Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

công tác quản lý nợ và khả năng thanh toán của công ty cổ phần xi măng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536 KB, 91 trang )

Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
“Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”
(Luật doanh nghiệp 2005)
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp được coi là một tế bào,
một mắt xích quan trọng của nền kinh tế. Hoạt động của các doanh nghiệp có
mối quan hệ quan trọng với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc
dân. Trong quá trình hoạt động của mình, các doanh nghiệp không ngừng
phát sinh mối quan hệ kinh tế với doanh nghiệp khác và các chủ thể kinh
tếgần gũi khác. Chiếm phần đông trong các mối quan hệ đó là các mối quan
hệ đi vay và cho vay, chiếm dụng và đi chiếm dụng vốn. Các mối quan hệ này
là nguyên nhân phát sinh các khoản nợ và đặt ra yêu cầu thanh toán trong
doanh nghiệp.
Trong mọi hoạt động của mình, mục tiêu của doanh nghiệp luôn là tối đa
hóa lợi nhuận, nâng cao giá trị doanh nghiệp. Để đạt được điều đó, các doanh
nghiệp phải tìm tòi, thực hiện các biện pháp tổ chức quản lý sản xuất một
cách có hiệu quả bên cạnh đó cần chú ý đến những rủi ro tài chính doanh
nghiệp có thể gặp phải. Sức mạnh tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khả
năng chi trả các khoản cần phải thanh toán. Doanh nghiệp dù có tổng tài sản
lớn, thu được lợi nhuận cao nhưng tài sản tồn đọng ở các khoản phải thu,
hàng tồn kho không đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn thì
vẫn có thể lâm vào tình trạng phá sản. Ngược lại, doanh nghiệp thừa khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn mà nguyên nhân đến từ việc hạn chế khoản
vay nợ và các khoản phải thu, làm cho doanh thu tiêu thụ không cao, tác động
của đòn bẩy tài chính cùng với tỷ suất sinh lời thấp thì doanh nghiệp sẽ bị đối
thủ chiếm mất vị thế trong thị trường. Chính vì thế, công tác quản lý nợ và
khả năng thanh toán đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh sự ổn định


Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
1
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
an toàn về mặt tài chính và khả năng đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp.
Hiện nay, nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái, chính sách mở cửa của
chính phủ ngày càng rộng, để đáp ứng yêu cầu phải tự nâng cấp đổi mới
mình, doanh nghiệp phải đối mặt với vấn đề khó khăn về vốn làm thúc đẩy sự
phát triển của các khoản nợ, đồng thời đẩy ảnh hưởng của các mối quan hệ
vay nợ và chiếm dụng tới sự tồn vong của doanh nghiệp và sự toàn vẹn của cả
nền kinh tế.
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, đồng thời qua thời gian thực tập và
nghiên cứu thực tế tình hình tài chính của Công ty cổ phần xi măng Điện
Biên, em nhận thấy các khoản nợ phải thu và nợ phải trả chiếm tỉ trọng lớn
trong tổng tài sản và tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, công tác
quản lý nợ và khả năng thanh toán của công ty còn nhiều điểm hạn chế. Vì
vậy, em đã cân nhắc và quyết định lựa chọn đề tài “ Một số giải pháp tăng
cường quản lý nợ và nâng cao khả năng thanh toán tại Công ty cổ phần xi
măng Điện Biên” làm nội dung nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Phân tích và đánh giá hiệu quả công tác quản lý nợ và hiệu quả thanh toán
trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty Cổ phần Xi măng Điện Biên.
Đề xuất một số giải pháp có tính tham khảo nhằm góp phần cải thiện
công tác quản lý nợ và nâng cao khả năng thanh toán doanh tại công ty.
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là phòng tài chính kế toán Công ty cổ
phần xi măng Điện Biên.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác quản lý nợ của Công ty Cổ
phần Xi măng Điện Biên.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thu thập số liệu
Phương pháp thu thập số liệu chủ yếu sử dụng trong luận văn là thu
thập số liệu từ tài liệu tham khảo, bao gồm báo cáo tài chính và hệ thống kế
toán tại Công ty cổ phần xi măng Điện Biện, bên cạnh đó là thông tin thu thập
từ các trang báo điện tử về thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay.
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
2
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
Phương pháp phân tích số liệu
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích chủ yếu sau: Phương pháp so
sánh, phương pháp phân tích qua hệ số, phương pháp đồ thị, phương pháp
biểu đồ, phương pháp các tình huống giả định
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về nợ, quản lý nợ và khả năng thanh toán
của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý nợ và khả năng thanh toán
tại Công ty cổ phần xi măng Điện Biên
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao công tác
quản lý nợ và khả năng thanh toán tại Công ty cổ phần xi măng Điện Biên
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
3
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỢ, QUẢN LÝ NỢ

VÀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp
1.1.1. Nợ và phân loại nợ trong doanh nghiệp
1.1.1.1.Sự hình thành và tính tất yếu phát sinh các khoản nợ trong
doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao
dịch ổn định, thực hiện đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằ
mục đích, thực hiện đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Trong đó, kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lời.
Quá trình hoạt động của doanh nghiệp cũng là quá trình tạo lập, phân
phối và sử dụng các quỹ tiền tệ hợp thành hoạt động tài chính doanh
nghiệp.Hoạt động tài chính là một mặt của hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp nhằm đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp đề ra. Trong quá trình đó,
làm phát sinh, tạo ra sự vận động của các dòng tiền bao hàmdòng tiền vào,
dòng tiền ra gắn liền với hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh thường
xuyên hàng ngày của doanh nghiệp. Bên trong quá trình tạo lập, sử dụng quỹ
tiền tệ của doanh nghiệp là các mối quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị hợp
thành các quan hệ tài chính của doanh nghiệp, trong đó, quan hệ tài chính
giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế và các tổ chức xã hội khác rất phổ
biến. Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác là mối
quan hệ rất đa dạng và phong phú được thể hiện trong việc thanh toán, thưởng
phạt vật chất khi doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác cung cấp hàng hóa,
dịch vụ cho nhau.
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
4
Luận văn tốt nghiệp

