Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.93 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC



Đề tài :

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA
ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC


HVTH: NGÔ VĂN LONG
STT: 33 -NHÓM 4
Lớp: TCDN Ngày 4, K22
GVHD: TS BÙI VĂN MƯA

TPHCM, tháng 12 năm 2012

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN 2
I.1 - Sơ lược xã hội Đức cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỷ XIX 2
I.2 - Đặc điểm triết học cổ điển Đức. 2
I.3 - Khái lược triết học Hêghen. 4
PHẦN II : NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN 5
II.1 - Hiện tượng luận tinh thần 5
II.2 - Khoa học lôgic 6
II.3 - Triết học tự nhiên 8
II.4 - Triết học tinh thần 9


PHẦN III : PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC 11
III.1 Giá trị phép biện chứng duy tâm Hêghen : 11
III.2 Vai trò của phép biện chứng duy tâm Hêghen đối với sự ra đời của
triết học Mác. 12
KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17











Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 1

LỜI MỞ ĐẦU

Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc
đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và
phương pháp siêu hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái
“lôgic nội tại khách quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức

phức tạp.
Nền triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thế kỷ XVIII -
đầu thế kỷ XIX là thành tựu rực rỡ của nền văn minh Tây Âu và thế giới. Đây là
đỉnh cao của thời kỳ triết học Tây Âu, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến triết học
hiện đại. Nó trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành triết học Mác - (cùng với
kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp). Triết học cổ điển
Đức, mà tiêu biểu là triết học Hêghen và triết học Phoi-ơ-Bắc là tiền đề lý luận trực
tiếp cho sự ra đời của triết học Mác. Trong đó phép biện chứng của Hêghen là một
tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mác-xít. Tuy nhiên, nếu phép biện chứng là
hạt nhân hợp lý, là mặt tiến bộ của triết học Hêghen thì ngược lại hệ thống triết học
của Hêghen lại duy tâm, siêu hình. Chính điều này đã làm cho phép biện chứng duy
tâm của Hêghen càng được quan tâm nhiều hơn ngay cả trong giai đoạn này và cho
tới hiện nay.
Để làm rõ những thành tựu mà Triết học của Hêghen mang lại cho lịch sử
triết học của nhân loại , ảnh hưởng như thế nào với sự ra đời của Triết học Mác, đó
là lý do chính để em và các thành viên nhóm 4 lựa chọn đề tài : “Phép biện chứng
duy tâm Hêghen và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác”.
Xin chân thành cảm ơn thầy TS. Bùi Văn Mưa cùng các thầy cô trong tiểu
ban triết học, khoa lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế TP.HCM đã biên soạn
tài liệu “Đại cương về lịch sử triết học” (Triết học Phần 1) là nguồn tài liệu tham
khảo chính giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 2

PHẦN I: BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN

I.1 - Sơ lược xã hội Đức cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỷ XIX
Cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX nước Đức vẫn còn là một quốc gia
phong kiến điển hình với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ

còn là hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp,
nông nghiệp bị đình đốn. Lúc này vương triều Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng
cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ, cản trở đất nước phát triển theo con đường
tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần
chúng. Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản. Ở nước Anh
thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu
bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức tỉnh
tinh thần cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác của xã
hội Đức. Nhưng vì giai cấp tư sản Đức lúc này tỏ ra hèn kém, những lực lượng tiến
bộ khác nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu
kém về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn
mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ muốn thỏa hiệp với tầng
lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những
vấn đề phát triển đất nước. Nhưng với tinh thần cách mạng của mình, giai cấp tư sản
Đức phải tìm cách nào đó để thể hiện tinh thần đó và đã gửi gắm vào trong triết học
cổ điển Đức.
I.2 - Đặc điểm triết học cổ điển Đức.
Đáp ứng đơn đặt hàng của lịch sử, triết học cổ điển Đức ra đời. Cũng giống
như ở Pháp hồi thế kỷ XVIII, cách mạng triết học ở Đức hồi thế kỷ XIX cũng đi
trước cuộc cách mạng chính trị. Nhưng hai cuộc cách mạng triết học ấy hoàn toàn
khác nhau. Người Pháp đấu tranh công khai chống toàn bộ nền khoa học quan
phương, chống giáo hội và thường chống ngay cả nhà nước nữa; các tác phẩm của
họ được in ở ngoài biên giới, ở Hà Lan hay ở Anh, còn bản thân họ thường suýt bị
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 3

