1
Mục Lục
Phần I:Mở Đầu 2
Phần II:MONOTERPENOID 3
1.Phƣơng pháp vật lý & sinh tổng hợp 3
2.Các monoterpen mạch hở 5
3.Các monoterpen một vòng 15
4. Các Monotecpen 2 vòng 38
5. Furanoid và Pyranoid monoterpenoid 52
Phần III:Tài Liệu Tham Khảo 55
Phần IV:Kết Luận 62
2
Phần I:Mở Đầu
Từ xa xƣa con ngƣời đã thích và quan tâm tới dầu thơm tách từ thực vật.
Nhƣng mãi tới đầu thế kỷ XIX mới có những nghiên cứu đầu tiên về thành phần
hoá học tinh dầu. Vào năm 1818 ngƣời ta đã tìm đƣợc một số hợp chất và xác định
đƣợc rằng tỉ lệ nguyên tử C:H ở tinh dầu là 5:8. Tiếp thep đó là một số hợp chất
hidrocacbon không no, không vòng hoặc có vòng đã đƣợc tách ra. Chúng có công
chung là (C5H8),(n≥2) và đƣợc đặt tên là TECPEN. Ở trong đời sống của chúng
luôn có mặt của hợp chất tecpen nhƣng có thể bạn chƣa biết và những sản phẩm
hữu ích cho cuộc sống đời thƣờng nhƣ dầu gội, nƣớc hoa,… hay là giúp ích cho
sức khoẻ của bản thân chúng ta nhƣ thuốc bồi bổ sức khoẻ từ dầu cá heo, dầu gió
chữa cảm,… Vậy tecpen có những loại nào tính chất vật lý hoá học nhƣ thế nào,
những ứng dụng của nó trong đời sống của nó ra sao? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm
hiểu . Mở đầu cho những nghiên cứu về terpen, chúng ta cùng đi tìm hiểu từ
những hợp chất terpenoid cơ bản nhƣng cũng không kém phần quan trọng và gần
gũi với chúng ta, đó là phần mà nhóm 1 xin trình bày dƣới đây: Monoterpen
3
Phần II: MONOTERPENOID
1.Phƣơng pháp vật lý & sinh tổng hợp
Thêm một nhóm phổ khối lƣợng nữa của các hydrocacbon trong nhóm Caran
và Mêtan đã đƣợc công bố.[1] Sự đồng nhất của các rƣợu monoterpenoid trong
những hỗn hợp phức đôi khi là thói quen, vấn đề sẽ trở nên đơn giản hơn nếu
chuẩn bị trifloacetat, và sử dụng phổ F n.m.r.[2]
Thuyết phát sinh sinh vật của monoterpen đã nhận đƣợc nhiều chú ý.
Bài báo đầu tiên trong loạt báo cáo đó đã đƣợc dành để nói về monoterpen (một
lƣợng lớn các đồng phân của Thujone) của Tanaceum vulgare (cây cúc ngải).[3]
Con đƣờng tìm ra Thujone đã đƣợc kiểm nghiệm dựa trên qui mô kết hợp của độ
phóng xạ của axetat [Cacbon C14 ] và nó đã cho thấy rằng những terpen đã biết
(ví dụ menth-1-en-4-ol-sabinene) đều tham gia trực tiếp vào con đƣờng đó, trong
khi những chất khác ( ví dụ thujone ) là “các nhánh” của con đƣờng chính. Thêm
vào đó, bài báo này cũng có cuộc thảo luận thú vị về vị trí hiện tại của thuyết phát
sinh monoterpenoid. Một cách tiếp cận hơi khác đã đƣợc Zavarin sử dụng. Với
tinh dầu từ Pinus và Abies, ông đã phát triển một loạt số liệu phân tích thống kê
suy ra từ thuyết phát sinh. Từ một lƣợng khá lớn các mẫu, ông đã nhận ra sự lặp