Học Viện Tài Chính
Trong kinh doanh, quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp và các chủ thể kinh
tế khác như Nhà nước, khách hàng, nhà cung cấp, các ngân hàng, tổ chức tín
dụng… luôn phát sinh chính vì thế đã làm nảy sinh các mối quan hệ vay và
cho vay, chiếm dụng vốn và đi chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Các mối
quan hệ này là nguồn gốc phát sinh các khoản nợ của doanh nghiệp. Nợ của
doanh nghiệp bao gồm các khoản nợ phải thu và các khoản nợ phải trả.
Tình hình nợ của doanh nghiệp được phản ánh thông qua mối quan hệ
giữa các khoản nợ phải thu và các khoản nợ phải trả. Sự phát sinh các khoản
nợ là tất yếu trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Thông qua việc đi
vay hoặc chiếm dụng vốn của các chủ thể kinh tế khác, doanh nghiệp huy
động được nguồn vốn để sản xuất kinh doanh. Trong nhiều trường hợp đây là
nguồn vốn quan trọng để doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất cũng như
mở rộng quy mô kinh doanh. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng có thể bán chịu
cho khách hàng để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Trong quá trình hoạt
động của doanh nghiệp, việc phát sinh các khoản nợ là điều bình thường, tuy
nhiên, điều cần lưu ý là xem xét tính chất hợp lý của từng khoản nợ để có giải
pháp quản lý phù hợp tránh hiện tượng xuất hiện nợ xấu, nợ khó đòi hoặc
giảm khả năng thanh toán gây ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
1.1.1.2.Phân loại nợ trong doanh nghiệp
 Phân loại theo tính chất của khoản nợ
Các khoản nợ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: nợ phải thu
và nợ phải trả.
- Nợ phải thu
Nợ phải thu thể hiện số tiền doanh nghiệp phải thu của các đối tượng có
liên quan như khách hàng, người bán, các khoản thuế được khấu trừ, các
khoản phải thu nội bộ và các khoản phải thu khác. Các khoản phải thu từ
khách hàng thể hiện số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá
trình bán hàng, cung ứng dịch vụ dưới hình thức bán trước trả sau. Ngoài ra,

trong một số trường hợp mua sắm vật tư khan hiếm, doanh nghiệp còn có thể
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
5
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
phải ứng trước tiền mua hàng cho người cung ứng, từ đó hình thành nên
khoản tạm ứng (trả trước cho người bán).
Để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu và lợi nhuận bán hàng
nhiều doanh nghiệp đã sử dụng biện pháp bán chịu cho khách hàng. Khi bán
chịu hàng hóa dịch vụ cho khách hàng, điều đó đồng nghĩa với việc doanh
nghiệp đã cấp một khoản tín dụng cho khách hàng. Như vậy, việc bán chịu
khiến doanh nghiệp phải ứng thêm vốn làm tăng nhu cầu vốn, tăng chi phí
quản lý, chi phí thu hồi nợ, tăng rủi ro tài chính. Điều đó đòi hỏi doanh
nghiệp phải xem xét các yếu tố tác động tới nợ phải thu và cần tính toán, cân
nhắc để lựa chọn một chính sách bán chịu thích hợp và có lợi nhất.
Một trong những yếu tố quan trọng cần xác định trong việc bán chịu là
thời gian cho khách hàng nợ (thời gian bán chịu). Trên cơ sở xác định được
độ dài của thời gian này có thể dự kiến được khoản nợ phải thu trung bình từ
khách hàng theo công thức sau:
N
pt
= K
pt
x S
d
Trong đó:
N
pt
: Nợ phải thu dự kiến kỳ kế hoạch

K
pt
: Thời hạn trung bình cho khách hàng nợ (kỳ thu tiền trung bình)
S
d
: Doanh thu bán hàng bình quân một ngày trong kỳ kế hoạch.
- Nợ phải trả
Nợ phải trả là thể hiện bằng tiền những nghĩa vụ mà doanh nghiệp có
trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế khác như: nợ vay, các
khoản phải trả cho người bán, cho Nhà nước, cho người lao động trong doanh
nghiệp…
+ Nợ vay là một nguồn tài trợ đặc biệt cho doanh nghiệp. Thông
thường, doanh nghiệp có thể vay vốn của các ngân hàng thương mại và tổ
chức tín dụng. Trong hoạt động kinh doanh, khi nhu cầu vốn lưu động của
doanh nghiệp tăng cao hoặc khi doanh nghiệp có những dự án đầu tư mới mà
nguồn vốn bên trong của doanh nghiệp không đủ tài trợ thì vay nợ giúp doanh
nghiệp có thể bù đắp nguồn vốn thiếu hụt. Khi vay nợ, doanh nghiệp phải ký
hợp đồng tín dụng và có nghĩa vụ hoàn trả khoản tiền vay theo thời gian quy
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
6
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
định đồng thời chấp hành đầy đủ các điều kiện trong hợp đồng tín dụng. Lãi
suất của khoản vay là lãi suất thỏa thuận theo cơ chế thị trường và phù hợp
với các quy định của ngân hàng Nhà nước, quy định của Luật các tổ chức tín
dụng về lãi suất cho vay khi ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Nợ chiếm dụng trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể mua
chịu nguyên vật liệu hay hàng hóa của nhà cung cấp. Các khoản nợ phải trả
do chiếm dụng hay mua chịu như vậy thường là một loại tín dụng ngắn hạn

quan trọng với doanh nghiệp vì thực chất, khi được chấp nhận mua chịu, điều
đó cũng có nghĩa là nhà cung cấp đã cấp vốn tín dụng thương mại cho doanh
nghiệp làm giảm nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Mua chịu là một
nguồn tài trợ tín dụng đương nhiên phát sinh do hoạt động kinh doanh.
Việc sử dụng tín dụng của nhà cung cấp bao gồm những điểm lợi và bất
lợi. Lợi ích từ tín dụng thương mại của nhà cung cấp rất lớn: đó là nguồn tài
trợ ngắn hạn cho hoạt động của doanh nghiệp dựa trên sự tự nguyện và đàm
phán giữa doanh nghiệp và nhà cung cấp đồng thời, hiệu quả đưa đến nhanh
khi nhà cung cấp biết rõ khách hàng, có thể đánh giá được khả năng thu hồi
nợ, mức độ tín nhiệm cũng như những rủi ro có thể gánh chịu. Tuy nhiên,
doanh nghiệp phải rất cẩn trọng trong việc sử dụng mua chịu như một nguồn
tài trợ vì chi phí sử dụng vốn rất cao (Lãi suất tín dụng thương mại cao). Có
thể tính chi phí tín dụng thương mại theo công thức sau:
Chi phí
của
TDTM
=
Tỷ lệ chiết khấu
(%)
x
360
1- tỷ lệ chiết khấu
(%)
Thời gian
mua chịu -
Thời gian hưởng
chiết khấu
Doanh nghiệp phải xem xét kĩ lưỡng các điều kiện tín dụng do nhà
cung cấp đưa ra và tình hình tài chính doanh nghiệp. Trên cơ sở đó có thể dự
kiến khoản nợ phải trả cho nhà cung cấp theo công thức sau:

Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
7
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
Nợ phải trả
nhà cungcấp
=
Kỳ trả tiền
trung bình
x
Giá trị nguyên vật liệu hoặc hàng hóa mua
vào bình quân một ngày trong kỳ kế hoạch
(loại mua chịu)
Phân loại theo thời hạn của khoản nợ
Căn cứ vào thời hạn của khoản nợ (thời hạn cam kết hoàn trả), các
khoản nợ của doanh nghiệp được chia thành: nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
- Nợ ngắn hạn
Nợ ngắn hạn của doanh nghiệp gồm hai bộ phận: nợ phải trả ngắn hạn
và nợ phải thu ngắn hạn.
Nợ phải trả ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cam kết hoàn trả
trong vòng một chu kỳ sản xuất, kinh doanh bình thường hoặc trong vòng một
năm (không quá 12 tháng). Nợ phải trả ngắn hạn bao gồm: vay và nợ ngắn
hạn và các khoản phải trả ngắn hạn do chiếm dụng (phải trả cho người bán,
người mua trả tiền trước, thuế và các khoản phải nộp Nhà nước, phải trả
người lao động, chi phí phải trả, phải trả nội bộ, phải trả theo tiến độ kế
hoạch hợp đồng xây dựng, các khoản phải trả ngắn hạn khác, dự phòng phải
trả ngắn hạn). Vay và nợ ngắn hạn bao gồm các khoản tiền vay ngắn hạn của
ngân hàng, tổ chức tín dụng, vay của các tổ chức cá nhân trong và ngoài
doanh nghiệp, nợ ngắn hạn khác. Nợ vay ngắn hạn là nguồn vốn tạm thời tài

trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng
các yêu cầu có tính chất tạm thời phát sinh trong hoạt động kinh doanh của
mình như nhu cầu vốn lưu động gia tăng trong hoạt động kinh doanh. Thông
thường, để vay được nguồn vốn ngắn hạn từ ngân hàng và các tổ chức tín
dụng, doanh nghiệp cần chấp hành đầy đủ các nguyên tắc quy định hiện hành
về tín dụng ngắn hạn. Thời hạn cho vay cụ thể được ngân hàng xác định phù
hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Lãi
suất cho vay là lãi suất thỏa thuận theo cơ chế thị trường và phù hợp với các
quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước và quy định của pháp luật.
Nợ phải thu ngắn hạn là các khoản doanh nghiệp phải thu của các đối
tượng khác trong thời hạn ngắn (thường là nhỏ hơn 1 năm). Các khoản phải
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
8
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
thu ngắn hạn thường bao gồm: phải thu ngắn hạn của khách hàng, trả trước
cho người bán, phải thu nội bộ ngắn hạn, phải thu theo tiến độ kế hoạch hợp
đồng xây dựng, các khoản phải thu khác, dự phòng phải thu ngắn hạn khó
đòi…
- Nợ dài hạn
Nợ dài hạn của doanh nghiệp gồm hai bộ phận: nợ phải trả dài hạn và
nợ phải thu dài hạn.
Nợ phải trả dài hạn là những khoản vay của doanh nghiệp có thời hạn
cam kết hoàn trả trên một năm. Nợ phải trả dài hạn bao gồm: vay và nợ dài
hạn và các khoản phải trả dài hạn do chiếm dụng (phải trả dài hạn người bán,
phải trả dài hạn nội bộ, phải trả theo tiến độ kế hoạch hợp đồng xây dựng, các
khoản phải trả dài hạn khác, dự phòngtrợ cấp mất việc làm, thuế thu nhập
doanh nghiệp hoãn lại phải trả, dự phòng phải trả dài hạn…). Vay và nợ dài
hạn có thể là các khoản vay trung và dài hạn của các ngân hàng, tổ chức tín

dụng, vay thông qua phát hành trái phiếu… Trong đó, vay dài hạn ngân hàng
là nguồn vốn quan trọng nhất là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất,
không những đối với sự phát triển của các doanh nghiệp mà còn đối với toàn
bộ nền kinh tế. Vay dài hạn cùng với vốn chủ sở hữu hình thành nên nguồn
vốn thường xuyên của doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định
mà doanh nghiệp có thể sử dụng vào hoạt động kinh doanh để mua sắm, hình
thành tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động thường xuyên cần thiết
cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nợ phải thu dài hạn là các khoản doanh nghiệp phải thu của các đối
tượng khác trong thời hạn dài (thường là trên 1 năm). Các khoản phải thu dài
hạn thường bao gồm: phải thu dài hạn của khách hàng, vốn kinh doanh ở đơn
vị trực thuộc, phải thu dài hạn nội bộ, phải thu dài hạn khác, phải thu dài hạn
khó đòi…
1.1.1.3.Các chỉ tiêu phản ánh tình hình nợ và quản lý nợ trong doanh nghiệp.
 Hệ số các khoản phải thu
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
9
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
Hệ số các khoản phải thu =
Các khoản phải thu
Tổng tài sản
Các khoản phải thu ở đây bao gồm: các khoản phải thu ngắn hạn (như:
phải thu của khách hàng, trả trước cho người bán, phải thu tạm ứng, phải thu
khác, dự phòng phải thu khó đòi) và các khoản phải thu dài hạn.
Hệ số các khoản phải thu phản ánh mức độ bị chiếm dụng vốn của doanh
nghiệp. Thông thường, nếu hệ số các khoản phải thu càng cao, thể hiện doanh
nghiệp đang bị chiếm dụng vốn càng nhiều. Tuy nhiên cũng cần xem xét đến
đặc điểm kinh doanh cũng như chính sách tín dụng thương mại riêng của từng

doanh nghiệp để có đánh giá một cách đầy đủ và chính xác.
 Hệ số các khoản phải trả
Hệ số các khoản phải trả =
Các khoản phải
trả
Tổng tài sản
Các khoản phải trả ở dây bao gồm: các khoản phải trả ngắn hạn (như:
phải trả người bán, phải trả người lao động, thuế và các khoản phải nộp Nhà
nước, các khoản phải trả ngắn hạn khác) và các khoán phải trả dài hạn.
Hệ số các khoản phải trả phản ánh mức độ đi chiếm dụng vốn của doanh
nghiệp. Thông thường, nếu hệ số các khoản phải trả càng cao, thể hiện doanh
nghiệp đang chiếm dụng được càng nhiều vốn. Tuy nhiên, cần cân nhắc đến
đặc điểm kinh doanh và tình hình chấp hành kỷ luật thanh toán của doanh
nghiệp để có đánh giá một cách đầy đủ và chính xác.
 Số vòng thu hồi nợ
Số vòng thu hồi nợ (hay số vòng quay các khoản phải thu) là chỉ tiêu phản
ánh tốc độ luân chuyển các khoản phải thu thông qua số lần luân chuyển nợ phải
thu thực hiện được trong một kỳ nhất định thường là một năm. Số vòng thu hồi nợ
càng lớn thì thời hạn thu nợ bình quân càng được rút ngắn, hiệu quả sử dụng vốn
lưu động càng cao. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
= Doanh thu thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
10
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
Số vòng thu hồi nợ
(số vòng quay các
khoản phải thu)
Số dư bình quân các khoản phải thu trong kỳ

