Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

phân tích cơ cấu nguồn vốn và thực trạng đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty cổ phần điện nước lắp máy hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.02 MB, 103 trang )

Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Một doanh nghiệp dù hoạt động trong lĩnh vực nào thì điều kiện tiên
quyết, có ý nghĩa quyết định các bước tiếp theo của quá trình sản xuất là phải
có vốn. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường thì vốn nói riêng và tài chính
nói chung là vũ khí cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp. Vì vậy,
trước hết các doanh nghiệp cần phải đảm bảo được vốn cho hoạt động của
mình.
Mặt khác, theo đà phát triển của nền kinh tế chung, các quan hệ tài chính
ngày càng được mở rộng và đa dạng. Việc khai thác và tạo lập nguồn vốn đáp
ứng cho nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh là khâu đầu tiên trong quản
trị vốn của doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể tạo thế vững chắc trong nền
kinh tế thị trường.
Các doanh nghiệp có thể khai thác nguồn vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác
nhau như từ ngân sách Nhà nước tài trợ, từ nguồn vốn liên doanh liên kết, từ
lợi nhuận để lại tái đầu tư, từ vốn vay ngân hàng, Mỗi nguồn vốn trên có ưu
điểm, nhược điểm riêng và điều kiện thực hiện khác nhau, chi phí sử dụng
khác nhau. Vì vậy trong khai thác và tạo lập các nguồn vốn các doanh nghiệp
vừa phải chú ý đa dạng hóa các nguồn tài trợ, cân nhắc kỹ ưu nhược điểm
từng nguồn vốn để lựa chọn cơ cấu các nguồn tài trợ hợp lý và có lợi nhất cho
doanh nghiệp. Những định hướng cơ bản cho việc khai thác, tạo lập là phải
đảm bảo khả năng tự chủ của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, hạn
chế và phân tán rủi ro, phát huy tối đa những ưu điểm của các nguồn vốn
được huy động.
Công ty Cổ phần Điện nước lắp máy Hải phòng thành lập trong xu hướng
phát triển chung của toàn xã hội. Cổ phần hóa trong công ty làm cho việc huy
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
1
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
động, giám sát, sử dụng nguồn vốn của các tổ chức cá nhân trong và ngoài


nước phục vụ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ có hiệu quả cao. Để
đạt được những yêu cầu đặt ra công ty phải có biện pháp tích cực để đảm bảo
vốn cho hoạt động kinh doanh được diễn ra thường xuyên, liên tục cũng như
có một cơ cấu nguồn vốn hợp lý sẽ giúp công ty nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh tạo điều kiện cho tình hình tài chính của công ty luôn ở trạng thái
ổn định và lành mạnh giúp cho doanh nghiệp có thể đạt được mục tiêu tối đa
hóa giá trị của các chủ sở hữu.
Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này em xin chọn : “Phân tích cơ cấu
nguồn vốn và thực trạng đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
tại Công ty Cổ phần Điện nước lắp máy Hải phòng” làm nội dung nghiên
cứu của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Tại Công ty Cổ phần Điện nước lắp máy Hải phòng
- Về thời gian: Trong khoảng thời gian từ năm 2008 – 2010
-
3. Đối tượng nghiên cứu:
Cơ cấu nguồn hình thành vốn và tình hình đảm bảo vốn của Công ty Cổ
phần Điện nước lắp máy Hải phòng.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận sử dụng tổng hợp các cách tiếp cận hệ thống, phương pháp
thống kê, so sánh, cùng với việc phân tích tổng hợp, đối chiếu, kết hợp với số
liệu thực tế để nghiên cứu.
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
2
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
5. Kết cấu của đề tài:
Khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận về cơ cấu nguồn vốn và vấn đề đảm bảo vốn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Chương 2: Thực trạng cơ cấu nguồn vốn và tình hình đảm bảo vốn cho

hoạt động kinh doanh tại Công ty Cổ phần Điện nước lắp máy
Hải phòng
Chương 3: Một số biện pháp nhằm đảm bảo vốn cho hoạt động kinh
doanh tại Công ty Cổ phần Điện nước lắp máy Hải phòng.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn NGƯT.TS. Đào
Hiệp và các cô, chú trong phòng Tài chính - Kế toán Công ty Cổ phần Điện
nước lắp máy Hải phòng đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn
thành báo cáo này.
Do sự hạn chế về mặt số liệu, thời gian cũng như trình độ nhận thức
nên báo cáo của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự
góp ý của thầy cô và tập thể cán bộ trong Công ty để luận văn của em thêm
phần phong phú và hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hải Phòng, ngày 31 tháng 05 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Trương Thị Liên
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
3
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN VỀ CƠ CẤU NGUỒN VỐN
VÀ VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO VỐN CHO HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT KINH DOANH
1.1. Những vấn đề chung về phân tích cơ cấu nguồn vốn
1.1.1. Nguồn vốn của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm nguồn vốn
Vốn đóng vai trò hết sức quan trọng trong mỗi doanh nghiệp. Nó là cơ
sở, là tiền đề cho một doanh nghiệp bắt đầu khởi sự kinh doanh. Muốn đăng
ký kinh doanh, theo quy định của nhà nước, bất cứ doanh nghiệp nào cũng
phải có đủ số vốn pháp định theo từng ngành nghề kinh doanh của mình (vốn
ở đây không chỉ gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, mà nó còn là các tài sản