lại nhất định trong sự có mặt của các monoterpen,một vài tính chất định tính (có
trong hai hoặc nhiều hơn những hợp chất có cùng loại) và một vài tính chất định
lƣợng (những hợp chất có trong quan hệ toán học với chất khác), và có nền tảng
đƣợc coi là nguồn phát sinh của các chất nhƣ pinen, camphan, bonyl axetat, γ-
terpinen, sabinen, và một vài hydrocacbon terpen khác.[4] Những nghiên cứu từ
4
phòng thí nghiệm dựa trên thuyết sinh tổng hợp tiếp tục xuất hiện. Mặc dù chúng
thƣờng có ích và quả thực bắt nguồn từ những nghiên cứu phát sinh, chúng hiếm
khi giống với nhiều hơn 1 quá trình hóa học. Một ví dụ nhƣ sự tổng hợp campho
đƣợc mô tả dƣới đây, từ dẫn xuất bi-cyclo [2,2,1] heptan. Sự khác biệt nhỏ ở đây
là sự tổng hợp của các terpen từ geranyl pyrophotphat đƣợc thực hiện bởi Haley et
al, ông đã thử làm theo khá giống với thuyết sinh tổng hợp đã đƣợc đƣa ra. Họ đã
kiểm tra sự biến đổi trong những sản phẩm từ neryl(1) và geranyl (2)
diphenylphotphat (những mô hình sinh học của pyrophotphat) và tìm ra nhiều sản
phẩm của terpen mạch vòng hơn trong hệ neryl. Các terpen mạch vòng đƣợc hình
thành từ geranyl diphenylphotphat nhƣng tác giả cho rằng có thể chúng đƣợc sinh
ra qua linalyl pyrophotphat (3), mặc dù nó không đƣợc tìm thấy trong hợp chất
(xem sơ đồ 1).[5]
Sơ đồ 1
Làm việc với các túi nƣớc cam, Potty và Bruemmer đã phân lập đƣợc một
enzym là geraniol dehydrogenase,[6] enzym này duy trì tính cân bằng giữa
andehit và ancol. Sự có mặt một loại enzym thứ hai đã bão hòa một trong hai liên
5
kết bội trong hệ thống này trở thành citronellal và citronellol đã đƣợc kết luận. Các
tác giả cũng đã chứng minh sự có mặt cuẩ các enzym chuyển hóa mevalonate
thành linalyl pyrophotphat, đồng thời cho rằng các quả thuộc họ cam đểu tổng hợp
các terpenoid từ mevalonate bằng cách này.
Vai trò của các monoterpen cyclopentanoid trong sinh tổng hợp các indol
alkaloid đƣợc thảo luận trong chƣơng 6.
2.Các monoterpen mạch hở
2,6-Dimethyloctane- Dembitskii et al.[8,9] đã báo cáo khả năng phân lập của
một hydrocacbon khác thƣờng, cis-2,6-dimethyloctan-1,4,7-triene (4), từ loài cây
Achilla filipendulina, cấu hình nối đôi dạng cis đã đƣợc xác định chủ yếu dựa trên
cơ sở quang phổ i.r. Điều này gợi nhớ về việc “hymentherene” đã đƣợc công bố là
một hợp chất thiên nhiên [2,6-dimethylocta-2,4,7-triene, (5)] [10] nhƣng về sau đã
cho thấy là một hợp chất trong số các monoterpen đã biết.[11] Chất achillen đó là
một hợp chất thiên nhiên, tuy nhiên lại đƣợc cung cấp từ quá trình tổng hợp của
olefin.[12] Nhóm ngƣời Nga khác cũng đã công bố rƣợu achillenol (6)[13]