 Thời hạn thu nợ bình quân
Khoản phải thu từ khách hàng thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn
lưu động của doanh nghiệp. Để phản ánh độ dài thời gian thu tiền bán hàng
của doanh nghiệp kể từ khi xuất hàng đến khi thu được tiền hàng ta sử dụng
chỉ tiêu thời hạn thu nợ bình quân (hay kỳ thu tiền bình quân) được tính bằng
công thức:
Thời hạn thu nợ bình quân
(Kỳ thu tiền bình quân)
=
Số dư bình quân các khoản phải thu
Doanh thu bán hàng bình quân 1 ngày
Kỳ thu tiền quá dài so với doanh nghiệp trong ngành thì dễ dẫn đến tình
trạng nợ khó đòi. Doanh nghiệp cần rút ngắn kỳ thu tiền bình quân mà vẫn
đảm bảo sự tăng trưởng của doanh thu.
 Kỳ hạn trả nợ bình quân
Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, sự phát sinh các khoản
phải trả là điều tất yếu. Tuy nhiên, khi đi chiếm dụng vốn của các đối tác,
doanh nghiệp cần chú ý chấp hành đầy đủ các điều kiện về thời hạn thanh
toán, phương thức thanh toán, số tiền phải hoàn trả (gồm gốc và lãi). Để phản
ánh độ dài thời gian trả nợ bình quân của doanh nghiệp kể từ khi mua chịu
đến khi hoàn trả các khoản nợ ta sử dụng chỉ tiêu kỳ hạn trả nợ bình quân
được tính bằng công thức:
Kỳ hạn trả
nợ bình quân
=
Số dư bình quân các khoản phải trả (do chiếm
dụng)
Doanh thu mua chịu bình quân 1 ngày trong kỳ
Doanh nghiệp cần cân đối kỳ hạn trả nợ cũng như cơ cấu vay nợ cho phù
hợp với điều hiện tại của doanh nghiệp đảm bảo thanh toán đầy đủ và kịp thời

các khoản nợ đúng hạn. Nếu vay dài hạn quá nhiều so với nhu cầu của doanh
nghiệp sẽ dẫn đến lãng phí do doanh nghiệp phải trả một khoản chi phí sử
dụng vốn cao hơn.
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
11
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
1.1.2. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp
1.1.2.1.Khái niệm khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Một trong những nội dung quan trọng của tài chính doanh nghiệp là sử
dụng có hiệu quả số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu chi và đảm bảo
khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp phải tìm mọi
cách huy động tối đa số vốn hiện có của doanh nghiệp vào hoạt động kinh
doanh, giải phóng kịp thời số vốn ứ đọng, theo dõi chặt chẽ và thực hiện tốt việc
thanh toán, thu hồi tiền bán hàng và các khoản phải thu khác, đồng thời quản lý
chặt chẽ mọi khoản chi phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Thường xuyên tìm biện pháp thiết lập sự cân bằng giữa thu và chi bằng tiền,
đảm bảo cho doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp có thể
hoản trả cả gốc và lãi các khoản nợ vay cũng như các khoản phải trả hiện có
của doanh nghiệp. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá rủi
ro tài chính của doanh nghiệp. Thông thường, khả năng thanh toán của một
doanh nghiệp được đánh giá qua các tiêu chí: hệ số khả năng thanh toán hiện
thời, hệ số khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả năng thanh toán tức thời, hệ
số khả năng thanh toán lãi vay.
1.1.2.2.Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp
* Hệ số khả năng thanh toán hiện thời
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời (hay hệ số khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn) được tính bằng cách lấy tổng tài sản lưu động (tài sản ngắn hạn)

chia cho số nợ ngắn hạn của doanh nghiệp:
Hệ số khả năng thanh
toán hiện thời
=
Tổng tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Tổng tài sản lưu động bao gồm cả khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Số
nợ ngắn hạn là những khoản nợ phải trả trong khoảng thời gian dưới 12 tháng
bao gồm: các khoản vay ngắn hạn, phải trả cho người bán, thuế và các khoản
phải trả người lao động, nợ dài hạn đến hạn trả, các khoản phải trả khác có
thời hạn dưới 12 tháng. Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản ngắn
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
12
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
hạn thành tiền để trang trải các khoản nợ ngắn hạn, vì thế, hệ số này cũng thể
hiện mức độ đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Để đánh giá hệ số này cần dựa vào số trung bình của ngành hoặc hệ số
khả năng thanh toán kỳ trước. Thông thường, hệ số này cao hơn 1 là tốt . Khi
hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp là yếu và cũng là
dấu hiệu báo trước những khó khăn tiềm ẩn về tài chính mà doanh nghiệp có
thể gặp phải trong việc trả nợ. Hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả
năng cao trong việc sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp hệ số này quá cao chưa chắc đã phản ánh năng lực
thanh toán của doanh nghiệp là tốt ví dụ nếu hệ số này quá cao do vốn của
doanh nghiệp bị ứ đọng trong hàng tồn kho không có khả năng tiêu thụ hoặc
nợ phải thu không có khả năng thu hồi. Do vậy, để đánh giá đúng hơn cần
xem xét thêm tình hình của doanh nghiệp.
* Hệ số khả năng thanh toán nhanh

Hệ số khả năng thanh toán nhanh là chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn khả năng
thanh toán của doanh nghiệp, được xác định bằng tài sản lưu động trừ đi hàng tồn
kho và chia cho số nợ ngắn hạn. Hàng tồn kho là yếu tố bị loại trừ vì trong tài sản
lưu động, hàng tồn kho được coi là loại tài sản có tính thanh khoản thấp hơn. Nếu
doanh nghiệp có lượng dữ trữ hàng tồn kho lớn song lại là nguyên vật liệu đã
hỏng, không đảm bảo chất lượng, không phù hợp với tình hình sản xuất hiện tại,
thành phẩm, hàng hóa đã lỗi mốt, không có khả năng tiêu thụ thì doanh nghiệp
cũng không đảm bảo khả năng thanh toán. Để đánh giá hệ số này doanh nghiệp
cần dựa vào hệ số trung bình của ngành hoặc hệ số thanh toán kỳ trước. Thông
thường hệ số này cao thể hiện tính chủ động của doanh nghiệp trong thanh toán.
Hệ số này được xác định bằng công thức sau:
* Hệ số khả năng thanh toán tức thời
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
13
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
Ngoài hai hệ số trên, để đánh giá sát hơn khả năng thanh toán của doanh
nghiệp còn có thể sử dụng chỉ tiêu hệ số vốn bằng tiền hay còn gọi là hệ số
khả năng thanh toán tức thời, được xác định bằng công thức sau:
Hệ số khả năng thanh toán tức thời phản ánh khả năng thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn bằng số tiền hiện có và tài sản có thể chuyển đổi nhanh
thành tiền trong doanh nghiệp. Ở đây, tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân
hàng và tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư
ngắn hạn về chứng khoán, các khoản đầu tư ngắn hạn khác có thể dễ dàng
chuyển đổi thành tiền trong thời hạn 3 tháng và không gặp rủi ro lớn.
Tiền và các khoản tương đương tiền là tài sản có tính lỏng cao, đáp
ứng nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp nhanh nhất, đảm bảo cho nhu
cầu thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây lại là tài sản có
khả năng sinh lời thấp. Việc dự trữ quá nhiều vốn bằng tiền làm gia tăng