thuộc sở hữu của các chủ doanh nghiệp). tất cả những điều kiện cần có để một
doanh nghiệp có thể tiến hành và duy trì những hoạt động cuả mình nhằm đạt
được những mục tiêu đã đặt ra.
Không chỉ có vậy, trong quá trình hoạt độnRồi để tiến hành sản xuất
kinh doanh, doanh nghiệp phải thuê nhà xưởng, mua máy móc thiết bị, công
nghệ, nguyên vật liệu, thuê lao động g kinh doanh của doanh nghiệp, vốn là
điều kiện để doanh nghiệp mở rộng sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu,
đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cao chất lượng
sản phẩm, tăng việc làm, tăng thu nhập cho người lao động cũng như tổ
chức bộ máy quản lý đầy đủ các chức năng. Từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường.
Trong cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta, thiếu vốn để phát triển sản
xuất kinh doanh đang là vấn đề bức xúc của các doanh nghiệp. Không chỉ ở
cấp vi mô, nhà nước ta đang rất thiếu các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
4
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
kinh tế. Tiến tới hội nhập kinh tế, xoá bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước
trong khu vực Đông Nam á là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp
trong nước trước sự vượt trội về vốn, công nghệ của các nước khác trong khu
vực. Điều đó càng đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm cách huy
động và sử dụng vốn sao cho tiết kiệm và có hiệu quả nhất.
Vì vậy, để tiến hành sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Lượng vốn đó được biểu hiện
dưới dạng vật chất hay phi vật chất và được đo bằng tiền gọi là tài sản.
Mặt khác, vốn của doanh nghiệp lại được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau gọi là nguồn vốn. Như vậy, nguồn vốn là nguồn hình thành lên tài
sản của doanh nghiệp. Hay chính là phần tích lũy được biểu hiện dưới dạng
hóa trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu của xã hội. Doanh

nghiệp có thể huy động vốn cho nhu cầu kinh doanh từ nhiều nguồn khác
nhau. Và nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với
tài sản đang quản lý và sử dụng ở doanh nghiệp. Tuỳ theo loại hình doanh
nghiệp và đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức
huy động vốn phù hợp nhất cho doanh nghiệp của mình. Chẳng hạn, nguồn
vốn từ ngân sách Nhà nước, vốn tự có (vốn do chủ đầu tư bỏ ra), vốn bổ sung
từ kết quả kinh doanh, vốn do liên doanh, liên kết; hay vố đi vay, đi chiếm
dụng , trong đó, có thể quy về hai nguồn chính là Vốn chủ sở hữu và Nợ
phải trả.
1.1.1.2. Nội dung về nguồn vốn
1.1.1.2.1.Vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là số vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư
đóng góp ban đầu và bổ sung thêm trong quá trình kinh doanh (vốn đầu tư của
chủ sở hữu). Vốn chủ sở hữu thể hiện quyền sở hữu của người chủ về các tài
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
5
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
sản của doanh nghiệp. Các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì có nguồn
vốn chủ sở hữu khác nhau:
- Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước là nguồn vốn do ngân sách nhà
nước cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước lúc mới hình thành doanh nghiệp.
Đây là nguồn vốn được hình thành từ quỹ tích luỹ của ngân sách nhà nước và
được dùng vào mục đích chi phát triển kinh tế.
Hiện nay, nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp phát cho các doanh
nghiệp Nhà nước có xu hướng giảm đáng kể cả về tỷ trọng và số lượng. Các
doanh nghiệp Nhà nước phải chủ động bổ sung vốn bằng các nguồn tài trợ
khác.
- Nguồn vốn tự có: là nguồn vốn do chủ đầu tư bỏ ra. Nguồn gốc của
vốn tự có là tiền để dành, tích luỹ được từ lợi nhuận hàng năm của doanh
nghiệp hoặc huy động vốn cổ phần do phát hành cổ phiếu.

Nguồn vốn tự có được hình thành đối với doanh nghiệp mới bắt đầu đi
vào hoạt động sản xuất kinh doanh:
 Nếu là doanh nghiệp Nhà nước vốn tự có là vốn điều lệ ngân sách cấp.
 Nếu là doanh nghiệp tư nhân vốn tự có là vốn do chủ doanh nghiệp bỏ
ra để đấu tư.
 Nếu là Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn vốn tự có do các
cổ đông hay thành viên trong Công ty góp vốn.
- Vốn bổ sung từ kết quả kinh doanh gồm:
 Lợi nhuận chưa phân phối.
 Chênh lệch do đánh giá lại tài sản.
 Các quỹ doanh nghiệp
- Nguồn vốn liên doanh: là những nguồn đóng góp theo tỷ lệ giữa các
chủ đầu tư cùng kinh doanh và cùng hưởng lợi nhuận. Việc góp vốn liên
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
6
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
doanh có thể được hình thành từ nhiều nguồn tuỳ theo từng loại hình doanh
nghiệp, ví dụ:
 Liên doanh giữa nguồn vốn ngân sách và các nguồn vốn tự có của tư
nhân.
 Liên doanh giữa tư nhân với nhau
Vốn chủ sở hữu không phải là các khoản nợ nên doanh nghiệp không
phải ca kết thanh toán. Nguồn vốn chủ sở hữu phản ánh sức mạnh về vốn về
tài chính và sức mạnh chung của doanh nghiệp.
1.1.1.2.2.Nợ phải trả
Nguồn vốn nợ phải trả là nguồn vốn mà doanh nghiệp khai thác, huy
động từ các chủ thể khác qua vay nợ, thuê mua, ứng trước tiền hàng Doanh
nghiệp được quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian sau đó phải hoàn trả
cho chủ nợ. Trong điều kiện kinh tế thị trường nguồn vốn vay đóng một vai
trò rất quan trọng trong doanh nghiệp gồm:

