Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

mối liên hệ giữa thị trường phát hành chứng khoán và thị trường tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.51 KB, 4 trang )

Đinh Cảnh Tiến
Líp Cao học Luật Kinh tế 11
Bài tiểu luận môn: Pháp luật về thị trường chứng khoán
Đề bài: Mối liên hệ giữa thị trường phát hành chứng khoán và thị
trường tiền tệ.
Để tìm hiểu mối liên hệ giữa thị trường phát hành chứng khoán và thị
trường tiền tệ, trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm chứng khoán.
Xuất phát từ nhu cầu về vốn – là một trong những mối quan tâm lớn
nhất của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nhu cầu này phát sinh
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất
Dù có rất nhiều kênh huy động vốn khác nhau: Có thể vay thông qua hệ
thống các ngân hàng thương mại, song nguồn vốn vay thường mang tính ngắn
hạn mà nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp là trung và dài hạn, trong k hi
đó các cá nhân, tổ chức có nguồn vốn nhàn rỗi chưa biết nên đầu tư vào đâu
để sinh lời. Thị trường chứng khoán ra đời là một kênh huy động vốn trung và
dài hạn cho nên kinh tế có thể giải quyết được mâu thuẫn này. Vai trò của thị
trường chứng khoán đã được khẳng định ở rất nhiều nước trên thế giới. Bởi lẽ
tính ưu việt của nó so với việc đầu tư vào hệ thống các ngân hàng thương mại nh:
- Mức độ lãi suất cao hơn
- Nhà đầu tư được tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Sở hữu phần tài sản góp vào doanh nghiệp của mình.
- Tham gia quản lý doanh nghiệp, dễ dàng chuyển đổi
Nh vậy, chứng khoán là sản phẩm của nền kinh tế thị trường phát triển,
khi yếu tố thị trường bậc cao của nó hình thành đó là thị trường chứng khoán.
Về cơ bản, “có 3 nhóm chủ thể chính tham gia hoạt động trên thị trường
chứng khoán, đó là: các tổ chức phát hành; Sở giao dịch chứng khoán, các tổ
chức phụ trợ, nhà đầu tư”
(1)
. Tiến sĩ Vũ Bằng - Điều chỉnh pháp lý thị trường
1
tài chính. Giáo trình Luật tài chính Việt Nam – NXB Đại học Quốc Gia Hà


Nội 2002.
Hoạt động phát hành chứng khoán là việc chào bán chứng khoán một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua bảo lãnh phát hành rộng rãi hoặc chào
bán riêng lẻ. Hoạt động này được ghi nhận tại khoản 9 - Điều 02 – Nghị định
số 48 – 1998 được cụ thể tại điểm 1.7 K1 mục I thông tư số 01/1998/TT –
UBCK ngày 13/10/1998 của UBCKNN hướng dẫn Nghị định số 48/1998.
Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngăn hạn, nơi diễn ra các hoạt động
của cung và cầu về vốn ngắn hạn, thông thường dưới 01 năm. Thành viên
tham gia thị trường này gồm có: Ngân hàng Trung ương, các ngân hàng
thương mại, các công ty và các tổ chức lớn Tuỳ vào mỗi loại thị trường tiền
tệ mà có sự tham gia của Ngân hàng Trung ương ở mức độ khác nhau Tuy
nhiên, các ngân hàng thương mại là thành viên chủ yếu của thị trường này,
với mục đích nhằm duy trì khả năng thanh toán, trả nợ, đồng thời các ngân
hàng thương mại cũng có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho nay để kiếm lợi
nhuận.
Về cơ bản, thị trường phát hành chứng khoán và thị trường tiền tệ có
mối quan hệ qua lại ở nhiều góc độ. Đặc biệt, có thể thấy đó là vai trò của các
ngân hàng thương mại trong việc phát hành chứng khoán, thể hiện như: phát
hành các loại giấy tờ có giá, nhà đầu tư, nhà phân phối, hoặc bảo lãnh phát
hành chứng khoán.
a. Xét ở vị trí, khía cạnh ngân hàng là nhà đầu tư chứng khoán:
- Vai trò đầu tư trực tiếp thông qua việc các ngân hàng thương mại mua
lại các loại giấy tờ có giá trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là đối với trái
phiếu chính phủ và các loại công trái, ngân hàng thương mại có thể sử dụng
vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn.
- Có thể nói rằng chỉ một sự thay đổi, điều chỉnh nhỏ trên thị trường
tiền tệ cũng có thể gây ra những biến động, “cú sốc” trên thị trường chứng
2
khoán. Ví dụ: trước sức Ðp của chỉ thị 03, các ngân hàng ra sức siết chặt các
khoản cho vay cầm cố cổ phiếu, khiến nhiều nhà đầu tư lao đao.