nhu cầu huy động vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh và làm giảm tốc
độ quay vòng vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc dự trữ vốn bằng tiền
được căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí của việc giữ tiền và nhu cầu
thanh toán của doanh nghiệp.
* Hệ số khả năng thanh toán lãi vay
Lãi tiền vay là khoản chi phí sử dụng vốn vay mà doanh nghiệp có nghĩa
vụ phải trả đúng hạn cho các chủ nợ. Một doanh nghiệp vay nợ nhiều nhưng
kinh doanh không tốt, mức sinh lời của đồng vốn quá thấp hoặc bị thua lỗ thì
khó có thể đảm bảo thanh toán tiền lãi vay đúng hạn. Hệ số khả năng thanh
toán lãi vay được xác định theo công thức sau:
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán lãi tiền vay trong kỳ của doanh
nghiệp và cũng phản ánh mức độ rủi ro có thể gặp phải đối với các chủ nợ.
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
14
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
1.2. Sự cần thiết phải tăng cường quản lý nợ và nâng cao khả năng
thanh toán của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế hiện nay, mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi
nhuận, nâng cao giá trị doanh nghiệp. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp
phải tìm tòi, thực hiện các biện pháp tổ chức quản lý sản xuất một cách có hiệu
quả bên cạnh đó cần chú ý đến những rủi ro tài chính doanh nghiệp có thể gặp
phải. Tình hình nợ và khả năng thanh toán đóng vai trò quan trọng trong việc
phản ánh sự ổn định cũng như an toàn về mặt tài chính của doanh nghiệp.
Sức mạnh tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng chi trả các
khoản cần phải thanh toán. Các nhà cung cấp, đối tác, khách hàng, ngân hàng
hoặc các tổ chức tín dụng cũng như các đối tượng liên quan luôn quan tâm:
liệu doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các món nợ tới hạn hay không?
Mối quan hệ giữa kết quả kinh doanh với khả năng chi trả ra sao? Tình hình

thanh toán của doanh nghiệp như thế nào? Doanh nghiệp có chấp hành đầy đủ
kỷ luật thanh toán hay không? Các nhà quản trị doanh nghiệp cần luôn chú ý
đến các khoản nợ đến hạn, sắp đến hạn phải trả để chuẩn bị sẵn các nguồn
thanh toán. Nếu không, các chủ nợ, căn cứ vào luật phá sản có thể yêu cầu
doanh nghiệp tuyên bố phá sản nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh
toán các khoản nợ tới hạn. Có thể nói, khả năng thanh toán đóng vai trò quyết
định đến sự tồn tại của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của
doanh nghiệp trong mắt các nhà đầu tư và đối tác. Đồng thời, nếu doanh
nghiệp có khả năng đạt được lợi nhuận cao nhưng không đảm bảo khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn thì vẫn có thể lâm vào tình trạng phá sản.
Chính vì thế, nâng cao khả năng thanh toán của doanh nghiệp là một trong
những nhiệm vụ cần lưu ý trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp cũng cần đặc biệt
chú ý đến công tác quản lý nợ. Tổ chức, quản lý nợ một cách hợp lí giúp
doanh nghiệp tiết kiệm được nhu cầu vốn lưu động cho quá trình sản xuất
kinh doanh. Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động, huy động vốn
khó khăn, lãi suất đi vay cao thì doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động có hiệu
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
15
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
quả sẽ đảm bảo tính chủ động cho sản xuất, giảm áp lực trả nợ, giảm bớt chi
phí tài chính.
Quản lý tốt các khoản nợ phải trả giúp doanh nghiệp hoàn trả đầy đủ và
kịp thời các khoản nợ phát sinh, tạo uy tín trên thị trường từ đó giúp doanh
nghiệp có nhiều thuận lợi hơn khi có nhu cầu huy động nguồn tài trợ từ các
đối tác hoặc tổ chức tín dụng. Đồng thời, duy trì các khoản nợ phải trả do
chiếm dụng ở mức độ hợp lý còn giúp doanh nghiệp tận dụng được nguồn tài
trợ ngắn hạn từ nhà cung cấp; sử dụng hợp lý các khoản vay nợ sẽ phát huy

được tác dụng của đòn bẩy tài chính.
Quản lý các khoản nợ phải thu đặc biệt là các khoản phải thu từ khách hàng
là một vấn đề rất quan trọng và phức tạp trong công tác quản lý tài chính doanh
nghiệp. Khoản phải thu từ khách hàng thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng vốn
lưu động của doanh nghiệp. Việc quản lý khoản phải thu từ khách hàng liên quan
chặt chẽ với vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Khi doanh nghiệp mở rộng việc bán chịu
cho khách hàng sẽ làm cho nợ phải thu tăng. Tuy vậy, doanh nghiệp có thể tăng
được thị phần từ đó gia tăng được doanh thu bán hàng và lợi nhuận. Mặt khác,
quản lý khoản phải thu liên quan chặt chẽ đến việc tổ chức và bảo toàn vốn lưu
động của doanh nghiệp. Việc tăng khoản phải thu từ khách hàng kéo theo việc gia
tăng các khoản chi phí quản lý nợ, chi phí thu hồi nợ, chi phí trả lãi tiền vay để
đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thiếu do vốn của doanh nghiệp bị khách hàng
chiếm dụng. Tăng khoản phải thu làm tăng rủi ro của doanh nghiệp dẫn đến tình
trạng nợ quá hạn khó đòi hoặc không thu hồi được do khách hàng vỡ nợ gây mất
vốn của doanh nghiệp.
Có thể nói, tăng cường tổ chức quản lý nợ một cách hiệu quả đồng thời nâng
cao khả năng thanh toán của doanh nghiệp là vấn đề quan trọng liên quan đến sức
mạnh tài chính cũng như sự tồn tại và phát triển ổn định của doanh nghiệp.
1.3. Phương hướng, biện pháp tăng cường công tác quản lý nợ và nâng
cao khả năng thanh toán của doanh nghiệp
1.3.1. Một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến công tác quản lý nợ và
khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
16
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
1.3.1.1.Các nhân tố khách quan
Xét về mặt khách quan, công tác quản lý nợ và khả năng thanh toán của
doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi một số nhân tố như thực trạng của nền kinh