- Nguồn vốn tín dụng: là khoản vốn mà doanh nghiệp có thể vay dài
hạn của các ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm hoặc
các tổ chức tài chính trung gian khác; huy động của cán bộ công nhân viên
làm việc trong doanh nghiệp; vay nước ngoài theo cơ chế tự vay, tự trả hoặc
bằng hình thức doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn cho đầu tư
kinh doanh.
- Vốn chiếm dụng của nhà cung cấp: Đây cũng là một nguồn vốn tương
đối quan trọng trong doanh nghiệp. Nguồn vốn này xuất phát từ việc doanh
nghiệp chiếm dụng tiền hàng của nhà cung cấp (trả chậm), việc chiếm dụng
này có thể phải trả phí (lãi) hoặc không phải trả phí nhưng lại đáp ứng được
việc doanh nghiệp có nguyên vật liệu, điện, nước, để sản xuất kinh doanh
mà chỉ phải bỏ ra ngay lập tức một số tiền ít hơn số tiền đáng lẽ phải bỏ ra
ngay lập tức để có được số nguyên vật liệu, điên, máy móc, để tiến hành sản
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
7
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
xuất. Như vậy, doanh nghiệp có thể sử dụng quỹ tiền mặt của mình cho mục
đích khác. Tuy nhiên, sử dụng nguồn vốn này cần lưu ý: không nên chiếm
dụng quá nhiều hoặc quá lâu một khoản nợ nào đó vì nó sẽ ảnh hưởng đến uy
tín của doanh nghiệp với đối tác, với thị trường hoặc kiện tụng pháp luật, tốt
nhất nên có sự thoả thuận về việc chiếm dụng vốn.
Thuộc nợ phải trả cũng bao gồm nhiều loại khác nhau, được phân thành
nhiều cách khác nhau; trong đó, phân theo thời hạn thanh toán được áp dụng
phổ biến. Theo cách này toàn bộ nợ phải trả của doanh nghiệp được chia
thành nợ phải trả ngắn hạn (là các khoản nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm
phải thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh) và nợ phải
trả dài hạn (là các khoản nợ mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán
ngoài một năm hay một chu kỳ kinh doanh).
Trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, doanh
nghiệp càng cần phải mở rộng và phát triển để nâng cao vị trí của mình trên

thị trường và nguồn vốn từ bên ngoài càng có ý nghĩa hơn. Điều này chứng tỏ
doanh nghiệp có kinh nghiệm, nghệ thuật trong kinh doanh, biết tận dụng các
cơ hội để phát triển hoạt động kin doanh của mình.
1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn
Cấu trúc tài chính của một doanh nghiệp được xem xét trên nhiều góc độ
khác nhau. Cấu trúc tài chính phản ánh cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn tài trợ
tài sản (nguồn vốn) của doanh nghiệp. Trong đó, cơ cấu tài sản phản ánh tình
hình sử dụng vốn, còn cơ cấu nguồn vốn phản ánh tình hình huy động vốn.
Chính sách huy động, sử dụng vốn của một doanh nghiệp, một mặt phản ánh
nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh, mặt khác quan trọng hơn là chính
sách này có quan hệ trực tiếp đến an ninh tài chính, đến hiệu quả sử dụng vốn
cuả doanh nghiệp. Từ đó tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh cũng như
rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp.
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
8
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
Như vậy, thành phần và tỷ trọng từng nguồn vốn so với tổng nguồn vốn
tại một thời điểm gọi là cơ cấu nguồn vốn. Cơ cấu nguồn vốn của doanh
nghiệp thường biến động trong các chu kỳ kinh doanh và có thể ảnh hưởng
tích cực hoặc tiêu cực đến lợi ích của chủ sở hữu. Vì vậy việc xem xét lựa
chọn, điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn tối ưu là một trong những quyết định tài
chính quan trọng của chủ doanh nghiệp.
Thông qua tỷ trọng của từng nguồn vốn không những đánh giá được
chính sách tài chính của doanh nghiệp, mức độ mạo hiểm tài chính thông qua
chính sách đó mà còn cho phép thấy được khả năng tự chủ hay phụ thuộc về
tài chính của doanh nghiệp. Nếu tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu càng nhỏ
chứng tỏ sự độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng thấp và ngược
lại.
Mỗi loại nguồn vốn của doanh nghiệp lại bao gồm nhiều bộ phận khác
nhau, những bộ phận đó có ảnh hưởng không giống nhau đến mức độ độc lập

hay phụ thuộc của doanh nghiệp đối với từng nguồn vốn ấy cũng không giống
nhau. Một cơ cấu nguồn vốn hợp lý phản ánh sự kết hợp hài hòa giữa nợ phải
trả với vốn chủ sở hữu trong điều kiện nhất định.
1.1.3. Ý nghĩa và phương pháp phân tích cơ cấu nguồn vốn
1.1.3.1. Ý nghĩa của việc phân tích cơ cấu ngồn vốn
Phân tích cơ cấu nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh
nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp có trách nhiệm xác định số vốn cần huy động,
nguồn huy động, thời gian huy động, chi phí huy động, sao cho vừa đảm
bảo đáp ứng nhu cầu về vốncho kinh doanh, vừa tiết kiệm chi phí huy động,
tiết kiệm chi phí sử dụng vốn và bảo đảm an ninh tài chính cho doanh nghiệp.
Việc tổ chức huy động vốn trong kỳ của doanh nghiệp như thế nào, có
đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hay không được phản ánh thông qua sự
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
9
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
biến động của nguồn vốn và chính sự khác nhau giữa các loại nguồn vốn cũng
sẽ làm cơ cấu nguồn vốn thay đổi.
Vì thế, qua phân tích cơ cấu ngồn vốn, các nhà quản lý nắm được cơ cấu
vốn huy động, biết được trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các nhà cho
vay, nhà cung cấp, người lao động, ngân sách, về số tài sản tài trợ bằng
nguồn vốn của họ. Cũng qua phân tích cơ cấu nguồn vốn, các nhà quản lý có
thể khái quát đánh giá khả năng tự tài trợ về mặt tài chính doanh nghiệp, xác
định mức độ độc lập tự chủ về tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh
hoặc những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong khai thác nguồn vốn
cũng như xu hướng biến động của cơ cấu nguồn vốn huy động. Phân tích cơ
cấu nguồn vốn nhằm mục tiêu:
- Cung cấp đầy đủ, kịp thời, trung thực những thông tin hữu ích, cần
thiết phục vụ cho chủ doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác như: Các
nhà đầu tư, hội đồng quản trị doanh nghiệp, người cho vay, các cơ quan quản
lý cấp trên và những người sử dụng thông tin tài chính khác trong việc đánh