Dehydrolinalool (7), một trong số những sản phẩm trung gian của linalool
và vitamin A, không phản ứng với axit formic để tạo sản phẩm α,β-aldehit hay
xeton không no nhƣ mong đợi, mà thay vào đó hình thành tetrahydropyran (8),
cùng với acetylcyclohexen (9)[14]
6
3,7-Dimethyl-1,5,7-octatrien-3-ol [(15)=R- đồng phân] đã đƣợc tìm thấy tự
nhiên trong cả hai dạng đối xứng. Đồng phân 3S-(+)-enantiomorph xuất hiện
trong lá cây Ho dầu Nhật Bản ( tên thƣờng gọi của nó là hotrienol)[15] trong khi
đồng phân R- đƣợc phân lập từ cây chè đen[16] và chè xanh [17]. Đồng phân R-
đƣợc tổng hợp từ R-linalyl axetat bằng cách brom hóa với N-bromosuccinimide,
cho 3 hợp chất allylically axetat đã đƣợc brom hóa (11), (12) và (13), tất cả đều
dẫn đến hợp chất axetat của ancol mong muốn trong phản ứng của dehydrobrom
hóa với dietylanilin. Một rƣợu nhƣ vậy cũng đã đƣợc tổng hợp, ngay cả khi nó
đƣợc tìm ra là một hợp chất thiên nhiên, bằng cách đề hidrat hóa với axit sunfuric
trong axeton, một trong những glycol thu đƣợc bằng cách tăng nhạy oxi hóa ánh
sáng của linalool (16)[18]
7
Dihydrotagetone (25), xảy ra trong cây Tagetes glandulifera (Com-positae), đã
đƣợc tổng hợp bởi ba tuyến đƣờng mới (mặc dù không phải là đầu tiên), một trong
số đó cũng dẫn đến các tagetone tự nhiên (24) [19] Teisseire và Corbier bắt đầu từ
các ete enol (18) và (19) của 4-methylbutan-2-một, mà phản ứng với nhƣng-2-ynol
có mặt của hiđrô kali sunfat để cung cấp cho hai allenic xeton (22) và (23) bằng
cách phản ứng Claisen của các ban đầu hình thành acetylenic ete (20) và (21). Khi
hỗn hợp của allenones đƣợc xử lý với cơ sở, chỉ có một mong muốn (22), hiện tại
trong hỗn hợp đến mức 65%, sắp xếp lại cho ra một hỗn hợp của cis-và-tagetones
xuyên (24) trong hiệu suất khoảng 45% dựa trên các butynol (cis tagetone-là sản
phẩm chủ yếu tự nhiên). Sử dụng crotyl rƣợu thay cho rƣợu acetylenic, Hai tổng
hợp của dihydrotagetone đƣợc bổ sung minh họa trong scheme2.
Một số lƣợng nhất định các phản ứng nổi tiếng trong loạt bài này đã đƣợc tổng kết
bởi Sasaki et al đã thảo luận về phản ứng Diels-Alder 1,4-cycloaddition của
myrcene (27), so sánh hoạt động của nó với dienes khác, đặc biệt isoprene.[21]
8
Việc tạo vòng ở vị trí 1,3- của benzoninitrile oxit (28) thành myrcen (27) với
phản ứng ở cả 2 nối đôi liên hợp, hình thành 2 sản phẩm cộng (29) và (30). Chất
kém phản ứng 1,3-dipoles, diazometan, diphenylnitrilmine, và phenyl-, và p-
toluensulphonyl-azide, đều không phản ứng.[22]
Một loại khác của phản ứng cộng (bao gồm một phức hệ π) thành 2 liên kết của
myrcen là phản ứng của triclorosilane, với sự có mặt của axit cloroplatinic, tạo
