khác, một số nhà nghiên cứu cho rằng lạm phát có ảnh

hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc
c
ủa lạm phát trong tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất trắc
c
ủa lạm phát càng cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều này bởi vì
nhà s
ản xuất khai thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên thị trường – thông
tin có được của người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản xuất – để tăng biên độ lợi
nhu
ận, do đó làm tăng doanh thu kể cả cho những nhà sản xuất không thật sự hiệu
qu
ả. Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới những nhà sản xuất không hiệu quả
như vậ
y sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng. Nhưng ngược lại với dòng lập luận này,
m
ột số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính bất trắc của lạm phát lại có tác động tích cực đến
tăng trưởng, nhờ vào động thái tăng tiết kiệm để phòng ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ
ra thêm rằng trên thực tế, quan hệ nhân quả giữa hai biến số này là không nhất quán
ở từng trường hợp nghiên cứu quốc gia.
M
ột số khảo sát về mối tương quan giữa hai chỉ số này đã được nghiên cứu
trước đó với các kết quả cụ thể như sau:
Theo lý thuyết Keynes: trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát và
tăng trưởng; nghĩa là, muốn cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một
t
ỷ lệ lạm phát nhất định; trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di
chuy
ển cùng chiều; sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm phát để thúc
đẩy tăng trưởng thì GDP cũng không tăng thêm mà có xu hướng giảm (đường cong
Phillips n

ổi tiếng về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát và thất nghiệp); mối quan
h
ệ giữa tăng trưởng và lạm phát mang dấu dương.
Theo chủ nghĩa trọng tiền (đại diện là Milton Fredman): quan điểm cho rằng
l
ạm phát là sản phẩm của việc tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn hơn
tốc độ tăng trưởng kinh tế; nghĩa là, trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền
ch
ứ không thực sự tác động lên tăng trưởng; nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ
tăng trưở
ng thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra; nếu giữ cung tiền và hệ số tạo tiền ổn
định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát.
Đề tài 9
Nhóm 10
13
Lập luận này cũng được thể hiện trong công thức nổi tiếng của Irving Fisher (lý
thuy
ết số lượng tiền tệ - Quantity theory of Money):
MV = PY
Trong đó:
M: cung tiền
V: H
ệ số tạo tiền
P: Giá
Y: s
ản lượng đầu ra (GDP thật)
C
ũng theo Friedman, nếu giá cả hàng hóa trong nền kinh tế tăng gấp 2 lần mà
thu nh
ập của người lao động cũng tăng gấp 2 lần, họ sẽ không quan tâm đến việc

tăng giá hàng hóa. Trong trường hợp như vậy, tăng trưởng không bị suy giảm bởi
l
ạm phát. Nếu lạm phát xảy ra theo hướng này thì không ảnh hưởng nguy hiểm đến
tăng trưởng kinh tế.
Nói tóm l
ại, theo quan điểm của thuyết trọng tiền, trong dài hạn, giá cả bị ảnh
hưởng bởi cung tiền chứ không thực sự tác động lên tăng trưởng. Nếu cung tiền
tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra. Nếu giữ
cung tiền và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát.
Theo lý thuyết tân cổ điển Mundell (1965) và Tobin (1965): lạm phát là
nguyên nhân làm cho con người tránh giữ tiền mà chuyển thành các tài sản sinh lời;
theo mô hình này gi
ữa lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ tỉ lệ thuận. Bổ sung
thêm cho mô hình trên c
ủa lý thuyết tân cổ điển nhà kinh tế học Sidrauski (1967,
theo
Vikesh Gokal, Subrina Hanif 2004) có cùng quan điểm với chủ nghĩa trọng
ti
ền, Sidrauski đề cập đến một trạng thái “vô cùng dửng dưng” (superneutral) với
l
ạm phát. Kết quả nghiên cứu của ông là khi các biến số độc lập với việc tăng cung
tiền trong dài hạn thì việc tăng lạm phát không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Mô hình c
ủa Stockman (1981, theo Vikesh Gokal, Subrina Hanif 2004) - một nhà
kinh t
ế học thuộc trường phái tân cổ điển - thì cho rằng lạm phát tăng cao sẽ làm
cho tăng trưởng giảm.
Lý thuyết của Bruno và Easterly (1995) . Theo thuyết này, một cú sốc tạm
th
ời (ví dụ như tỷ lệ thâm hụt ngân sách tăng vọt), có thể là nguyên nhân của lạm