giá khả năng và tính chắc của các đồng tiền vào, ra và tình hình sử dụng vốn
kinh doanh, tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp giúp họ có
quyết định đúng đắn khi ra quyết định đầu tư, quyết định cho vay.
- Cung cấp những thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết
quả của quá trình, sự kiện, các tình huống làm biến đổi các nguồn vốn và các
khoản nợ của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Phương pháp phân tích cơ cấu nguồn vốn
Để phân tích cơ cấu nguồn vốn, cần sử dụng phương pháp so sánh.
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong
phân tích để xác định xu hướng, biến động của chỉ tiêu phân tích. So sánh
trong phân tích là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng
hoá có cùng một nội dung, tính chất tương tự để xác định xu hướng biến động
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
10
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
chung của các chỉ tiêu phân tích từ đó kết hợp với các phương pháp khác xác
định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Từ đó giúp ta
có thể đánh giá được một cách khách quan tình hình chung của doanh nghiệp,
những mặt phát triển hay những mặt còn hạn chế, hiệu quả hay kém hiệu quả
để đưa ra cách giải quyết và các biện pháp nhằm khắc phục.
 Tiêu chuẩn để so sánh
- Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu của một kỳ được lựa chọn làm gốc so sánh
và được xác định tuỳ thuộc vào mục đích phân tích.
- Khi tiến hành phân tích cần có từ 2 đại lượng trở lên và các đại lượng
phải cùng phương pháp tính và đơn vị tính.
 Điều kiện so sánh
- So sánh theo thời gian đó là sự thống nhất về nội dung kinh tế, thống
nhất về phương pháp tính toán, thống nhất về thời gian và đơn vị đo lường.
- So sánh theo không gian tức là so sánh giữa các số liệu trong ngành nhất
định, các chỉ tiêu cần phải được quy đổi về cùng quy mô và điều kiện kinh

doanh tương tự nhau.
 Kỹ thuật so sánh
Để đáp ứng các mục tiêu sử dụng của những chỉ tiêu so sánh, quá trình so
sánh giữa các chỉ tiêu được thể hiện dưới 3 kỹ thuật so sánh sau đây
- So sánh tuyệt đối: là kết qủa của phép trừ giữa trị số của kỳ phân tích với
trị số của kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế. Kết quả so sánh phản ánh sự biến
động về quy mô hoặc khối lượng của chỉ tiêu phân tích.
- So sánh tương đối: Là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ phân tích
với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế. Kết quả so sánh phản ánh kết cấu, mối
quan hệ giữa tốc độ phát triển và mức độ phổ biến của chỉ tiêu nghiên cứu.
- So sánh theo chiều ngang: so sánh tất cả các chỉ tiêu trên bảng cân đối kế
toán cuối kỳ so với đầu năm hay thấy được sự biến động cả về số tuyệt đối và số
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
11
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
tương đối. Tuy nhiên so sánh theo chiều ngang cần chú ý trong điều kiện xảy ra
lạm phát, kết quả tính được chỉ có ý nghĩa khi chúng ta đã loại trừ ảnh hưởng
của biến động giá
- So sánh theo chiều dọc: so sánh từng chỉ tiêu bên phần tài sản so với tổng
tài sản, từng chỉ tiêu phần nguồn vốn so với tổng nguồn vốn. Nói cách khác
phân tích theo chiều dọc chính là xác định tỷ trọng của từng chỉ tiêu bên phần
tài sản cũng như bên phần nguồn vốn cuối kỳ, đầu năm và so sánh tỷ trọng
của từng chỉ tiêu đó.
 Nội dung so sánh
Từ kỹ thuật so sánh cho thấy sự biến động về mặt quy mô hoặc khối
lượng của chỉ tiêu được phân tích, mối quan hệ tỷ lệ, kết cấu của từng chỉ tiêu
trong tổng thể hoặc biến động về mặt tốc độ của chỉ tiêu đang xem xét giữa các
thời gian khác nhau.
- So sánh số thực hiện trong kỳ này với số thực hiện trong kỳ trước để thấy
rõ xu hướng thay đổi về vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng

trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để đánh giá kết quả thực hiện
các mục tiêu đề ra, thấy được mức độ phấn đấu của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình ngành để
đánh giá được tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp so với mặt bằng
chung.
1.1.4. Nội dung phân tích cơ cấu nguồn vốn
1.1.4.1. Phân tích sự biến động của các chỉ tiêu nợ phải trả
Xem xét từng khoản mục nợ phải trả trong tổng số nợ phải trả để thấy
được sự biến động tuỵệt đối cũng như tương đối của tổng nợ phải trả cũng
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
12
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
như từng loại nợ phải trả theo thời gian. Từ đó thấy được sự ảnh hưởng của
các nhân tố bộ phận tới đến sự biến động của các chỉ tiêu Nợ phải trả.
Cần tính và so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về
tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn. Tỷ
trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn được xác
định như sau:
Việc xem xét tình hình biến động chỉ tiêu nợ phải trả qua bảng phân tích
sau:
Bảng 1.1: Phân tích sự biến động của các chỉ tiêu nợ phải trả
Chỉ tiêu
Năm n Năm n + 1 Chênh lệch
Số tiển
(đồng)
Tỷ trọng
(%)
Số tiển
(đồng)

Tỷ
trọng
(%)
Số tiển
(đồng)
Tỷ lệ
(%)
Tỷ
trọng
(%)
I. Nợ phải trả
1. Nợ ngắn hạn
2. Nợ dài hạn
3. Nợ khác
Tổng nguồn vốn
1.1.4.2. Phân tích sự biến động của các chỉ tiêu vốn chủ sở hữu
Xem xét từng khoản mục vốn chủ sở hữu trong tổng vốn chủ sở hữu để
thấy được sự biến động tuyệt đối cũng như tương đối của tổng vốn chủ sở hữu
cũng như từng loại vốn chủ sở hữu theo thời gian. Từ đó thấy được sự ảnh
hưởng của các nhân tố bộ phận tới đến sự biến động của các chỉ tiêu Vốn chủ
sở hữu.
Cần tính và so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về
tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn. Tỷ
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
13
=
Giá trị của từng bộ phận
nợ phải trả
100%x
Tổng số nợ phải trả