“Theo quy định của Ngân hàng nhà nước sau khi ban hành chỉ thị 03,
ngày 31-12-2007 là hạn chót để các ngân hàng báo cáo dư nợ cho vay đầu tư
chứng khoán và không được quá 3% trên tổng số dư nợ”
(2)
– Thanh Nguyên,
Ngân hàng làm khó chứng khoán, Tạp chí Nhịp cầu đầu tư – 2007, sè 44. Nh
vậy, sự điều chỉnh bằng biện pháp hành chính của Ngân hàng Nhà nước thông
qua chỉ thị 03 đã tác động nặng nề đến thị trường chứng khoán và tâm lý nhà
đầu tư. Bởi lẽ các Ngân hàng thương mại không thể trái quy định của Ngân
hàng Nhà nước, qua đây ta thấy được vai trò của ngân hàng đối với thị trường
tiền tệ hay thị trường phát hành chứng khoán là rất lớn.
b. Ở góc độ ngân hàng là nhà phân phối, bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Ngân hàng thương mại có vai trò là một đại lý sơ cấp. Có chức năng,
nghĩa vụ mua hoặc chào bán chứng khoán của một tổ chức phát hành nhằm
thực hiện việc phân phối chứng khoán để hưởng lợi nhuận (phí chênh lệch).
Thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành, Ngân hàng thương mại hỗ trợ
cho tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán
ra công chúng. Các công việc cụ thể nh là việc tư vấn khảo sát thị trường,
Marketing, giúp tổ chức phát hành trong việc xây dựng, hoàn chỉnh hồ sơ xin
phép phát hành.
Hoạt động bảo lãnh phát hành có thể là một trong các hình thức như:
bảo lãnh phát hành cố định, bảo lãnh phát hành với mức tối đa, bảo lãnh phát
hành tất cả hoặc không, bảo lãnh phát hành với hạng mục tối thiểu, theo
nguyên tắc thương lượng, hoặc đấu thầu cạnh tranh Thông thường ở nước
ta, phương thức bảo lãnh phát hành được sử dụng nhiều nhất là đối với trái
phiếu chính phủ, qua đâychúng ta thấy việc đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp của
Ngân hàng vào thị trường phát hành chứng khoán đều có ảnh hưởng nhất định
đến sự phát triển của thị trường tiền tệ.
3
c. Vai trò của ngân hàng trong việc phát hành giấy tờ có giá nhằm mục

đích đáp ứng nhu cầu vốn cho mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Trái
phiếu do các Ngân hàng thương mại phát hành ta sẽ làm phong phú “hàng
hoá” trên thị trường chứng khoán, huy động vốn cho phát triển kinh tế.
Trong xu thế quốc tế hoá các hoạt động ngân hàng ngày nay các ngân
hàng Việt Nam đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép
khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong các lý do chính khiến
các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho
khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác mà
không phải thông qua các chủ thể kinh doanh chứng khoán. Trong một số
trường hợp các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán một hoặc công ty
môi giới chứng khoán. Mô hình ngân hàng đa năng này là xu hướng tất yếu
của các ngân hàng thương mại ngày nay. Có thể thấy rằng, kể từ khi thị
trường chứng khoán nước ta chính thức đi vào hoạt động ngày 20/07/2000,
cùng với các định chế trung gian khác nhau thì vai trò của Ngân hàng thương
mại có những hỗ trợ nhất định tới sự lớn mạnh của thị trường chứng khoán và
có mối liên hệ mật thiết với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt
Nam trong tương lai.
4

×