phát (t
ức là làm cho mặt bằng giá tăng lên trong thời gian dài hơn), và sau đó lạm
phát ch
ỉ giảm đi và kết thúc với một khoảng thời gian trễ khi nguyên nhân gây ra
l
ạm phát chấm dứt (ví dụ như tỷ lệ thâm hụt ngân sách quay lại mức ban đầu).
Đề tài 9
Nhóm 10
14
Lý thuyết này được xây dựng dựa trên các quan sát về lạm phát ở các nước
Nam M
ỹ và Mỹ La tinh, một số nước châu Phi, Israen, Indonexia và một vài nước
châu Á khác trong 3 th
ập kỷ 60, 70 và 80 của thế kỷ trước. Lý thuyết này định
ngh
ĩa khủng hoảng lạm phát là một giai đoạn nhiều năm trong đó tỷ lệ lạm phát
hàng năm vượt quá 40%, sau đó lại có giai đoạn lạm phát chậm lại; tuy nhiên kiểu
l
ạm phát này khác với kiểu lạm phát kinh niên trong đó thời gian lạm phát dài hơn,
mạnh hơn và đều đặn hơn.
Các nhà lý thuyết của trường phái này cho rằng các cuộc khủng hoảng lạm phát
luôn kèm theo gi
ảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, nhưng đến khi trở lại ổn định thì sẽ
kèm theo sự tăng nhanh của tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và thường vượt cả tỷ lệ tăng
trưở
ng kinh tế tiềm năng. Lý thuyết này được hình thành từ giả thuyết về trung và
dài h
ạn có một quan hệ âm giữa lạm phát và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, trong đó tỷ lệ
tăng trưở
ng kinh tế là hậu quả và phản ứng trễ, ngược chiều so với lạm phát. Trong

s
ố nhiều kênh mà lạm phát có thể ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế, có
m
ột kênh quan trọng như sau: Người đầu tư tiềm năng không còn tin vào khả năng
kiểm soát môi trường kinh tế vĩ mô của chính phủ, trước hết là do đã để bùng nổ
khủng hoảng lạm phát, tiếp đến là có thể áp đặt một hệ thống các chính sách kinh tế
xã hội khắc khổ quá nhanh, làm cho cầu giảm đột ngột, kéo theo giảm các hoạt
động kinh tế xã hội và giảm tỷ suất lợi nhuận đầu tư. Với lập luận đó, họ sẽ nhanh
chóng c
ắt giảm đầu tư và làm cho sản xuất tăng trưởng chậm lại.
Tuy
quan điểm về lý thuyết và mô hình minh chứng cho mối quan hệ giữa
tăng trưởng và lạm phát của các trường phái có sự khác nhau, nhưng điểm chung
c
ủa các trường phái là mối quan hệ ấy không phải một chiều, mà là sự tác động qua
l
ại. Trong ngắn hạn khi lạm phát còn ở mức thấp, lạm phát và tăng trưởng thừơng
có mối quan hệ cùng chiều. Nghĩa là nếu muốn đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn
thì phải chấp nhận tăng lạm phát. Tuy nhiên mối quan hệ này không tồn tại mãi và
đến một lúc nào đó, nếu lạm phát tiếp tục tăng cao sẽ làm giảm tăng trưởng; trong
dài h
ạn, khi tăng trưởng đã đạt đến mức tối ưu thì lạm phát không tác động đến tăng
trưở
ng nữa mà lúc này lạm phát là hậu quả của việc tăng cung tiền quá mức vào nền
kinh t
ế. Đó chính là mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế.
Nghiên c
ứu ban đầu (những năm 1960) không tìm thấy mối quan hệ có ý
ngh
ĩa hệ thống. Nghiên cứu giai đoạn sau khủng khoảng dầu hoả (năm 1973-1974)