Tỷ trọng của từng bộ phận
nợ phải trả chiếm trong tổng
số nợ phải trả
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn được xác
định như sau:
Việc xem xét tình hình biến động của các chỉ tiêu vốn chủ sở hữu thể
hiện qua bảng phân tích sau:
Bảng 1.2: Phân tích sự biến động của các chỉ tiêu vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu
Năm n Năm n + 1 Chênh lệch
Số tiển
(đồng)
Tỷ
trọng
(%)
Số tiển
(đồng)
Tỷ
trọng
(%)
Số tiển
(đồng)
Tỷ
lệ
(%)
Tỷ
trọng
(%)
II.Nguồn vốn CSH

1. Vốn chủ sở hữu
2. Nguồn kinh phí và
qũy khác
Tổng nguồn vốn
1.1.4.3. Phân tích và so sánh sự biến động của nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
- Việc xem xét tình hình biến động về tỷ trọng của từng bộ phận nguồn
vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc mặc dù
không cho phép các nhà quản lý đánh giá được cơ cấu vốn huy động nhưng
lại không cho biết các nhân tố tác động đến sự thay đổi cơ cấu nguồn vốn mà
doanh nghiệp huy động. Vì vậy, để biết chính xác tình hình huy động vốn
nắm được các nhân tố sảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến
sự biến động về cơ cấu nguồn vốn, cần kết hợp cả việc phân tích ngang, (tức
là so sánh sự biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc cả về số tuyệt đối và
tương đối) trên tổng số nguồn vốn cũng như từng loại nguồn vốn. Nếu nguồn
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
14
=
Giá trị của từng bộ phận
vốn chủ sở hữu
100%x
Tổng vốn chủ sở hữu
Tỷ trọng của từng bộ phận
vốn chủ sở hữu chiếm
trong tổng số vốn chủ sở
hữu
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao trong tổng số nguồn vốn thì doanh nghiệp
có đủ khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập của doanh
nghiệp đối với các chủ nợ là cao. Ngược lại nếu công nợ phải trả chiếm chủ
yếu trong tổng số nguồn vốn (cả về số tuyệt đối và tương đối) thì khả năng

bảo đảm về mặt tài chính của doanh nghiệp sẽ thấp.
- Bên cạnh việc so sánh biến động trên tổng số nguồn vốn cũng như từng
loại nguồn vốn (Nợ phải trả, Vốn chủ sở hữu) giữa kỳ phân tích so với kỳ
gốc, các nhà phân tích còn phải xem xét tỷ trọng từng loại nguồn vốn chiếm
trong tổng số và xu hướng biến động của chúng theo thời gian để thấy được
mức độ hợp lý và an ninh tài chính của doanh nghiệp trong việc huy động
vốn.
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
15
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
Bảng 1.3: Phân tích sự biến động của nợ phải trả so với vốn chủ sở
hữu
Chỉ tiêu
Năm n Năm n + 1 Chênh lệch
Số tiển
(đồng)
Tỷ
trọng
(%)
Số tiển
(đồng)
Tỷ
trọng
(%)
Số tiển
(đồng)
Tỷ
lệ
(%)
Tỷ

trọng
(%)
A. Nợ phải trả
I. Nợ ngắn hạn
II. Nợ dài hạn
B. Nguồn vốn CSH
I. Vốn chủ sở hữu
II. Nguồn kinh phí và quỹ khác
Tổng nguồn vốn
- Sự biến động của nợ phải trả và vốn chủ sở hữu của năm phân tích so
với các năm liền kề trước là một chỉ tiêu để đánh giá khả năng tổ chức, huy
động vốn trong năm của doanh nghiệp. Tuy nhiên do nguồn vốn của doanh
nghiệp tăng giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau nên sự biến động của tổng
nguồn vốn chưa thể hiện đầy đủ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do đó,
cần phân tích hệ số nợ so với vốn chủ sở hữu và hệ số nợ so với tổng nguồn
vốn
Tỷ suất tài trợ được xác định bằng cách lấy tổng số nguồn vốn chủ sở
hữu chia cho tổng nguồn vốn.
Nợ phải trả
Hệ số nợ so với vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu


Nợ phải trả
Hệ số nợ so với tổng nguồn vốn =
Tổng nguồn vốn
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
16
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
Chỉ tiêu “ Hệ số nợ so với vốn chủ sở hữu” cho biết cơ cấu nguồn tài trợ

tài sản, cứ một đồng tài sản tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thì tương ứng với
mấy đồng tài trợ bằng nợ phải trả. Chỉ tiêu “Hệ số nợ so với tổng nguồn vốn”
cho biết trong một đồng vốn tài trợ tài sản của doanh nghiệp thì có mấy đồng
nợ phải trả.

Tỷ suất tự tài trợ ở doanh nghiệp phản ánh thực trạng tài chính của doanh
nghiệp: Vốn có đủ không? Ở mức độ nào? Khả năng độc lập về mặt tài chính
đến đâu? Chúng ta thấy có thể ở các mức độ sau:
+ Tỷ suất này từ 40% - 50% được coi là bình thường chấp nhận. Đây là ức
phổ biến ở Việt Nam.
+ Tỷ suất này từ 50% - 80% có thể thấy doanh nghiệp đủ vốn, mức độ chủ
động về tài chính càng cao khi tỷ suất này càng cao.
+ Tỷ suất này từ 40% - 10% thì doanh nghiệp thiếu vốn, khả năng chủ động
về mặt tài chính càng thấp khi tỷ suất này càng nhỏ.
1.2. Nội dung đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp
1.2.1. Khái niệm phân tích tình hình đảm bảo vốn
Nhằm đáp ứng cho nhu cầu về tài sản cho hoạt động kinh doanh, doanh
nghiệp cần phải tập hợp các biện pháp tài chính cần thiết cho việ huy động
hình thành nguồn tài trợ tài sản (nguồn vốn). Nguồn tài trợ tài sản (nguồn
vốn) của doanh nghiệp được hình thành trước hết từ nguồn vốn của bản thân
chủ sỏ hữu (vốn đầu tư ban đầu của chủ sở hữu và bổ sung trong quá trình
kinh doanh, các quỹ doanh nghiệp có nguồn gốc từ lợi nhuận, ; sau nữa
nguồn vốn của doanh nghiệp hình thành từ vốn vay (vay ngắn hạn, dài hạn
trung hạn ở ngân hàng và vay các đôid tượng khác). Cuối cùng nguồn vốn
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
17
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
=Tỷ suất tự tài trợ

Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
dược hình thành do chiếm dụng trong quá trình thanh toán (nợ người cung
cấp, nợ người lao động, nợ Ngân sách Nhà nước, kể cả số chiếm dụng bất
hợp pháp).
Do vậy, phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh
chính là việc xem xét mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn hình
thành tài sản của doanh nghiệp.
1.2.2. Ý nghĩa phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh
doanh.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có tài sản,
bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Việc đảm bảo đầy đủ nhu cầu về
tài sản là một vấn đề cốt yếu để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến
hành liên tục và có hiệu quả. Từ đó giúp cho chủ sở hữu đạt được mục tiêu
của mình là tối đa hóa giá trị tài sản cho chủ sở hữu.
1.2.3. Các quan điểm về phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động
kinh doanh
Do phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh chính là
việc xem xét mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn hình thành tài sản
của doanh nghiệp. Mối quan hệ này phản ánh cân bằng tài chính của doanh
nghiệp. Vì thế, khi phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh
doanh, các nhà phân tích thường xem xét tình hình đảm bảo vốn theo 2 quan
điểm:
- Tình hình đảm bảo vốn theo quan điểm luân chuyển vốn
- Tình hình đảm bảo vốn theo mối quan hệ Tài sản - Nguồn vốn
1.2.4. Nội dung phân tích
1.2.4.1. Phân tích tình hình đảm bảo vốn theo quan điểm luân chuyển
vốn
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
18
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp

Theo quan điểm này, toàn bộ tài sản (nguồn vốn) của doanh nghiệp được
chia thành nguồn vốn ngắn hạn (nguồn vốn thường xuyên) và nguồn vốn dài
hạn. Nguồn vốn tài trợ thường xuyên là nguồn tài trợ mà doanh nghiệp sử
dụng thường xuyên, ổn định và lâu dài vào hoạt động kinh doanh. Thuộc
nguồn tài trợ thường xuyên trong doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu và vốn
vay, vốn thanh toán trung hạn và dài hạn (trừ vay – nợ quá hạn). Nguồn tài trợ
tạm thời là nguồn tài trợ mà doanh nghiệp tạm thời sử dụng vào hoạt động
kinh doanh trong thời gian ngắn. Thuộc nguồn tài trợ tạm thời bao gồm các
khoản vay ngắn hạn nợ ngắn hạn, các khoản vay – nợ quá hạn (kể cả vay – nợ
dài hạn quá hạn), các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người bán, người
mua, người lao động,
Dưới góc độ này, cân bằng tài chính được thể hiện qua đẳng thức:
Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn = Nguồn vốn ngắn hạn + Nguồn
vốn dài hạn
Trong quan điểm này, có thể thấy được là Tài sản dài hạn của doanh
nghiệp nên được đầu tư bằng nguồn vốn dài hạn.
+) Nếu nguồn vốn dài hạn < Tài sản dài hạn. Trong trường hợp này,
Nguồn vốn dài hạn không đủ để tài trợ cho Tài sản dài hạn nê phần thiếu hụt
doanh nghiệp phải sử dụng một phần nợ ngắn hạn để bù đắp. Do vậy, cân
bằng tài chính xảy ra trong trường hợp này đặt doanh nghiệp vào tình trạng
chịu áp lực nặng nề về thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán mất cân
bằng (“cân bằng xấu”) dẫn tới tiềm ẩn rủi ro cao. Nếu doanh nghiệp không
đảo nợ thành công thì doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán trong ngắn hạn, nguy cơ phá sản luôn rình rập.
+) Nếu nguồn vốn dài hạn > Tài sản dài hạn. Trong trường hợp này,
Nguồn vốn dài hạn của doanh nghiệp không những được sử dụng để tài trợ
cho tài sản dài hạn mà còn tài trợ một phần cho tài sản ngắn hạn. Vì thế, cân
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
19
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp

bằng tài chính trong trường hợp này được coi là “cân bằng tốt”, an toàn, bền
vững. Bởi vì, một doanh nghiệp muốn hoạt động không bị gián đoạn thì cần
thiết phải duy trì một mức vốn hoạt động hợp lý để thỏa mãn việc thanh toán
các khoản nợ trong ngắn hạn và dự trữ hàng tồn kho. Bộ phận nguồn vốn dài
hạn được tài trợ cho tài sản ngắn hạn đó được gọi là Vốn lưu chuyển:
Vốn lưu chuyển = Nguồn vốn dài hạn – Tài sản dài hạn
= Vốn chủ sở hữu + Nợ dài hạn – Tài sản dài hạn
= Tổng nguồn vốn - Nợ ngắn hạn – Tài sản dài hạn
= Tài sản ngắn hạn - Nợ dài hạn
Vốn lưu chuyển là một chỉ tiêu tổng hợp quan trọng để đánh giá tình hình tì
chính của doanh nghiệp, chỉ tiêu này cho biết 2 điều cốt yếu sau:
Thứ nhất là doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn
hạn không?
Thứ hai là tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững
chắc bằng nguồn vốn dài hạn không?
Doanh nghiệp có cân bằng bền vững khi vốn lưu chuyển ít nhất phải bằng 0.
Để đánh giá tốt hơn khả năng thanh toán của doanh nghiệp, khi phân tích
chỉ tiêu vốn lưu chuyển cần so sánh vốn lưu chuyển với nhu cầu vốn lưu
chuyển.
Nhu cầu vốn lưu chuyển là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài
trợ cho một phần tài sản ngắn hạn, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu
(không phải tiền).
Nếu nhu cầu vốn lưu chuyển > vốn lưu chuyển. Trong trường hợp này
doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng đến khả năn thanh toán. Do để đáp ứng nhu cầu
cho hoạt động của mình, doanh nghiệp cần vay nợ hoặc đi chiếm dụng nhiều
hơn. Vì vậy sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
20
Nhu cầu vốn
lưu chuyển