1,2- và 1,4- sản phẩm cộng mono của hệ liên kết đôi liên hợp
9
(chiếm ƣu thế trƣớc đây), cùng với sản phẩm cộng 1,2 : 3,4 Liên kêt bội thứ 3
chỉ phản ứng ở 105°C và áp suất cao.[23]
Sự epoxy hóa của alloocimen (31) đã đƣợc chứng tỏ là một peroxit trung gian
cao phân tử (32) và tạo ra các peoxit đã biết nhƣ (33) và (34) bằng phản ứng nhiệt,
một loại phản ứng cũng sẽ tạo ra 4-metylhexa-2,4-dienal (35) và 6-metylhepta-3,5-
dien-2-one (36).[24]
10
Bởi vì sự sẵn có và tinh khiết của geraniol (37) và nerol (40) những chất đã có
cấu hình xác định, Stork et al. đã sử dụng chúng để tạo các olefin có cấu dạng hình
học xác định. Giai đoạn đầu tiên phụ thuộc vào việc các axetat có thể bị cắt bởi
ozon đặc biệt ở các liên kết đôi, tạo ra các aldehit axetat,[25] những chất này cũng
đƣợc cô lập nhƣ đimetyl axetan (38) và (41). Các axetat của clo tƣơng đƣơng (39)
và (42) thì khó tạo ra hơn khi không có các đồng phân của các liên kết bộ, nhƣng
khi có rƣợu trong hexametyl photphramid (2:1) hay metyl-liti, cùng với p-toluen
sunphonyl clo và Liti clo trong cùng hỗn hợp dung môi, năng suất tƣơng ứng của
hợp chất của clo (39) và (42) tăng lên mà không cần đồng phân hóa.[26]
11
Các monoterpenoid non-isoprenoid- có tính hoạt động trong số các
monoterpenoid có quan hệ với axit chrysanthenic (43) và thuộc về artemesyl (44),
santolenyl (45), và lavandulyl (46) các nhớm mà không theo qui tắc nối “đầu với
đuôi” của đơn vị isopren. Rƣợu yomogi (47), hinhf thành từ allylically đã chuyển
hóa thành rƣợu cây ngải (51)[27,28] , đã đƣợc phân lập từ Artemisia feddei. Lớp
santolinyl hiện nay bao gồm các rƣợu, lyratol (46) từ Cyathocline lyrata và 2,5-
dimetyl-3-vinylpent-4-en-2-ol (49), từ cây cúc la mã Moroccan, Ormenis
multicaulis.[30] Rƣợu cây ngải (51) đã đƣợc tổng hợp bằng sự sắp xếp lại tuyến
liên kết sigma của ylided có dẫn xuất từ di-isopentenyl ete (50)[31,32] 1 phản ứng
xảy ra sự tích trữ sinh tổng hợp của các terpen kì lạ này.
Có kết luận cho rằng có thể tất cả chúng đƣợc rút ra từ bộ khung của axit
chrysanthemic (43; R=H),[33,34] bởi sự mở vòng liên kết của xyclopropan, có thể
tạo ra hoặc (44), (45) hay (46), và quả thực một vài chuyển hóa của khung
chrysanthemyl thành khung monoterpen lạ đã xuất hiện trong phòng thí nghiệm.
Mới đây nhất khi chiếu sáng chrysanthemol (52) với đèn thủy ngân áp suất cao sản
phẩm thu đƣợc bao gồm lavandulol (53) và 3-metyl-but-2-enol (54), mỗi chất với
12
hiệu suất khoảng 20%.[35] Phản ứng sigmatropic của thioeter với ete (50) đã đƣợc
phát hiện, dẫn đến suy đoán các monoterpen của cây ngải hƣơng có thể đƣợc hình
thành bằng các quá trình tƣơng tự.