tế, tăng trưởng, lạm phát, lãi suất, rủi ro, các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô
của Nhà nước…
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung. Trong nền kinh tế có lạm
phát cao, giá các yếu tố đầu vào tăng kéo theo giá thành sản phẩm tăng. Nếu
doanh nghiệp tăng giá bán sản phẩm thì sẽ làm hạn chế khả năng tiêu thụ sản
phẩm của người tiêu dùng. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không tăng giá,
doanh nghiệp sẽ mất vốn do giá bán nhỏ hơn giá thành sản xuất. Khi nền kinh
tế có lạm phát ở mức độ cao thì việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp gặp
khó khăn khiến cho tình trạng tài chính của doanh nghiệp căng thẳng. Khó
khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm sẽ làm giảm doanh thu và lợi nhuận khiến
doanh nghiệp không có nguồn trả nợ, khả năng thanh toán của doanh nghiệp
giảm sút đồng thời việc thu hồi các khoản phải thu cũng khó khăn hơn. Nếu
doanh nghiệp không áp dụng các biện pháp quản lý thích hợp thì có thể bị thất
thoát vốn kinh doanh. Lạm phát cũng làm cho nhu cầu vốn kinh doanh tăng
lên và tình hình tài chính doanh nghiệp không ổn định.
Tình trạng của nền kinh tế: một nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng
trưởng thì có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp đầu tư phát triển, thị trường được
mở rộng, doanh nghiệp có nhiều cơ hội để mở rộng thị phần, gia tăng khối
lượng sản phẩm được tiêu thụ từ đó góp phần gia tăng doanh thu, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp quay vòng vốn nhanh, khả năng thanh toán được cải
thiện. Ngược lại, nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái thì doanh nghiệp
khó có thể có được cơ hội đầu tư tốt.
Chính sách, chế độ của Nhà nước: Những thay đổi trong chính sách kinh
tế vĩ mô nói chung và chế độ quản lý tài chính nói riêng tác động đến tình
hình quản lý tài chính doanh nghiệp. Những ngành nghề kinh doanh được nhà
nước khuyến khích đầu tư sẽ có nhiều thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
17
Luận văn tốt nghiệp

Học Viện Tài Chính
phẩm. Những ưu đãi về thuế, lãi suất, trợ giá của Nhà nước giúp cho doanh
nghiệp tiết kiệm được những khoản đầu tư lớn, nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh và cải thiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Các rủi ro về điều kiện tự nhiên như thiên tai, lũ lụt, hoả hoạn, , các rủi
ro về kinh tế như khách hàng phá sản, nhà cung cấp vi phạm hợp đồng khiến
doanh nghiệp bị thiệt hại về vật chất, xuất hiện những khoản phải thu khó đòi
hoặc có khả năng không đòi được. Để phòng ngừa rủi ro, doanh nghiệp phải
tiến hành trích lập các khoản dự phòng làm cho vốn đầu tư của doanh nghiệp
giảm xuống, doanh nghiệp phải huy động đầu tư từ nguồn khác.
Lãi suất thị trường: lãi suất thị trường là yếu tố tác động rất lớn đến hoạt
động tài chính doanh nghiệp. Lãi suất thị trường ảnh hưởng đến cơ hội đầu tư,
đến chi phí sử dụng vốn và cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp từ đó ảnh
hưởng đến vấn đề lựa chọn giữa tín dụng thương mại của nhà cung cấp và các
nguồn tài trợ khác của doanh nghiệp. Mặt khác, lãi suất thị trường còn ảnh
hưởng gián tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi lãi
suất thị trường tăng cao, người tiêu dùng có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn,
điều đó làm hạn chế khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp dẫn đến
ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Các nhân tố trên được xem là môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp biết vận dụng những điều kiện thuận lợi, kiểm soát hạn chế những
bất lợi sẽ đạt được hiệu quả cao trong công tác quản lý nợ và nâng cao khả năng
thanh toán góp phần vào sự ổn định của tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.3.1.2. Các nhân tố chủ quan
Ngoài các nhân tố khách quan nêu trên còn có rất nhiều những nhân tố
chủ quan của chính bản thân doanh nghiệp làm ảnh hưởng tới hiệu quả công
tác quản lý nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Mức độ độc lập, tự chủ về mặt tài chính: việc doanh nghiệp lựa chọn cơ
cấu tài trợ giữa vay nợ và vốn chủ sở hữu có ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng thanh toán của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tỉ lệ sử dụng vốn chủ sở

Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
18
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
hữu cao có khả năng tự chủ tài chính cao hơn vì thế tình hình tài chính của
doanh nghiệp cũng an toàn và ổn định hơn. Doanh nghiệp sử dụng nhiều vay
nợ sẽ tận dụng được ưu thế của đòn bẩy tài chính, tuy nhiên, doanh nghiệp
luôn chịu áp lực của các khoản vay, đặc biệt là các khoản vay đến hạn trả.
Nếu doanh nghiệp không lưu ý đến thời hạn thanh toán của các khoản nợ để
có thể huy động nguồn trả nợ phù hợp, có thể xuất hiện những khoản phải trả
không có khả năng thanh toán ảnh hưởng đến uy tín cũng như tính ổn định về
mặt tài chính của doanh nghiệp.
Chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp với khách hàng: trong
điều kiện thị trường cạnh tranh, để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm góp phần tăng
doanh thu và lợi nhuận, việc áp dụng các chính sách bán chịu một cách hợp lý
là hết sức cần thiết để thu hút khách hàng. Việc áp dụng chính sách bán chịu
rộng rãi hay hạn chế sẽ ảnh hưởng đến các khoản nợ phải thu. Nếu doanh
nghiệp áp dụng rộng rãi chính sách bán chịu mà trong đó có những khách
hàng không uy tín, sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý nợ của doanh nghiệp
vì xuất hiện những khoản phải thu khó đòi.
Sự lựa chọn giữa tín dụng của nhà cung cấp và các nguồn tài trợ ngắn
hạn khác: tín dụng của nhà cung cấp là một nguồn tài trợ ngắn hạn quan trọng
trong hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi được hưởng tín dụng của
nhà cung cấp doanh nghiệp cần tính toán đến chi phí của khoản tín dụng đó và
cân nhắc , so sánh với lãi suất vay ngân hàng để xem chi phí của khoản tín
dụng thương mại đó cao hay thấp. Nếu sử dụng tín dụng của nhà cung cấp
trong khi thực tế chi phí của nó cao hơn lãi suất thị trường thì doanh nghiệp sẽ
phải trả khoản chi phí lớn hơn, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cũng như
khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

Vấn đề thu hồi nợ và chấp hành kỷ luật thanh toán của doanh nghiệp: khi
doanh nghiệp áp dụng chính sách bán chịu để thu hút khách hàng sẽ làm xuất
hiện các khoản phải thu. Bên cạnh việc xác định chính sách bán chịu hợp lí
cũng như lựa chọn đối tượng khách hàng uy tín để cho hưởng tín dụng thương
mại, khả năng thu hồi nợ của doanh nghiệp cũng hết sức quan trọng. Khi các
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
19
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
khoản phải thu đến hạn mà khách hàng không thanh toán hoặc chậm thanh
toán sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp
không tích cực đôn đốc, có biện pháp thu hồi nợ thì có thể sẽ xuất hiện những
khoản nợ phải thu khó đòi gây ảnh hưởng xấu đến tình hình nợ và làm giảm
khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Áp dụng chính sách bán chịu là cần
thiết trong điều kiện cạnh tranh hiện nay của thị trường tuy nhiên cần tính đến
khả năng thu hồi nợ (dựa trên uy tín của khách hàng, tình hình tài chính, khả
năng thanh toán hiện tại của khách hàng) khi cân nhắc có nên áp dụng chính
sách bán chịu trong từng trường hợp hay không. Mặt khác, việc chấp hành kỷ
luật thanh toán của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp
với các đối tác, các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Nếu doanh nghiệp chấp hành
tốt kỷ luật thanh toán, hoàn trả các khoản nợ, khoản phải trả đúng hạn sẽ là
điều kiện thuận lợi để các đối tác tin cậy và mở rộng quan hệ hợp tác với
doanh nghiệp
Trên đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả công tác
quản lý nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào điều kiện
cụ thể mà từng doanh nghiệp có thể nghiên cứu, xem xét ảnh hưởng của từng
nhân tố nhằm đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường công tác quản
lý nợ và nâng cao khả năng thanh toán của doanh nghiệp một cách hiệu quả.
1.3.2. Một số biện pháp tăng cường quản lý nợ và nâng cao khả