=
Hàng tồn
kho
+
Các khoản
phải thu
-
Các khoản
phải trả
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
Nếu nhu cầu vốn lưu chuyển < Vốn lưu chuyển. Trong trường hợp này
doanh nghiệp được đảm bảo khả năng thanh toán trong ngắn hạn.
1.2.4.2. Phân tích tình hình đảm bảo vốn theo mối quan hệ Tài sản -
Nguồn vốn
Xét theo quan điểm này, tài sản ban đầu (gồm tài sản ngắn hạn ban đầu
và tài sản dài hạn ban đầu) của doanh nghiệp được hình thành trước hết bằng
nguồn vốn chủ sở hữu; nghĩa là, doanh nghiệp sử dụng số vốn chủ sở hữu
của mình để tài trợ tài sản ban đầu phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Hay
nói cách khác, đó là khả năng tự đảm bảo vốn cho doanh nghiệp khi doanh
nghiệp bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh. Số tài sản ban đầu được tài trợ
bằng vốn vốn chủ sở hữu này không bao gồm số tài sản thanh toán (khoản bị
chiếm dụng). Mối quan hệ này được thể hiện qua đẳng thức sau:
Vốn chủ sở hữu = Tài sản ngắn hạn ban đầu + Tài sản dài hạn ban đầu
Nếu Vốn chủ sở hữu = Tài sản ngắn hạn ban đầu + tài sản dài hạn ban
đầu. Trong trường hợp này cân đối chỉ mang tính lý thuyết, nghĩa là với
nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp đủ trang trải các laọi tài sản ban đầu
phục vụ cho các hoạt động chủ yếu mà không phải đi vay hoặc chiếm dụng.
Nếu Vốn chủ sở hữu > Tài sản ngắn hạn ban đầu + tài sản dài hạn ban
đầu. Trong trường hợp này số vốn của doanh nghiệp dư thừa, doanh nghiệp
không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm dụng.

Nếu Vốn chủ sở hữu < Tài sản ngắn hạn ban đầu + tài sản dài hạn ban
đầu. Trong trường hợp này số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhỏ hơn số
tài sản ban đầu. Do vậy, để có số tài sản phục vụ cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh, doanh nghiệp phải đi vay, đi chiếm dụng từ bên ngoài.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, khi vốn chủ sở hữu không đáp ứng
đầy đủ nhu cầu về vốn kinh doanh, doanh nghiệp được phép đi vay để bổ
sung vốn kinh doanh. loại trừ các khoản vay quá hạn thì các khoản vay ngắn,
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
21
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
trung và dài hạn của các ngân hàng, tổ chức hoặc cá nhân trong và ngoài nước
chưa đến hạn trả, dùng cho mục đích kinh doanh đều được coi là nguồn vốn
vay hợp pháp. Do vậy, về mặt lý thuyết, chúng ta lại có quan hệ cân đối sau
đây:
Cân đối này hầu như không xảy trong thực tế, thường xảy ra một trong hai
trường hợp:
Nếu VT > VP. Trường hợp này đồng nghĩa với số vốn chủ sở hữu và vốn
vay hợp pháp hiện có lớn hơn số tài sản ban đầu, tức là không sử dụng hết số
vốn hiện có. Do vậy số vốn dư thừa của doanh nghiệp sẽ bị chiếm dụng.
Nếu VT < VP. Trong trường hợp này lượng tài sản ban đầu phục vụ cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lớn hơn số vốn chủ sở hữu và vốn
vay hợp pháp. Do vây, để có đủ tài sản phục vụ cho nhu cầu kinh doanh,
doanh nghiệp buộc phải đi chiếm dụng vốn trong thanh toán (chiếm dụng hợp
pháp và bất hợp pháp).
Mặt khác, do tính chất cân bằng của bảng cân dối kế toán, tổng tài sản
bằng tổng nguồn vốn nên ta lại có cân đối sau:
Nguồn vốn thanh toán là toàn bộ số vốn mà doanh nghiệp đi chiếm
dụngcủa các đối tác trong thanh toán (kể cả chiếm dụng bất hợp pháp). Nguồn
vốn thanh toán bao gồm nguồn vốn thanh toán ngắn hạn và nguồn vốn thanh
toán dài hạn.

Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
22
=
+
Tài sản ngắn hạn
ban đầu
+
Vốn chủ sở
hữu
Tài sản dài hạn
ban đầu
Vốn vay hợp
pháp
=
+
Tài sản
ngắn hạn
ban đầu
+
Vốn
chủ sở
hữu
Tài sản
dài hạn
ban đầu
Vốn vay
hợp
pháp
Nguồn vốn
thanh toán

Tài sản
thanh
toán
+
+
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
Tài sản thanh toán thực chất là số tài sản của doanh nghiệp nhưng bị các
đối tác chiếm dụng, doanh nghiệp có trách nhiệm phải thu hồi. Tài sản thanh
toán gồm tài sản thanh toán ngắn hạn và tài sản thanh toán dài hạn.
Cân bằng này cho biết, sau khi đi vay và chiếm dụng doanh nghiệp đã có
đủ vốn để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đồng thời, cân
bằng cũng cho biết quy mô của doanh nghiệp sau khi đi vay và đi chiếm dụng
như thế nào.
Nếu VT > VP. Trong trường hợp này đồng nghĩa với số vốn chủ sở hữu
và vốn vay hợp pháp và nguồn vốn thanh toán lớn hơn số tài sản ban đầu và
tài sản thanh toán, tức là doanh nghiệp không sử dụng hết số vốn của mình.
Số vốn dư thừa của doanh nghiệp bị chiếm dụng.
Nếu VT < VP. Trường hợp này ngược với trường hợp trên, doanh nghiệp
không đủ vốn để trang trải cho tài sản của mình, doanh nghiệp phải đi chiếm
dụng vốn.
Nếu VT = VP. Trường hợp này nghĩa là số vốn chủ sở hữu và vốn vay
hợp pháp và nguồn vốn thanh toán bằng với số tài sản ban đầu và số tài sản
thanh toán, tức là doanh nghiệp đã có đủ vốn để tài trợ cho tài sản để hoạt
động sản xuát kinh doanh.
Từ cân bằng này ta có thể biến đổi thành cân bằng sau:
Vốn chủ sở hữu + Vốn vay hợp pháp – tài sản ngắn hạn – Tài sản dài
hạn = Tài sản thanh toán ngắn hạn + Tài sản thanh toán dài hạn - Nguồn
vốn thanh toán ngắn hạn - Nguồn vốn thanh toán dài hạn.
Cân bằng này phản ánh khả năng đi chiếm dụng vốn và tình hình bị chiếm
dụng vốn của doanh nghiệp.