c
ủa Fischer (1993), Barro (1996), Bruno và Easterly (1998) đã tìm thấy quan hệ âm
Đề tài 9
Nhóm 10
15
giữa lạm phát và tăng trưởng. Nghiên cứu gần đây, M.Khan và A.Senhadji (2001)
c
ũng đã tìm thấy mối quan hệ tăng trưởng - lạm phát mang dấu âm khi: tỉ lệ lạm
phát vượt qua ngưỡng và mang dấu dương trong trường hợp còn lại. M.Khan và
A.Senchadji
đã sử dụng các kĩ thuật phân tích hiện đại nhất để kiểm định mối quan
h
ệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Công trình của các ông bao quát số liệu của 140
nước trong đó có cả các nước phát triển và các nước đã công nghiệp hóa giai đoạn
1960-1998. M
ột lần nữa kết quả cho thấy có tồn tại một mức ngưỡng mà dưới đó
lạm phát và tăng trưởng có mối tương quan dương và trên đó lạm phát gây ảnh
hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Một phát kiến rất có ý nghĩa của các tác giả là mức
ngưỡng đó khác nhau giữa các khối nước ở các nước công nghiệp, mức ngưỡng này
r
ất thấp, chỉ vào khoảng 1-3%/năm, trong khi đó ở các nước phát triển mức ngưỡng
này vào kho
ảng 7-11%/năm.
Nối tiếp các kết quả trên, rất nhiều nhà nghiên cứu bằng các phương pháp
khác nhau đ
ã công bố ảnh hưởng qua lại giữa tăng trưởng và lạm phát: Mallik và
Chowdhury (2001) s
ử dụng hồi quy đồng liên kết và mô hình sai số hiệu chỉnh
(ECM); Faria and Carneiro (2001) c
ũng sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị ADF

(xác định tính dừng của chuỗi dữ liệu khi phân tích chuỗi dữ liệu theo thời gian) và
phương pháp phân tích phương sai dựa trên mô hình VAR…cho thấy: lạm phát
không
ảnh hưởng đến sản lượng thực tế trong dài hạn, tuy nhiên trong ngắn hạn thì
s
ự ảnh hưởng của lạm phát đến sản lượng thực tế lại mang dấu âm.
Nước Mỹ trong thời gian khá dài đã thực thi chính sách “hy sinh” mục tiêu
tăng trưởng cho mục tiêu kiềm chế lạm phát. Sau hơn 10 năm tăng trưởng liên tục
khi kinh t
ế Mỹ bước vào chu kỳ suy thoái, nước Mỹ đã chuyển sang thực thi chính
sách “hy sinh” m
ục tiêu kiềm chế lạm phát cho mục tiêu tăng trưởng, mà biểu hiện
rõ nh
ất là chỉ trong một năm đã liên tục 12 lần cắt giảm lãi suất từ 6,7% xuống chỉ
còn 1%. Khi tăng trưởng kinh tế phục hồi và lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại, nước
M
ỹ lại thực thi chính sách “hy sinh” mục tiêu tăng trưởng cho mục tiêu chống lạm
phát v
ới một trong những giải pháp cụ thể đã thực hiện là chỉ từ tháng 7/2004 đến
nay đã tám lần liên tục nâng lãi suất từ 1% lên 3%.
Trung Qu
ốc sau 26 năm tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (hiện giữ kỷ lục
v
ề thời gian tăng trưởng liên tục mà trước đó Hàn Quốc đã giữ với 23 năm), cũng
đ
ã muốn hạ bớt tốc độ tăng trưởng nóng và kiềm chế lạm phát, bằng việc giảm đầu
tư sau mấy năm ở mức cao nhất thế giới (trên 44% so với GDP)…Có thể thấy trong
Đề tài 9
Nhóm 10
16