năng thanh toán của doanh nghiệp
1.3.2.1.Tăng cường tổ chức quản lý nợ phải thu
Để quản lý khoản phải thu từ khách hàng doanh nghiệp phải chú ý một
số biện pháp sau:
* Xác định chính sách bán chịu (chính sách tín dụng thương mại) với
khách hàng:
- Nợ phải thu từ khách hàng của doanh nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào
khối lượng hàng hóa, dịch vụ bán chịu cho khách hàng và thời hạn bán chịu.
Vì vậy, để quản lý khoản phải thu trước hết cần xem xét, đánh giá các yếu tố
chủ yếu ảnh hưởng đến chính sách bán chịu của doanh nghiệp như:
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
20
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
- Mục tiêu mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận
của doanh nghiệp.
- Tính chất thời vụ trong sản xuất và tiêu thụ một số sản phẩm
- Tình trạng cạnh tranh và tình trạng tài chính của doanh nghiệp
* Phân tích khách hàng, xác định đối tượng bán chịu: Công việc chủ yếu
trong việc hình thành chính sách tín dụng thương mại là cần xác định bán chịu
cho ai. Do vậy, để thẩm định độ rủi ro cần có sự phân tích đánh giá khả năng
trả nợ và uy tín của khách hàng, nhất là với những khách hàng tiềm năng.
Trên cơ sở đó quyết định hình thức hợp đồng.
* Xác định điều kiện thanh toán: doanh nghiệp phải quyết định thời hạn
bán chịu (thời hạn thanh toán) và tỉ lệ chiết khấu thanh toán.
Thiết lập một hạn mức tín dụng hợp lý. Quản lý nợ phải thu là nhằm tối đa
hóa lợi nhuận. Vì vậy, nên chấp nhận đơn xin cấp tín dụng của những khách
hàng nếu có cơ hội trở thành khách hàng thường xuyên và đáng tin cậy của
doanh nghiệp. Trong trường hợp khách hàng có uy tín thấp hoặc đáng nghi ngờ,

doanh nghiệp cần ấn định một hạn mức tín dụng hạn chế để tránh rủi ro.
* Thường xuyên kiểm soát nợ phải thu:
- Mở sổ theo dõi chi tiết nợ phải thu và tình hình thanh toán với
khách hàng.
- Thường xuyên kiểm soát để nắm vững tình hình nợ phải thu và tình
hình thu hồi nợ.
- Để tránh tình trạng mở rộng việc bán chịu quá mức, cần xác định giới
hạn bán chịu qua hệ số nợ phải thu. Công thức xác định như sau:
Hệ số nợ phải thu =
Nợ phải thu từ khách hàng
Doanh số hàng bán ra
- Thực hiện các biện pháp thu hồi kịp thời các khoản nợ đến hạn
- Chủ động áp dụng các biện pháp tích cực và thích hợp thu hồi các
khoản nợ quá hạn. Cần xác định rõ nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn để có
biện pháp thu hồi thích hợp. Có thể chia nợ quá hạn thành các giai đoạn để có
biện pháp thu hồi phù hợp.
- Trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi để chủ động bảo toàn vốn lưu động.
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
21
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
1.3.2.2.Lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp
* Nguồn tài trợ ngắn hạn:
Nguồn tài trợ ngắn hạn của doanh nghiệp gồm có: nợ vay ngắn hạn, nợ
phải trả có tính chất chu kỳ, tín dụng nhà cung cấp, tín dụng ngân hàng, chiết
khấu thương phiếu… và các nguồn tài trợ ngắn hạn khác. Khi lựa chọn các
nguồn tài trợ, doanh nghiệp cần cân nhắc đến chi phí sử dụng vốn cũng như
các điều kiện tín dụng kèm theo, đồng thời phải tính toán đến khả năng thanh
toán các khoản nợ khi đến hạn, tránh làm xuất hiện các khoản nợ dây dưa gây

mất uy tín và giảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
* Nguồn tài trợ dài hạn:
Nguồn tài trợ dài hạn của doanh nghiệp gồm 2 bộ phận chính là vốn chủ
sở hữu và vay và nợ dài hạn. Việc lựa chọn giữa hai nguồn tài trợ này có ý
nghĩa quyết định đến khả năng tự chủ về mặt tài chính của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần lựa chọn cân đối giữa hai nguồn tài trợ này để vừa đảm bảo
nguồn vốn cho hoạt động của doanh nghiệp đồng thời đảm bảo mức độ độc
lập tự chủ về tài chính nhất định nhằm duy trì sự ổn định cho doanh nghiệp.
1.3.2.3.Nâng cao hiệu quả công tác quản lý vốn bằng tiền
Tiền là tài sản tài chính của doanh nghiệp có thể dễ dàng chuyển hoá thành
tài sản khác để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, để đảm bảo khả năng thanh toán,
đảm bảo uy tín cho doanh nghiệp. Tương ứng với mỗi quy mô kinh doanh nhất
định đòi hỏi thường xuyên phải có một lượng vốn bằng tiền tương xứng. Vốn
bằng tiền có mức độ sinh lời thấp lại dễ bị tham ô, lạm dụng nên doanh nghiệp
phải quản lý chặt chẽ vốn bằng tiền. Các khoản thu chi phải thông qua quỹ, phải
có chứng từ hợp pháp, hợp lệ, tránh chi khống, chi sai mục đích; có sự phân định
trách nhiệm rõ ràng trong quản lý tiền mặt của thủ quỹ và nhân viên kế toán tiền
mặt, cuối ngày phải có sự đối chiếu giữa sổ kế toán và sổ quỹ; doanh nghiệp cần
xác định các định mức chi tiêu bằng tiền, không chi những khoản thanh toán lớn
bằng tiền mặt đồng thời quản lý chặt chẽ các khoản tạm ứng. Để tăng hiệu quả
sử dụng vốn bằng tiền, doanh nghiệp nên áp dụng các biện pháp tăng tốc độ quá
trình thu tiền, giảm tốc độ các khoản chi ra bằng tiền, tiến hành hoạch định kế
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
22
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
hoạch lưu chuyển tiền tệ để có biện pháp huy động vốn hợp lý hay đầu tư vốn
nhàn rỗi để tăng thu lợi nhuận.
1.3.2.4.Quản lý chặt chẽ vốn về hàng tồn kho