giam vào ngục Ba-xti. Trái lại, người Đức lại là những giáo sư, những nhà giáo do
nhà nước bổ nhiệm để giáo dục thanh niên; tác phẩm của họ là sách giáo khoa được
mọi người thừa nhận và cái hệ thống hoàn tất của toàn bộ sự phát triển triết học, tức

là hệ thống Hêghen, thậm chí đã được nâng có thể nói là lên địa vị triết học nhà
nước của vương quốc Phổ! Và cách mạng lại phải núp sau những giáo sư ấy, sau
những lời thông thái rởm và tối nghĩa của họ, trong những câu văn nặng nề và buồn
tẻ của họ. Triết học cổ điển Đức tiếp tục phát huy truyền thống duy lý của phương
Tây, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa học. Các triết
gia ra sức xây dựng các hệ thống triết học vạn năng, bao trùm tất cả mọi lĩnh vực
hoạt động của con người làm cơ sở cho những hoạt động đó. Đối với Hêghen, triết
học thật sự phải là lôgic học, còn đối với Phoiơbắc, đó là nhân bản học. Tuy nhiên,
do cố khắc phục những hạn chế siêu hình và máy móc trong nền triết học duy vật thế
kỷ XVII- XVIII mà triết học cổ điển Đức lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm thần bí. Họ
cho rằng, tính biện chứng sống động chỉ là bản tính của cái tinh thần, còn cái tự
nhiên thì phi biện chứng. Dù vậy họ vẫn tiếp thu những tư tưởng biện chứng quý
báu trong di sản triết học cổ truyền của nhân loại, phát triển thêm và xây dựng phép
biện chứng như một học thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển xảy
ra trong thế giới. Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò của con người với tính các là
chủ thể trong mọi hoạt động cải tạo thế giới - khách thể; và khảo sát khách thể gắn
liền với hoạt động thực tiễn của chủ thể - con người. Song do quan điểm duy tâm chi
phối mà nhiều triết gia của nền triết học này hiểu thực tiễn chỉ là hoạt động sang táo
của ý thức, đồng thời tuyệt đối hóa ý thức, biến ý thức thành lực lượng siêu nhiên có
năng lực sang tạo kỳ vĩ. Vì vậy triết học của họ mang tính duy tâm thần bí. Triết học
cổ điển Đức là cơ sở thế giới quan, là nền tảng ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức
cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, vốn yếu về kinh tế nhược về chính trị, nhưng
có đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú, sống trong một xã hội mà tàn tích
phong kiến còn quá nặng nề.
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 4

I.3 - Khái lược triết học Hêghen.
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 - 1831), nhà triết học duy tâm khách

quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức, người xây dựng nên phép biện
chứng duy tâm. Triết học của Hêghen là đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm Đức cuối
thế kỉ 18 - đầu thế kỉ 19. Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt toàn bộ triết học Hêghen
là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách quan (tự nhiên và lịch
sử thế giới) là biểu hiện của "lí tính thế giới" hay "tinh thần thế giới" mà Hêghen gọi
là "ý niệm tuyệt đối". "Ý niệm tuyệt đối" có trước tự nhiên và loài người, trải qua
một quá trình phát triển lịch sử - tự nhận thức về bản thân, qua ba giai đoạn: 1) Giai
đoạn phát triển trong "nguyên chất" thuần khiết của nó khi chưa có thế giới: nội
dung của "ý niệm tuyệt đối" thể hiện trong hệ thống các phạm trù lôgic có liên quan
với nhau và chuyển hoá lẫn nhau (lôgic học). 2) Dưới dạng tồn tại khác, khi chuyển
thành giới tự nhiên (triết học tự nhiên). 3) "Ý niệm tuyệt đối" phủ định giới tự nhiên,
trở về với bản thân, nó tiếp tục biến hoá, nhận thức nội dung của mình dưới các hình
thức ý thức và đạt tới nhận thức cao nhất qua tôn giáo, nghệ thuật, triết học (triết học
tinh thần). Thành quả lớn nhất của triết học Hêghen là phép biện chứng. Ở Hêghen,
phép biện chứng bị thần bí hoá. Mặc dù vậy, Hêghen vẫn là "người đầu tiên trình
bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện
chứng" (Mac). Hêghen có những đóng góp to lớn trong địa hạt lí luận về nhận thức,
trong cuộc đấu tranh chống "thuyết không thể biết" (bất khả tri luận). Hệ thống duy
tâm, bảo thủ, khép kín và giả tạo của triết học Hêghen mâu thuẫn sâu sắc với
phương pháp biện chứng có tính chất cách mạng của triết học này. Quan điểm chính
trị phản động của Hêghen, đặc biệt trong thời kì hoạt động cuối đời của ông, phản
ánh tình trạng mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả hiệp của nó
với các thế lực phong kiến. Hêghen ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh vực nhà
nước quân chủ phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao của sự phát triển xã hội. Triết học
Hêghen là một trong những nguồn gốc lí luận trực tiếp của chủ nghĩa Mac. Các tác
phẩm chủ yếu: "Hiện tượng học tinh thần" (1807), "Khoa học lôgic" (1812 - 16),
"Bách khoa thư về khoa học triết học" (1817, 1830), "Những nguyên lí triết học của
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 5