bối cảnh tương đồng của quốc gia láng giềng Trung Quốc, các nhà hoạch định chính
sách đã đánh đổi giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tốc đông tăng trưởng, chấp
nh
ận giảm nhịp tăng trưởng để hạ tỷ lệ lạm phát, như vậy giai đoạn hiện tại, mối
quan h
ệ giữa lạm phát và tăng trưởng ở Trung Quốc là đồng biến.
II. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC
TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
Tại Việt Nam, để nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát, ông
Nguy
ễn Trung Chính (2009) đã sử dụng phương pháp hồi qui đồng liên kết và mô
hình sai s
ố hiệu chỉnh được đề xuất bởi Engle và Granger (1987). Nghiên cứu mối
quan h
ệ giữa lạm phát và tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 1995-2008 theo số liệu
công b
ố của Tổng Cục thống kê đã chỉ ra các kết quả là tăng trưởng và lạm phát có
m
ối quan hệ dương (đồng biến) trong cả dài hạn và ngắn hạn và sự thay đổi của
tăng trưởng nhanh hơn sự thay đổi của lạm phát. Như vậy trong giai đoạn này lạm
phát có tác d
ụng tích cực đến tăng trưởng và chưa vượt quá ngưỡng kiểm soát.
Trong m
ối tương tác của hai chỉ số này thì lạm phát có ảnh hưởng đến tăng trưởng
nhi
ều hơn ảnh hưởng ngược trở lại của tăng trưởng đến lạm phát. Điều đó cho thấy
l
ạm phát còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác, đặc biệt là những biến động trong
ng
ắn hạn. Nghiên cứu của ông Chính đề xuất Chính phủ không nên theo đuổi mục

tiêu gi
ữ lạm phát thấp bằng mọi giá, mà cần thực hiện các chính sách hướng tới mục
tiêu ưu tiên hàng đầu là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh để rút ngắn thời gian
th
ực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Vì lạm phát còn bị chi phối bởi
nhi
ều nhân tố khác nên chính phủ cần thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm ổn
định lạm phát, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng 1 cách bền vững và tránh những cú
s
ốc lạm phát không có lợi cho nền kinh tế
Căn cứ
vào kinh nghiệm của những quốc gia trên thế giới, TS Phan Minh
Ng
ọc (2006) cho rằng ảnh hưởng của lạm phát là không rõ ràng lên tăng trưởng
kinh t
ế. Ở một nước/nhóm nước nào đó lạm phát ( và tính bất trắc lạm phát ) có thể
làm giảm năng suất (và giảm tăng trưởng), nhưng ở một nước/nhóm nước khác điều
này là không đúng. Vì vậy, trước khi đưa ra một Mục tiêu lạm phát để kiềm chế lạm
phát
ở nước ta (mà chủ yếu dựa vào chính sách tiền tệ), cần phải có những nghiên
c
ứu thực chứng công phu để có một đánh giá đúng về quan hệ giữa lạm phát và
năng suất (và tăng trưởng) ở nước ta. Khi chưa có những nghiên cứu này thì không
th
ể loại trừ khả năng lạm phát ở ta tuy cao nhưng tác động của nó lên tăng trưởng là
Đề tài 9
Nhóm 10
17
không đáng kể, và do đó chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát là không
c

ần thiết và chỉ dẫn đến suy giảm tăng trưởng.
M
ột nghiên cứu khác về lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Nghiên c
ứu này do PGS.TS. Trần Hoàng Ngân, ThS. Hoàng Hải Yến và ThS. Vũ
Thị Lệ Giang (2010) cùng thực hiện từ dữ liệu kinh tế tại Việt Nam với số liệu về
chỉ số lạm phát đo bằng CPI tháng 12 năm sau so với tháng 12 năm trước và tốc độ
tăng trưởng GDP đượ
c tổng hợp lại trong giai đoạn 1987-2010, họ tính được hệ số
tương quan giữ
a chỉ số lạm phát CPI và GDP là âm. Từ đó cho thấy khi lạm phát
tăng thì sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chậm lại, khi loại trừ số liệu của 2
năm mà Việt Nam rơi vào tình trạng siêu lạm phát và cũng tính như trên thì kết quả
là hệ số tương quan giữa CPI và tốc độ tăng GDP cũng âm. Như vậy, xét trong một
giai đoạn dài, cho dù có xảy ra cú sốc lạm phát hay không thì lạm phát vẫn tác động
tiêu c
ực ở mức trung bình tới tăng trưởng kinh tế. Lạm phát tăng cao sẽ đẩy tăng
trưở
ng kinh tế chậm lại. Kết quả này giống kết quả nghiên cứu giai đoạn sau khủng
ho
ảng dầu hỏa 1973 -1974 của Fischer (1993), Bruno và Easterly (1995) và Barro
(1998) khi tìm th
ấy quan hệ âm giữa lạm phát và tăng trưởng. Khi thực hiện nghiên
c
ứu hệ số tương quan trên trong 2 giai đoạn ngắn khoảng 10 năm thì kết quả là cả
trong hai giai đoạ
n ngắn, lạm phát hoặc tác động tiêu cực thấp tới tăng trưởng kinh
t
ế hoặc không thể kết luận được mối quan hệ giữa hai biến. Kết quả cho thấy lạm
phát ch