Trong những điều kiện này chuyển hóa trực tiếp từ chrysanthemyl thành
chrysantmethol không cần phải dùng đèn thủy ngân áp suất cao
Rƣợu yomogi (47) đã đƣợc chuyển hóa thành hợp chất của nhóm satonilyl,
(57), (58) và (59), bằng việc mở vòng của epoxit (53)t khi có xúc tác axit.[38]
Quá trình tổng hợp của rƣợu yomogi (47) đã đạt đƣợc nhở quang oxi hóa
hydro cacbon (61) thu đƣợc bằng phản ứng Wurtz (sử dụng xúc tác Mg) của 3-
metylbut-2-enyl clo (60). Nó cũng hình thành từ chất đã biết 2,2-dimetylbut-3-enal
dùng phản ứng Wittig, công bố sau này đã đƣa ra quá trình tổng hợp của cấu trúc
(62), từng đƣợc tin là có mặt rƣợu yomogi.[41]
13
Các nghiên cứu về chrysanthemic axit và các dẫn xuất của nó thƣờng định
hƣớng để tổng hợp este của axit trans-chrysanthernic, một số trong đó tự nhiên
đang xảy ra ( và do đó, có thể phân hủy sinh học ) thuốc trừ sâu. Tổng hợp của
axit pyrethric hay mono - este của nó ( 65 ) từ axit chrysanthemic đã đƣợc thực
hiện thành hai thí nghiệm. Ueda và Matsui so sánh cả bốn chất đồng phân hình học
của pyrethric acid bằng cách biếnđổi cis – và trans- metyl chrysanthemate vào
anđêhyt tƣơng ứng [ e. g. ( 63 ; R = Me).Martel và Buenia
43
theo cùng phƣơng
pháp, đầu tiên không có isome hóa tâm bất đối[ ( lR, 2 R ) ], sau đó lắp vào tổng
hợp đến metyl este của axit chrysanthemic đối hình [ ( lS, 2 S ) ] ( 43a ; R = Me ),
phần còn lại từ dung dịch của axit raxemic, đi theo sơ đồ 3. Crombie et al. cũng sử
dụng tuyến giống nhau từ anđêhyt ( 63 ; R = Me ) để kiểu 14 clabelled metyl
chrysanthemate do phản ứng Wittig .
14
Vấn đề về việc sử dụng của axit chrysanthemic từ [i.e. the (1S, 2S) isomer]
cũng đã đƣợc tổng hợp bởi Ueda và Matsui[46]. Họ nhiệt phân axit
chrysanthemic tạo ra pyrocine (66).Chuyển hóa của cis - chrysanthemate este
thành trans-esters dễ dàng thực hiện (cho este metyl ) bởi sự nhiệt phân của cis -
este tại 240-260°C.[47]
Sự telomerise hóa của Isopren- Quá trình tổng hợp của các monoterpenoid
bằng sự telomerise hóa đang đƣợc nghiên cứu, đặc biệt là ở Nga và Nhật Bản, và
một đánh giá (ở Nga) về sự telemerise hóa sử dụng isopren-hydro clo sản phẩm
cộng, đã đƣợc đƣa ra. Đoạn bao gồm C10 , dƣới điều kiện nhất định thì 45%
geranyl clo có thể phân lập cho sản phẩm cộng urotropin hoặc các phản ứng xa
hơn. Sự telomerise hóa axit photphoric của isopren, mặt khác, tạo ra hầu hết là sản
phẩm α-terpinen và alloocimen nhƣ các hydrocacbon C10,[48] cùng với geraniol
và terpineol. Khi có mặt axit axetic, linalyl, geranyl, lavandulyl, và các axetat khác
đƣợc hình thành trong phản ứng [49] của axit photphoric với nhiều monoterpen
hydrocacbon. Ngƣời ta đã công bố rằng một nhóm ancol ở C9 (67) xuất hiện trong
hỗn hợp tạo ra bởi phản ứng giữa axit photphoric và isopren. Axit percloric có thể
hình thành dƣới hiệu suât thấp của 2,2,5-trimetyl-6-vinyltetrahydropyran (68).[52]
15