Hàng tồn kho chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng tài sản và vốn lưu động
của doanh nghiệp. Việc duy trì một lượng hàng tồn kho thích hợp sẽ thuận lợi
cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp sẽ tránh được
phải trả giá cao hơn cho việc đặt hàng nhiều lần với số lượng nhỏ, hạn chế rủi
ro trong việc chậm trễ hoặc ngừng trệ sản xuất do thiếu vật tư hay những thiệt
hại do không đáp ứng được đơn đặt hàng. Doanh nghiệp cũng tránh được tình
trạng ứ đọng vốn do hàng tồn kho quá nhiều, mất khả năng thanh toán, góp
phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động, giúp doanh nghiệp thực
hiện tốt nguyên tắc tiết kiệm, sử dụng có hiệu quả các phương tiện sản xuất và
nhân lực.
Để tổ chức dự trữ hàng tồn kho hợp lý, đảm bảo cho quá trình kinh
doanh diễn ra liên tục, giảm tới mức thấp nhất số vốn cần thiết cho việc dự trữ
doanh nghiệp cần xác định đúng đắn lượng nguyên vật liệu hàng hoá cần mua
trong kỳ và lượng tồn kho dự trữ hợp lý; xác định nguồn cung cấp, người
cung cấp thích hợp với chi phí thấp, chất lượng đảm bảo và các điều khoản có
lợi cho doanh nghiệp; thường xuyên theo dõi biến động của thị trường vật tư,
hàng hoá để điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp cho phù hợp; tổ chức
việc bảo quản, dự trữ vật tư, hạn chế hao hụt mất mát, giảm phẩm chất; giải
phóng nhanh lượng vật tư bị ứ đọng; mua bảo hiểm và lập dự phòng giảm giá
hàng tồn kho.
1.3.2.5.Chủ động áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro
Hoạt động sản xuất kinh doanh không thể tránh khỏi rủi ro, doanh
nghiệp cần chủ động áp dụng các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu tác động
do rủi ro sinh ra. Thực hiện biện pháp này, doanh nghiệp cần xác định mức
trích hợp lý các quỹ dự phòng như dự phòng phải thu khó đòi, dự phòng giảm
giá hàng tồn kho, dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn, mua bảo hiểm cho tài
sản…
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
23

Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhằm tăng cường công tác quản lý
nợ và nâng cao khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Trong thực tế mỗi
doanh nghiệp có đặc điểm khác nhau, nên mỗi doanh nghiệp cần căn cứ vào
phương hướng biện pháp cụ thể có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả công
tác tổ chức quản lý nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ VÀ KHẢ NĂNG
THANH TOÁN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG
ĐIỆN BIÊN
2.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN XI MĂNG ĐIỆN BIÊN
2.1.1 Quá trình thành lập và phát triển của công ty cổ phần xi măng
Điện Biên
 Tên công ty, địa điểm, vốn điều lệ, hình thức sở hữu
- Tên tiếng Việt: CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG ĐIỆN BIÊN
- Tên tiếng Anh đầy đủ: Dien Bien Cement Joint Stock Company
- Tên công ty viết tắt: DBCC
- Trụ sở đặt tại: Số nhà 15, tổ dân phố 12, Phường Mường Thanh
Thành phố Điện Biên Phủ, Tỉnh Điện Biên, Việt Nam.
- Tên địa điểm kinh doanh: NHÀ MÁY XI MĂNG ĐIỆN BIÊN
- Địa chỉ địa điểm kinh doanh: Bản Na Thìn - xã Sam Mứn - Huyện Điện
Biên - Tỉnh Điện Biên - Việt Nam.
- Đặc điểm địa điểm kinh doanh: Nhà máy được xây dựng trên 2 khu chính:
Khu xây dung dây chuyền nhà máy sản xuất xi măng nằm cạnh quốc lộ 279 gần
cửa khẩu Tây Trang sang nước bạn Lào, gồm tất cả các xưởng sản xuất chính từ
khâu tiếp nhận đá vôi, đất sét, nung và nghiền xuất xi măng. Và khu khai thác đá
vôi thuộc địa bàn xã Na Ư, Huyện Điện Biên, Tỉnh Điện Biện, khu vực này bao
gồm khâu khai thác say nghiền đá và có đội xe vận chuyển đá về Nhà máy.

- Liên hệ:
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
24
Luận văn tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
Điện Thoại: 0230 3832145
Fax: 0230 3832144
Website: www.ximangdienbien.com
Email:
Công ty cổ phần xi măng Điện Biên được thành lập ngày 12 tháng 05
năm 2005, tiền thân là Công ty TNHH Tân Phú Xuân – Hải Phòng, là một
doanh nghiệp chuyên sản xuất vật liệu xây dựng, chủ yếu là sản xuất xi măng
và khai thác, chế biến khoáng sản.
Trong quá trình hình thành và phát triển, được sự quan tâm tạo điều kiện
giúp đỡ của Tỉnh ủy, Hội Đồng Nhân Dân, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh và nhân
dân các dân tộc tỉnh Điện Biên. Đến nay, Công ty đã đầu tư xây dựng một số
nhà máy bao gồm: Nhà máy xi măng Điện Biên I (tại huyện Tuần Giáo) với
công suất thiết kế 4,8 vạn tấn/năm, vốn đầu tư 28 tỷ đồng và Nhà máy tấm lợp
phi bro xi măng tại huyện Điện Biên, công suất 1,7 triệu m2/năm, vốn đầu tư
11 tỷ đồng.
Công ty Cổ Phần xi măng Điện Biên là công ty cổ phần với 3 cổ đông
sáng lập (danh sách kèm theo), thành lập theo giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh số 6203000010 do phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và
Đầu tư tỉnh Điện Biên cấp thay đổi lần 3 ngày 02 tháng 10 năm 2008. Hiện
nay công ty đang hoạt động theo đăng ký thay đổi lần thứ 5 ngày 25 tháng 10
năm 2010 với 9 ngành nghề kinh doanh. Công ty có vốn điều lệ:
150.000.000.000 Đồng (Một trăm năm mươi tỷ đồng chẵn), chia làm
1.500.000 cổ phần với mệnh giá là 100.000 đồng một cổ phần.
2.1.2 Lĩnh vực ngành nghề kinh doanh chủ yếu

Thực hiện chủ trương phát triển ngành công nghiệp xi măng của Thủ
tướng Chính phủ, đồng thời được sự đồng ý của Bộ Xây dựng và sự cho phép
của Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên. Trên cơ sở vùng nguyên liệu sẵn có và
địa điểm dự kiến xây dựng đã được khảo sát, trang thiết bị trong dây chuyền
được tính toán, lựa chọn hợp lý, tiết kiệm năng lượng, đáp ứng các yêu cầu
công nghệ, kỹ thuật, mỹ thuật, đảm bảo vệ sinh môi trường và tin cậy trong
quá trình hoạt động. Toàn bộ thiết bị của nhà máy xi măng lò quay Điện Biên
công suất 1.200 tấn xi măng/ngày tại xã Sam Mứn, huyện Điện Biên được lắp
Vũ Đức Hoàng Lớp
CQ47/11.04
25

×