ỉ tác động tiêu cực lên tăng trưởng khi đạt “ngưỡng” nhất định nào đó. Ở
mức dưới ngưỡng, lạm phát tác động dương lên tăng trưởng như lý thuyết Kyenes
đề cập. Nghiên cứu 140 nước, giai đoạn 1960 - 1998, ngưỡng lạm phát từ 11-
12%/năm (Khan và Senhadji, 2001). Nghiên cứu số liệu 90 nước đang phát triển,
giai đoạn 1961 - 2004, ngưỡng là 14%/năm (Li, 2006). Nghiên cứu của
Christoffersen và Doyle (1998) tìm ra ng
ưỡng là 13% cho các nền kinh tế chuyển
đổi.
Tái kh
ẳng định mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát ở Việt Nam theo
quy lu
ật chung, bằng cách sử dụng Phương pháp hồi quy đồng liên kết, Mô hình sai
s
ố hiệu chỉnh (ECM) và Phương pháp phân tích phương sai (Mô hình VAR) phân
tích ch
ỉ số giá tiêu dùng (CPI) và tổng thu nhập quốc nội (GDP) (số liệu do Tổng
c
ục Thống kê Việt Nam công bố), năm 2012 Ths. Hà Thị Hương Lan - Giảng viên
Khoa QLHCNN đã khẳng định mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát ở Việt
Nam (trong dài h
ạn và ngắn hạn) về cơ bản thống nhất với lý thuyết và kết quả kiểm
Đề tài 9
Nhóm 10
18
nghiệm trên thế giới của Tobin (1965), Mallik và Chowdhury (2001), Frria và
Carneiro (2001) đã công bố. Nghiên cứu của bà một lần nữa tái khẳng định mối
quan h
ệ giữa tăng trưởng và lạm phát của nền kinh tế Việt Nam tuân theo quy luật
chung. Tóm l
ại, theo bà trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần chấp nhận đánh đổi

gi
ữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế, nghĩa là “hy sinh” mục tiêu
tăng trưởng cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm được
tăng trưởng ở mức hợp lý, khi có điều kiện thuận lợi phấn đấu đạt mức tăng trưởng
có hơn. Đây là một quyết định khó khăn, nhưng lạm phát hiện tại đã đạt mức độ tiêu
c
ực và ưu tiên hàng đầu kiềm chế lạm phát là cần thiết và điều này phù hợp với
quan điểm, chủ trương của Chính phủ: "kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, khi có
điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao hơn" trong mục tiêu của
năm 2012 và kế hoạch 5 năm 2011 – 2015.
Riêng v
ề đánh giá hiệu quả của chính sách LPMT đối với các nước đã thực
hi
ện, Bernanke, Mishkin và Posen (1997) khẳng định rằng, LPMT đã có những
thành công l
ớn trong việc giúp các nước duy trì lạm phát thấp và không có bằng
ch
ứng cho thấy chính sách LPMT có thể gây nên những hiệu ứng không mong
mu
ốn đối với nền kinh tế thực về dài hạn; trái lại, nó còn cải thiện môi truờng cho
tăng trưởng kinh tế. Những bằng chứng gần đây đã chứng tỏ hiệu ứng tiêu cực của
tình tr
ạng lạm phát cao và biến động đối với sự ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng
kinh t
ế và phân phối thu nhập vượt quá lợi ích tiềm năng phát sinh từ tài trợ thâm
h
ụt ngân sách thông qua tiền tệ hóa (phát hành tiền bù dắp thâm hụt). Giả thiết về sự
thay thế giữa lạm phát và tăng trưởng (the growth inflation substitution hypothesis)
c
ủa A.W. Phillips đã không còn đúng nữa