Với sự có mặt của lithi naphtalen đƣa vào tetrahydrofuran, isoprene đƣợc nhị
trùng hợp tạo ra monoterpene, oxy hóa hỗn hợp bằng oxy đi qua cho 30 - 40%
rƣợu C
10
và 30% C
10
glicol. 10% nerol và 10% geraniol đƣợc tạo ra cộng thêm 5%
của 2,6-dimetylocta-1,7-dien-6-ol (69) của các rƣợu hydric, và 55% 2,7-
dimetylocta-2,6-dien-1-ol (70), với 20% sản phẩm khác. Các glycol chiếm 50%
trong mỗi hợp chất 2,6- và 2,7-dimetyl-octa-2,6-dien-1,8-diol (71) và (72). [54]
3.Các monoterpen một vòng
Cyclobutan- Một trong những chất mới thú vị nhất mới đây đƣợc khám phá là
monoterpene cyclobutanes ( ngoài những hệ thống hai vòng. chứa đựng
cyclobutanes). Chất hấp dẫn tình dục giống đực ( Anthonornus. grandis,
Boheman) đƣợc xác định là cis-substituted cyclobutane (73)[55]
Các Cyclopentan- Một vài chất mới đƣợc phân lập gần đây nhƣ: theveside
(74)[57] và các metyl este của nó từ những loài trúc đào, Thevetia peruviana
(Pers.) K. Schum, và C9 iridoid glucoseide galiridoside (75)[58] từ Galeopsis
16
tetrahit L. (labiatae). Một nguồn phong phú của các este glyco iridoid là loài cây
nữ lang.
Glycozit mới nhất là valerosidatum (76) đƣợc phân lập từ Valeriana wallichii
và V. officinalis. Mặc dù chúng không phải các monoterpen cyclopentan, các
glucozit morronoside (77) và kingoside (78) đƣợc phân lập từ quả Lonicera
morrowii, A. Gray, và loniceroside (79) và chất sweroside (80) đã đƣợc biết trƣớc
đây, đƣợc phân lập từ lá của những loài thực vật giống nhau cùng họ. Một bản tóm
tắt của loại glycozit này đã đƣợc sắp xếp bởi Bobbitt và Segebarth.[64]
17
Chúng ta cũng đƣợc biết rằng 7-deoxyloganic axit (81) là một tiền chất của
nhiều iridoglucoside.[65] Kinh nghiệm thu đƣợc từ nghiên cứu các loài thực vật
Gardinia jasminoides và Paederia scandens đã cho thấy rằng các axit cùng tác
dụng trong phản ứng irridoglucoside của các cây này.
Gần đây các Iridoglucoside phân lập từ cây Gardinia jasminoides là các
gardenoside (82) và geniposide (83), trong khi đó, từ quả thì phân lập ra
genipingentiobioside. Gần đây, lƣợng nhỏ của deacetylasperulosidic metyl este
(85), cũng nhƣ iridoglucoside shanzhiside (86), cũng đƣợc tìm thấy trong cây
này[69]
Thành tựu tổng hợp của năm trong lĩnh vực này chính là sự tổng hợp
loganin penta-axetat (95) thực hiện bởi Büchi et al. Sử dụng phƣơng pháp mở rộng
của de Mayo cho tổng hợp các δ-dixeton bằng quang hóa phản ứng cộng vòng của
18
enol hóa β-dixeton thành các olefin. Nhóm của Büchi đã xây dựng đƣợc phần 2
vòng trong phản ứng quang hóa đơn. Từ nguyên liệu đầu là este axit 2-
formylmalonaldehit metyl (87), theo 2 bƣớc từ xeton và trimetyl ở dạng orto, và 3-
cyclopentenyl tetrahydropyranyl ete (88). Bức xạ đƣợc dùng sản phẩm dầu thô với
Amberlite Ỉ-120 trao đổi nhựa cation nhận đƣợc một hỗn hợp lỏng của hydroxy
acetan (89). Sự oxi hóa giúp chúng ta phân lập đƣợc xeton (90) mong muốn là sản
phẩm chính của quá trình kết tinh.