pháp luật" (1821), những bài giảng về triết học lịch sử, về mĩ học, về triết học tôn
giáo, về lịch sử triết học được xuất bản sau khi Hêghen mất.
PHẦN II : NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA TRIẾT HỌC
HÊGHEN

II.1 - Hiện tượng luận tinh thần
Tác phẩm Hiện tượng luận tinh thần được xây dựng dựa trên bốn luận điểm
nền tảng sau đây:
- Một là, thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, ý niệm tuyệt đối
chứ không phải là cái Tuyệt đối (Senlinh) là nền tảng của hiện thực. Ý niệm tuyệt đối
là sự hợp nhất giữa thực thể - giới tự nhiên (Xpinôda) và Cái tôi tuyệt đối (Phíchtơ) là
sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật chất, là Đấng tối cao sáng
tạo ra giới tự nhiên, con người và lịch sử nhân loại. Con người chỉ là một sản phẩm
của quá trình vận động phát triển tự thân của ý niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức
và cải tạo thế giới của con người, tức lịch sử nhân loại chỉ là giai đoạn phát triển cao
của ý niệm tuyệt đối, là công cụ để nó nhận thức chính bản thân mình và quay trở về
với chính mình. Tư duy lôgic là hình thức thể hiện cao nhất của ý niệm tuyệt đối.
- Hai là, thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Phát triển được Hêghen
hiểu như một chuỗi các hành động phủ định biện chứng, trong đó, cái mới liên tục
thay thế cái cũ, nhưng đồng thời kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ. Quá trình
phát triển của ý niệm tuyệt đối diễn ra theo tam đoạn thức “chính đề - phản đề - hợp
đề”. Đó cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn giữa cái vật chất và cái
tinh thần, giữa khách thể và chủ thể trong bản thân ý niệm tuyệt đối.
- Ba là, thừa nhận ý thức con người là sản phẩm của lịch sử. Hêghen coi lịch sử
là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của sự phát triển ý niệm tuyệt đối trên
trần gian. Lịch sử nhân loại có được nhờ vào hoạt động có ý thức của những cá nhân
cụ thể, nhưng nó lại là nền tảng quy định ý thức của mỗi cá nhân. Ý thức cá nhân chỉ
là sự khái quát, sự “đi tắt” toàn bộ lịch sử mà ý thức nhân loại đã trải qua. Ý thức nhân
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa


HVCH: Ngô Văn Long Page 6

loại là sự tái hiện lại toàn bộ tiến trình của lịch sử nhân loại, là sản phẩm của lịch sử,
là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.
- Bốn là, triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối. Hêghen thừa nhận có ba
hình thức thể hiện ý niệm tuyệt đối trên trần gian là nghệ thuật, tôn giáo và triết học,
trong đó, triết học là hình thức thể hiện cao nhất, trọn vẹn và đầy đủ nhất ý niệm tuyệt
đối. Theo Hêghen, triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học vạn năng đóng
vai trò nền tảng cho toàn bộ thế giới quan và tư tưởng con người. Nhưng mỗi thời đại
lại có một học thuyết triết học của riêng mình. Học thuyết này là tinh hoa tinh thần
của thời đại đó, là thời đại được thể hiện dưới dạng tư tưởng. Mỗi hệ thống triết học
của một thời đại nào đó đều là sự chắt lọc, kết tinh, khái quát lại toàn bộ lịch sử tư
tưởng trước đó, đặc biệt là tư tưởng triết học. Triết học và lịch sử triết học thống nhất
với nhau như là sự thống nhất giữa cái lôgic và cái lịch sử; vì vậy, triết học phải bao
trùm toàn bộ lịch sử phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo quan điểm này thì triết học
Hêghen, - khoa học về ý niệm tuyệt đối, - được chia thành 3 bộ phận là khoa học
lôgic, triết học tự nhiên, triết học tinh thần; ứng với 3 giai đoạn phát triển của ý niệm
tuyệt đối là ý niệm tuyệt đối trong chính nó, ý niệm tuyệt đối trong sự tồn tại khác của
nó (tự tha hóa), ý niệm tuyệt đối khắc phục sự tự tha hóa quay về với nó.
II.2-Khoa học lôgic
Khoa học lôgic là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống Hêghen, vì nó
nghiên cứu tinh thần tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhất, nhưng là điểm xuất phát và
nền tảng của toàn bộ hệ thống. Cũng như các nhà lôgic truyền thống, Hêghen coi
lôgic là khoa học về tư duy, về những phạm trù và quy luật của tư duy. Tư duy với
tư cách là đối tượng của khoa học lôgic được Hêghen hiểu là tư tưởng thuần túy, là
tinh thần tuyệt đối. Hêghen phân biệt hai dạng tư duy: tư duy tự nó - chính là tinh
thần tuyệt đối tạo thành bản chất của toàn bộ hiện thực; tư duy cho nó - tức tư duy
con người, là tư duy tự nó ở giai đoạn phát triển cao nhất, là giai đoạn tư duy có ý
thức

Luận điểm xuyên suốt toàn bộ lôgic học cũng như hệ thống của Hêghen là “
cái gì hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”. Nhiệm vụ của khoa học
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 7

lôgic là đào thải những hình thức của tư tưởng không thể hiện đúng bản chất đích
thực của tư duy sống động, đồng thời vũ trang cho con người một phương pháp tư
duy biện chứng nhằm khám phá ra chân lý, đi tới tự do.
Hêghen đưa ra các nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi đầu khoa học lôgic:
tính khách quan, buộc các nhà nghiên cứu không được coi xuất phát điểm một cách
tùy tiện theo ý muốn chủ quan của mình, mà phải tuân theo tính khách quan tùy
thuộc vào từng đối tượng nghiên cứu một cách cụ thể; đơn giản và trừu tượng nhất:
Mọi quá trình vận động khách quan đều theo xu hướng từ đơn giản đến phức tạp, từ
chưa hoàn thiện tới chỗ ngày càng hoàn thiện hơn, cho nên điểm khởi đầu phải là cái
sơ khai nhất, chưa hoàn thiện nhất, trừu tượng nhất; nguyên tắc mâu thuẫn khẳng
định điểm khởi đầu phải là điểm xuất phát có khả năng phát triển thành toàn bộ hệ
thống, tức là phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ hệ thống – đó là mâu
thuẫn giữa tinh thần và vật chất; nguyên tắc thống nhất giữa tính lịch sử và tính lôgic
trong việc xác định điểm khởi đầu: Hêghen coi khoa học lôgic của mình là sự tổng
kết toàn bộ tiến trình phát triển tư tưởng triết học của nhân lịch.
Trong khoa học lôgic, Hêghen hiểu tư duy như một quá trình phát triển biện
chứng thể hiện như sự thống nhất của ba yếu tố sau:
- Thính giác: Đây là tư duy phù hợp với lối suy nghĩ thông thường của mọi
người. Tư duy này con mang nặng tính trực quan, xem xét mọi vật một cách cứng
đờ, tách rời những mắt đối lập mà nhận thấy sự thống nhất giữa chúng.
- Yếu tố biện chứng: Khác với các quan niệm truyền thống coi phép biện
chứng là nghệ thuật tranh luận, Hêghen hiểu đây là một khoa học về sự phát triển
của các khái niệm được ông đồng nhất với bản chất của sự vật. Phép biện chứng là
nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi hiện