Trong m
ột nghiên cứu 10 năm sau đó, Bamidele (2007) đã cho rằng hầu hết
các nước thực hiện cơ chế LPMT đều có khả năng đạt được đồng thời mục tiêu
gi
ảm lạm phát và tăng sản lượng.
Cho dù đạt được những thành tích nêu trên, vẫn có khá nhiều công trình khoa
h
ọc cơ bản tập trung nghiên cứu cơ sở lí thuyết và thực tiễn của việc thực hiện cơ
chế LPMT như một cơ chế điều hành CSTT từ các quan điểm khác nhau; điều kiện
để thực hiện thành công cơ chế LPMT, lý do tại sao các nước chuyển sang cơ chế
LPMT, ai sẽ thiết lập mục tiêu lạm phát; xây dựng và dánh giá các mô hình thực
nghi
ệm…
Đề tài 9
Nhóm 10
19
CHƯƠNG III: LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ KHẢ NĂNG
ÁP DỤNG CƠ CHẾ LẠM PHÁT MỤC TIÊU
TẠI VIỆT NAM
I. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Theo lý thuyết kinh tế học, tăng trưởng, lạm phát, cán cân thanh toán, thất
nghi
ệp là những yếu tố kinh tế vĩ mô đáng quan tâm, ảnh hưởng tới cân đối vĩ mô
của nền kinh tế, trong đó yếu tố lạm phát là vấn đề được quan tâm hàng đầu của bất
k
ỳ một quốc gia nào. Trong thời gian gần đây, lạm phát luôn được Chính phủ quan
tâm và dành nhi
ều nỗ lực nhằm kiềm chế lạm pháp ở mức hợp lý đồng thời bảo đảm
tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy nhiên, tốc độ tăng chỉ số CPI trong những năm
gần đây, đặc biệt là năm 2011 luôn thu hút sự quan tâm và chú ý của các nhà nghiên

c
ứu kinh tế và dư luận xã hội.
Biểu đồ : Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) cuối kỳ giai đoạn 2001 – 2011
Theo báo cáo số liệu của Tổng cục Thống kê (GSO), tốc độ tăng bình quân
ch
ỉ số CPI (chỉ số CPI cuối kỳ) trong giai đoạn 2006-2010 đã ở mức 11,48%, và đạt
18,13% tính đến cuối tháng 12/2011, cao hơn nhiều so với mức tăng chỉ số CPI của
các năm trong giai đoạn 2001-2010 (nếu loại bỏ năm 2008) và mục tiêu Quốc hội
đề ra cho cả năm 2011 (7%).
Đề tài 9
Nhóm 10
20
Nhìn lại năm 2011, tỷ lệ lạm phát là 18,13%. Theo nghiên cứu của các nhà
kinh t
ế học thế giới, năm 2011 Việt Nam đã vượt ngưỡng lạm phát và sẽ có tác
động tiêu cực đến tăng trưởng. Trong báo cáo Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 2),
Chính ph
ủ đã khẳng định: “Nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát cao ở nước ta là do
h
ệ quả của việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm để
đáp ứ
ng yêu cầu đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, và phúc lợi xã hội trong
khi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả, cùng những hạn chế trong quản
lý điều hành và tác động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý”. Và đã đưa ra mục
tiêu:
"Kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, khi có điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để
đạ
t mức tăng trưởng cao hơn" trong mục tiêu của năm 2012 và kế hoạch 5 năm
2011 - 2015.
T