19
May mắn là sự hình thành của dẫn xuất butylthiometylen (91) xảy ra chính
tren cạnh nhóm cacbonyl nơi đƣa vào nhóm metyl. Niken Raney khử lƣu huỳnh
dẫn đến sai ở metyl epim hóa (92), nhƣng chất này có thể đồng phân hóa dựa trê
chất mong muốn (93). Borohydrie giảm đi, axetyl hóa và glocozit hóa hình thành
loganin penta-axetat (95). [70]
20
Cavill đã tóm tắt những tài liệu trƣớc đó về các iridoid đơn giản hơn. Từ
chrysope- loài cây thú vị Actinidia polygama một vài ete đã đƣợc tạo ra, một vài
trong số chúng đƣợc tổng hợp từ 2 nhóm. Sự tổng hợp của matatabiether tuân theo
phƣơng pháp thực nghiệm đã đƣợc dùng trong cả 2 phòng thí nghiệm, nhƣng
nhóm của Wolinsky đã mô tả chi tiết hơn quá trình tổng hợp của các hợp chất khác
đƣợc đƣa ra trong hình, đặc biệt là neonepentalacton (96) và các ete (97) và (98)
cũng tự nhiên xuất hiện.
p-Menthanes (i) Hydrocarbons . Các biến thể của p-menthadienes với axit
hoặc bazơ theo điều kiện khác nhau, đã đƣợc biết đến từ nhiều năm, nhƣng theo
21
những thông tin gần đây , cùng với góp nhặt từ các tài liệu tham khảo , đƣợc tìm
thấy trong một bài báo của Bates [ 75] và cộng sự cũng thảo luận về các điều kiện
cần thiết để tránh thơm hóa quá mức tới p-cymene (103) . Những bất ổn định của
chuỗi phía isopropenyl so với chuỗi bão hòa phía isopropyl đã liên tục đƣợc phản
ánh trong số lƣợng các phản ứng phụ tăng thêm , đặc biệt sự mất cân đối ảnh
hƣởng , có thể xảy ra khi các chất dẫn xuất menthadiene đƣợc chế biến với các
chất phản ứng có tính axit . Một trong những ví dụ mới nhất là mô tả của
Kergomard et al và cộng sự về một sự giải thích về động học của sự axeto hóa của
carveyl ete. Khi trans-p- menth-1(7)-en-2-y1ethyl ether (99) đƣợc xử lý bằng vết
của axit percloric trong axit axetic, sản phẩm chính dự kiến là phellandryl acetate
(chảy) , nhƣng trans-p-mentha-1(7),8-dien-2-1ethyl ether (101) dƣới cùng điều
kiện đã thu đƣợc 40% carvenone (102) và 30% p-cymene (103) , 1 dấu vết của
inter- mediate mentha-1(7),4(8)-dien-2-~1ethyl ether (104) cũng đã đƣợc nhận
dạng [76]
22
Từ mentha-1,3,8-triene(107) đƣợc phân lập từ rau mùi tây, và nghi ngờ
một phần trách nhiệm về mùi của nhà máy, nó đã đƣợc tổng hợp trong hai phòng
thí nghiệm nhƣng trong thực tế, có mùi, mặc dù gợi nhớ mùi tây,
Khả năng của vật liệu tự nhiên [79] . một vấn đề làm sạch bắt nguồn từ thực tế
là khi hình thành do nhiệt phân của acetat (105) hoặc (106) luôn cho trine (107 )
trộn với các đồng phần (108 ) và (109) (Các phƣơng pháp đƣợc sử dụng bởi Birch
và Subba Rao dẫn đến một hỗn hợp tƣơng tự ) hỗn hợp này yêu cầu sắc kí trên 2
cột khác nhau để có đƣợc chất tinh khiết . Mentha-1,5,8-triene (110) đƣợc mô tả
lần thứ ba Hai ấn phẩm trƣớc đó đã không có đủ n.r.m hỗ trợ cho cấu trúc
23
Sự oxi hóa của limonene (111) bởi selen dioxit đƣợc nghiên cứu trong 3 thí
nghiệm , sử dụng dung môi hydroxy , sản phẩm chủ yếu là mentha- 1,8- dien-4-ol
(112).[79,83,84] Có thể chấp nhận với kết quả khi oxi hóa carvone (117) từ selen
dioxit , cũng cho ra sản phẩm chính là hợp chất 4- hydroxy( 118) , với sự mất đi
của đối xứng quang học ( đối xứng bàn tay ) ở C4 [88], cơ chế làm phát sinh các
chất đối quang thứ yếu trans-cameol (113) và mentha-1,8dien-10-ol đã đƣợc xác
định xảy ra theo các của một este selenite allylic. Các phản ứng rất phụ thuộc vào
dung môi , nếu thực hiện trong anhydrite axetic , nhƣ trong ví dụ này , sản phẩm
24
chính là menthe – 1,8 –dien-10-yl acetate (119).[79,89] nó cũng xuất hiện trong tự
nhiên ở trong dầu vỏ của citrus unshu , cam Valencia và citrus junos [86]
Các sản phẩm của quá trình oxi hoa peracid cũng đã đƣợc kiểm định lại .