thực. Cái biện chứng còn là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân chính
- Yếu tố tư biện: thực hiện như sự thống nhất hai yếu tố trên, đồng thời là kết
quả phát triển của chúng, chỉ ơ đây thì phép biện chứng mới đạt đến sự phát triển
chín muồi. Đây là giai đoạn thể hiện bản chất đích thực của mọi cái như sự thống
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 8

nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Và ông tự coi triết học của mình tương ứng
với giai đoạn này trong sự phát triển của tư duy nhân loại.
Sự phân chia này chỉ mang tính tương đối còn trên thực tế chúng liên hệ hữu
cơ, không tách rời nhau trong từng giai đoạn phát triển của sự vật và khái niệm.
Chúng là những yếu tố của phép biện chứng – linh hồn sống của khoa học lôgic.
II.3 - Triết học tự nhiên
Triết học tự nhiên, theo Hêghen, là sự nghiên cứu lý luận về giới tự nhiên
được hiểu như sự tồn tại của tinh thần dưới dạng các sự vật vật chất. Vì vậy, quá
trình hình thành giới tự nhiên đồng thời cũng là quá trình tinh thần ngày càng biểu
hiện ra thành giới tự nhiên.
Giới tự nhiên, theo cách hiểu của Hêghen, là một chỉnh thể thống nhất trong
đó mọi sự vật đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau, đều không ngừng vận động và
phát triển. Sự phát triển của giới tự nhiên diễn ra dưới nhiều cấp độ khác nhau về
chất như cơ học, vật lý, hoá học, địa chất, sự sống với bản chất và đặc tính vận
động tương ứng. Phê phán quan niệm cơ học về thế giới thống trị trong khoa học tự
nhiên thời đó, Hêghen khẳng định đặc thù riêng của từng giai đoạn phát triển của tự
nhiên. Vì vậy, để nhận thức đúng về giới tự nhiên cần phải xem xét sự vật phù hợp
với tính chất của từng giai đoạn phát triển của nó.
Đối lập với quan niệm của Nguồn tách không gian, thời gian với các quá
trình vận động của các sự vật vật chất, Hêghen ủng hộ quan niệm của Lepnit về vấn
đề này, hiểu rằng "các sự vật tiêu vong không phải vì chúng nằm trong thời gian, mà
vì bản thân chúng là cái nhất thời". Thời gian cũng như không gian phải được hiểu

như sự sinh thành của mọi vật. Cũng như Kant thời kỳ tiền phê phán, Hêghen có ý
đồ muốn đem lại một cái nhìn lịch sử về tự nhiên, về thế giới. Vũ trụ của chúng ta
không phải ngay từ đầu đã có trạng thái như hiện nay. Tuy nhiên, nhà biện chứng lỗi
lạc lại diễn tả tư tưởng đó một cách duy tâm. Ông khẳng định là chỉ có ý niệm mới
có thể chuyển hoá thành giới tự nhiên. Và sự chuyển hoá này diễn ra liên tục, không
ngừng: "Thế giới được tạo ra, hiện đang được tạo ra, và sẽ vĩnh viễn được tạo ra"
bởi tinh thần tuyệt đối.
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 9

Tuy triết học tự nhiên của Hêghen chứa đựng một số tư tưởng quý giá nhưng
theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, nó vẫn là khâu yếu nhất trong hệ thống của
ông bởi vì thứ nhất, hơn bất cứ lĩnh vực nhận thức nào khác, khoa học tự nhiên sớm
thoát khỏi các quan niệm duy tâm thần bí về tự nhiên. Thứ hai, Hêghen dã không
tổng kết được, nói cách khác, không lĩnh hội được những phát kiến của khoa học tự
nhiên đương thời. Điều này dễ hiểu bởi với Đêcáctơ, Lepnhit, Hêghen không phải là
nhà KHTN). "Quan điểm duy tâm và siêu hình về tự nhiên nói chung, sự phủ nhận
tư tưởng phát triển đã khiến triết học tự nhiên của Hêghen trở nên lạc hậu hơn
nhiều so với Kant thời kỳ tiền phê phán" (nhận xét của Engel trong chống Đuyring.
1957.Tr.11-12).
Toàn bộ triết học tự nhiên duy tâm của Hêghen đưa đến một cấu tạo giả tạo
về giới tự nhiên, lấy ý niệm thay thế cho sự nghiên cứu khoa học về cơ sở vận động
và phát triển của thế giới đó. Nó mâu thuẫn với những tài liệu của KHTN. Và vì
theo quan điểm của ông, trong giới tự nhiên, tinh thần không thể có sự toàn vẹn
thống nhất, đặc điểm của hiện tượng tự nhiên là tản mạn và hữu hạn cho nên muốn
đạt đến sự toàn vẹn của nó, tinh thần thế giới phải trở lại lĩnh vực của nó nhưng trở
lại mà càng phong phú thêm do sự lưu lại ở những lĩnh vực tồn tại khác. Để phù hợp
với hệ thống triết học của mình, ông chuyển sang vấn đề triết học tinh thần.
II.4 - Triết học tinh thần