ại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa 13, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
nêu rõ: Mục tiêu tổng quát của năm 2012 là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
t
ế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và
cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm
phúc l
ợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định
chính tr
ị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; nâng cao
hi
ệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Chỉ tiêu lạm phát năm 2012, phấn
đấu kiềm chế lạm phát dưới 10%, các năm sau thấp hơn, đến năm 2015 lạm phát
kho
ảng 5-7%. Chỉ tiêu tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2012 tăng GDP
khoảng 6-6,5% (trong giai đoạn 5 năm 2011-2015, tăng trưởng GDP bình quân
kho
ảng 6,5-7%, phấn đấu đạt 7%); bội chi ngân sách nhà nước bằng 4,8% GDP, các
năm sau giảm dần để đến năm 2015 giảm xuống còn 4,5%; đến năm 2015, nợ công
kho
ảng 60-65% GDP; tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 dự kiến tăng khoảng 12-
13% so v
ới năm 2011; nhập siêu 11,5-12% tổng kim ngạch xuất khẩu (phấn đấu
đến năm 2015, nhập siêu khoảng 10%); tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm
2012 bằng khoảng 33,5-34% GDP, bình quân 5 năm 33,5-35% GDP.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ TĂNG TRƯỞNG
Ở VIỆT NAM
Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng
phù hợp với lý thuyết và kết quả kiểm nghiệm trên thế giới. Ở mức lạm phát thấp
(thường là một chữ số) thì lạm phát không có tác động tiêu cực lên tăng trưởng. Ở
mức lạm phát thấp, gia tăng lạm phát thường gắn liền với tăng trưởng cao hơn (giai

Đề tài 9
Nhóm 10
21
đoạn 1992-2007). Tuy nhiên, khi lạm phát đạt đến một ngưỡng cao nhất định, thì
l
ạm phát bắt đầu tác động tiêu cực lên tăng trưởng (giai đoạn trước 1992). Như
nghiên cứu của nhóm PGS.TS. Trần Hoàng Ngân, ThS. Hoàng Hải Yến và ThS. Vũ
Thị Lệ Giang cho thấy hệ số tương quan (correlation - r) giữa chỉ số lạm phát CPI
và GDP là âm (r= -
0,426) trong giai đoạn từ 1987-2010. Điều đó có nghĩa là 95,7%
s
ố liệu trong giai đoạn nghiên cứu cho thấy khi lạm phát tăng 1% sẽ đẩy tăng
trưở
ng kinh tế tăng chậm lại 0,42% và ngược lại. Như vậy, nếu muốn tăng tốc độ
tăng trưở
ng kinh tế, Việt Nam phải thực hiện nhiều biện pháp nhằm kiềm chế giảm
l
ạm phát.
Bảng : Lạm phát CPI và tốc độ tăng GDP ở Việt Nam từ 1987 đến 2010
Đơn vị tính: %
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, ở Việt Nam xuất hiện một số quan điểm lại cho
r
ằng “Lạm phát tạo vốn lớn và cực rẻ cho phát triển kinh tế, vốn phát hành tiền chỉ
tốn chi phí in tiền nên cực rẻ”; hoặc “Lạm phát giúp ngân sách vay ngân hàng
nhi
ều hơn để chi cho sản xuất, tăng thu nhập của người dân” (theo ông Vũ Ngọc
Nhung, bài vi
ết tác giả Nguyễn Kim Anh, 2008) muốn tăng cung tiền, chấp nhận
l

ạm phát và tăng cung tiền là tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế; có sự đánh đổi giữa
l
ạm phát và tăng trưởng, chấp nhận lạm phát để tăng trưởng; làm cho các nhà
ho
ạch định chính sách tin rằng lạm phát có lợi hơn là có hại cho nền kinh tế (đặc
bi
ệt tỉ lệ lạm phát dưới hai chữ số), lạm phát tăng cung tiền để thêm vốn đầu tư từ
ngân sách là giải pháp tốt nhất để đạt mức tăng trưởng nhanh. Với quan điểm này,
Vi
ệt Nam đã thực hiện một số chính sách nới lỏng tiền tệ trong giai đoạn phát triển
kinh t
ế nóng và hậu quả là lạm phát tăng nhảy vọt.

×