Wilde và Teulon đa chỉ ra cách tốt nhất điều chế cis hoặc tran- limonene – 1,2 –
epoxides , một hỗn hợp của chúng đã thu đƣợc bằng cách trực tiếp oxi hóa peracid
trong dung môi clo hidrocacbon , cho hỗn hợp tác dụng với hidro clo trong ete ,
khi đó hai diaxal chlorohydrins (122) và (123) đƣợc tạo thành mà không có đồng
phân quang học .Ở đây , 2 đồng phân (122) chuyển thành một p-nitrobenzoate,
tạo điều kiện để chƣng cất (123) , cho Nitrobenzoate của (122) tác dụng với
methanolic potassium hydroxide dẫn tới cis – epoxide (120) , làm tƣơng tự với
(123) sẽ thu đƣợc trans – epoxides (121)[ 91] . Những limonene epoxides hữu
dụng khác là (124) và (125) có thể tạo ra trực tiếp từ limonene bởi 1 phản ứng của
hidrocacbon với hidro peroxides trong sự có mặt của benzonitril , [92] . Quá trình
đầu tiên đƣợc thực hiên bởi Payne .[ 93] Mặc dù năng suất nhỏ , sản phẩm tạo ra
có lẫn benzonitril và 1,2-epoxides , trên thực tế nó vẫn là phƣơng pháp tổng hợp
25
một bƣớc đƣa ra sản phẩm có thể dễ dàng tách đƣợc bằng cách chƣng cất làm cho
nó trở thành con đƣờng hữu ích để oxi hóa menthanes trong nhóm isopropyl .
Phản ứng của limonene -1,2-epoxides , hoặc tinh khiết[ 91] hoặc nhƣ một
hỗn hợp [94] ,với bases nhƣ aluminum alkoxides [95] , cho rƣợu allylic đã đƣợc
kiểm chứng , và phản ứng tƣơng tự với propyl – liti của 1,2-epoxy-trans-p-
menthane và menthane-2,3-epoxide (126), tạo ra (127) và (128) cũng đã đƣợc thảo
luận .
Sự oxi hóa allylic của hệ thống menthadiene vẫn đƣợc quan tâm , bởi vì tính
hữu dụng về mặt kinh tế để có đƣợc một phƣơng pháp thực sự rẻ để có đƣợc
carvone từ limonene. Một trong những phƣơng pháp hiệu quả hơn đƣợc mô tả gần
đây sử dụng phức crom trioxit-pyridine trong methylene chloride.
Một quá trình oxi hóa allylic khác đƣợc báo cáo trong loạt bài này sử dụng
xúc tác tristriphenylphosphinechlororhodium tạo ra carvotanacetone (1 33) và
piperitone (134) mà không có đối xứng bàn tay , có lẽ là thông qua đối xứng
không gian (132) . [100]