Số vốn mà doanh nghiệp đi chiếm dụng (phần chênh lệch giữa vốn chủ sở
hữu và vố vay hợp pháp lớn hơn số tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn tương
ứng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phát sinh trong quá trinh thanh
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
23
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
toán (nợ phải thu ngắn hạn và nợ phải thu dài hạn)với nguôn vốn chiếm dụng
thanh toán (nợ phải trả ngắn hạn và dài hạn) và ngược lại; số vốn mà doanh
nghiệp đi chiếm dụng (Phần chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và tài sản dài
hạn lớn hơn số vốn chủ sở hữu và vốn vay hợp pháp) đúng bằng số chênh
lệch giữa nguồn vốn chiếm dụng trong thanh toán (công nợ phải trả) vớ số tài
sản phát sinh trong quá trình thanh toán nợ phải thu ngắn hạn và dài hạn).
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn và tình hình đảm bảo
vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Cơ cấu nguồn vốn và đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Để có cái
nhìn tổng quát ta xem xét lần lượt các yếu tố của môi trường bên ngoài và
môi trường bên trong doanh nghiệp. Cần phải hiểu rõ sự tác động của các
nhân tố đến cơ cấu nguồn vốn và vấn đề đảm bảo vốn. Từ đó có các biện pháp
nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, tăng cường những ảnh hưởng tích
cực giúp cho doanh nghiệp bảo toàn và phát triển được vốn cùa mình.
1.3.1. Nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp.
a/ Đặc điểm kinh tế kĩ thuật của ngành:
Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất có ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu vốn
sử dụng và doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Những doanh nghiệp nào có chu kỳ
sản xuất dài, vòng quay của vốn chậm thì cơ cấu vốn sẽ thiên về vốn chủ sở
hữu (hầm mỏ, khai thác, chế biến ) Do đó, việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn
cũng như đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền của doanh nghiệp
cũng khó khăn hơn. Ngược lại những ngành nào có mức cầu về loại sản phẩm
ổn định, ít thăng trầm, vòng quay của vốn nhanh (dịch vụ, bán buôn ) thì

vốn được tài trợ từ các khoản nợ sẽ chiếm tỉ trọng lớn. Điều đó giúp cho
doanh nghiệp dễ dàng đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi bằng tiền; cũng như
trong việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cho nhu cầu kinh doanh
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
24
Trường Đại Học Hải Phòng Khóa luận tốt nghiệp
b/ Sự ổn định của doanh thu và lợi nhuận:
Có ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô của vốn huy động. Khi doanh thu ổn
định sẽ có nguồn để lập quỹ trả nợ đến hạn, khi kết quả kinh doanh có lãi sẽ là
nguồn để trả lãi vay. Trong trường hợp này tỉ trọng của vốn huy động trong
tổng số vốn của doanh nghiệp sẽ cao và ngược lại.
c/ Cơ cấu tài sản:
Toàn bộ tài sản của doanh nghiệp có thể chia ra tai sản lưu động và tài sản
cố định. Tài sản cố định là loại tài sản có thời gian thu hồi vốn dài, do đó nó
phải được đầu tư bằng nguồn vốn dài hạn (vốn chủ sở hữu và vay nợ dài hạn).
Ngược lại, tài sản lưu động sẽ được đầu tư một phần của vốn dài hạn, còn chủ
yếu là vốn ngắn hạn.
d/ Mức độ chấp nhận rủi ro của người lãnh đạo:
Trong kinh doanh phải cháp nhận mạo hiểm có nghĩa là phải chấp nhận sự
rủi ro, nhưng điều đó lại đồng nghĩa với cơ hội đêt gia tăng lợi nhuận (mạo
hiểm càng cao thì rủi ro càng nhiều nhưng lợi nhuận càng lớn). Tăng tỉ trọng
vốn vay nợ, sẽ tăng mức độ mạo hiểm,bởi lẽ chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về
doanh thu và lợi nhuận theo chiều hướng giảm sút sẽ làm cho cán cân thanh
toán mất thăng bằng, nguy cơ phá sản sẽ thực hiện.
e/ Thái độ của người cho vay:
Thông thường người cho vay thích các doanh ngiệp có cấu trúc vốn
thiêng về vốn chủ sở hữu hơn, bởi lẽ cấu trúc này nó hứa hẹn sự trả nợ đúng
hạn, một sự an toàn của đồng vốn mà họ bỏ ra cho vay. Khi tỉ lệ vốn vay nợ
quá cao sẽ làm giảm độ tín nhiệm của người cho vay, do đó chủ nợ sẽ không
chấp nhận cho doanh nghiệp vay thêm.

f/ Doanh lợi vốn và lãi suất vốn huy động:
Khi doanh lợi vốn lớn hơn lãi suất vốn vay sẽ là cơ hội tốt nhất để gia
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, do đó khi có nhu cầu tăng vốn người ta
thường chọn hình thức tài trợ từ vốn vay, từ thị trường vốn. Ngược lại, khi
có doanh lợi vốn nhỏ hơn lãi suất vay thì cấu trúc vốn lại thiên về vốn chủ
sở hữu.
Sinh viên: Trương Thị Liên – Lớp KTDN 8A
25

×