Triết học tinh thần của Hêghen bao gồm học thuyết về tinh thần chủ quan, học
thuyết về tinh thần khách quan và học thuyết về tinh thần tuyệt đối. Tinh thần chủ
quan thể hiện sự tồn tại của mình trước hết trong linh hồn con người, sau đó thể hiện
trong ý thức để phân biệt với cơ thể, sau cùng thể hiện trong tri thức – cái tinh thần bắt
thế giới bên ngoài phục tùng nó. Trong khi đó, tinh thần khách quan là sự phủ định
biện chứng của tinh thần chủ quan. Ý niệm tuyệt đối thể hiện trong pháp quyền, thông
qua ý chí cá nhận. Khi cá nhân pháp lý trở thành chủ thể thì ý niệm tuyệt đối thể hiện
trong đạo đức học. Tinh thần khách quan hoàn thành quá trình tự phát triển trong
phong hóa, khi ý niệm tuyệt đối trở thành tự do trong các hình thức sinh hoạt gia đình,
xã hội công dân và nhà nước. Tinh thần tuyệt đối là sự thống nhất giữa tinh thần chủ
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 10

quan và tinh thần khách quan. Ý niệm tuyệt đối lần lượt thể hiện và hoàn thiện trong
nghệ thuật, tôn giáo, triết học. Đây chính là các hình thức mà ý niệm tuyệt đối sử
dụng để khám phá chính mình, quay về với mình với cái khởi đầu trong tính toàn vẹn
và đầy đủ của nó, trong đó, triết học là quá trình nhận thức đầy đủ và trọn vẹn nhất
của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối quay về với mình trong học thuyết về tinh thần
tuyệt đối.
Triết học tinh thần của Hêghen thực chất bàn về sự phát triển ý thức cá nhân
và ý thức xã hội; bàn về sự phát triển trí tuệ con người. Theo Hêghen, con người
vừa là chủ thể, vừa là kết quả hoạt động của mình, nhận thức và tư duy của con
người được hình thành trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Ý thức của mỗi cá nhân là sự khái quát lại toàn bộ ý thức mà nhân loại đã trải
qua. Hêghen đã thấy được vai trò của lao động đối với sự hình thành và phát
triển của ý thức. Lao động đã giải phóng hai tri thức của loài người, đưa con
người đi lên thẳng đứng, tách con người ra khỏi thế giới loài vật. Cũng chính lao
động, con người đã tạo thức ăn mới hoàn thiện não bộ. Trong lao động, con
người tác động vào thế giới xung quanh, bộc lộ những đặc điểm, tính chất để

con người nhận thức. Cũng chính trong quá trình lao động, con người tự hoàn
thiện chính bản thân mình. Vậy không có quá trình lao động, con người không tách
khỏi loài vật, bộ óc con người không hoàn thiện, không nảy sinh nhu cầu nhận
thức về thế giới, không có ý thức của con người. Hêghen khẳng định ý thức và tư
duy của con người hình thành trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo
thế giới, chứng tỏ rằng đã bắt đầu thấy vai trò của lao động đối với sự hình thành
và phát triển ý thức và tư duy. Từ đó Hêghen cho rằng: bằng cách đó, con người
tác động vào giới tự nhiên, tạo ra giới tự nhiên thứ hai cho mình và làm chủ
giới tự nhiên. Theo Hêghen, con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử lại mang
tính kế thừa. Vì vậy, ý thức của mỗi cá nhân, của mỗi con người là khái quát lại
toàn bộ lịch sử mà tư tưởng nhân loại đã trải qua. Nhà nước là hiện thân của ý
niệm tuyệt đối. Nó ra đời nhằm duy trì, bảo tồn các gia đình, xã hội và công
dân. Nhà nước ra đời từ những mâu thuẫn trong xã hội nhằm điều hòa mâu
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 11

thuẫn các giai cấp, đẳng cấp khác nhau. Bản chất của nhà nước là tổng thể các
quy chế, kỷ cương về chính trị, văn hóa, pháp luật…
PHẦN III : PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN VÀ
VAI TRÕ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC
MÁC
III.1 Giá trị phép biện chứng duy tâm Hêghen
Thế giới quan duy tâm là thế giới quan xuyên suốt toàn bộ nội dung triết học
Hêghen. Mọi sự vật, quá trình dù là vật chất hay tinh thần đều là hiện thân của ý
niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối chi phối mọi sự sinh thành, tồn tại và tiêu vong của
hết thảy mọi cái trong thế giới. Vật chất, giới tự nhiên chỉ là sự tự tha hóa, một sự
tồn tại khác, một sản phẩm sơ cứng bất động của ý niệm tuyệt đối mà thôi. Đề cao
cái tinh thần, khẳng định tính quyết định của nó trong việc đưa ra các phương thức
giải quyết cho các vấn đề thuộc về lý luận cũng như thực tiễn là tư tưởng chủ đạo

được trình bày trong toàn bộ nội dung triết học Hêghen.
Phép biện chứng là linh hồn sống động của hệ thống triết học Hêghen. Tư
tưởng về mối liên hệ phổ biến - mọi cái đều là hiện thân, là các giai đoạn khác nhau
nhưng liên hệ lẫn nhau của ý niệm tuyệt đối -, và tư tưởng về sự phát triển - quá
trình phủ định biện chứng của ý niệm tuyệt đối -… là những tư tưởng cơ bản xuyên
suốt, là mạch suối ngầm thấm chảy qua toàn bộ hệ thống của Hêghen. Phát triển là
một quá trình thay đổi từ thấp lên cao, bằng cách chuyển hóa qua lại giữa lượng và
chất, do sự giải quyết những mâu thuẫn nội tại trong các hình thức cụ thể của ý niệm
tuyệt đối tạo nên. Trên cơ sở mổ xẻ quá trình tự vận động của ý niệm tuyệt đối,
Hêghen đã phát hiện ra các quy luật cơ bản của phép biện chứng và các quy luật
không cơ bản – các cặp phạm trù.
Trong triết học Hêgen phép biện chứng biểu hiện ra là lý luận nhận thức và là
hình thức cao nhất của lôgíc học của tư duy lôgíc . Đồng thời nó cũng chế định một
thế giới quan đặc biệt cần đặt trên niềm tin vào tính tất yếu của sự tiến bộ với tư
cách là kết, quả của sự phát triển hợp quy luật.
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 12

Tuy nhiên ,do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hòa
với trật tự xã hội Phổ hiện tồn thời đó mà Hêgen đã có những kết luận mâu thuẫn và
không nhất quán. Trái với các nguyên tắc xuất phát của mình. Hêgen đã đặt ra một
giới hạn cho sự phát triển của nhân loại kê
̉
cả cho sự phát triển của triết học sau khi
tuyên bố rằng học thuyết của mình là sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của tư tưởng
triết học.
III.2 Vai trò của phép biện chứng duy tâm Hêghen đối với sự ra đời của
triết học Mác.
Cho dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học Hêgen song không

thể phủ nhận được rằng cái có giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất trong triết
học của ông chính là phép biện chứng mà thực chất đó là học thuyết về sự phát triển
toàn diện với tư cách là sự vận động tiến tới và sự chuyển hoá về chất, với tư cách là
sự đi lên theo thang bậc lôgíc có tuần tự về tính chất mâu thuẫn của sự phát triển bao
gồm sự tương tác giữa các mặt đối lập sự phủ định tồn tại hiện có và đồng thời là sự
giữ lại cái tích cực từ quá khứ.
Khi cho rằng Phoi-ơ-bắc bắt đầu từ triết học của Hêghen, sau đó đoạn tuyệt
với nó, phục hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật, Ăng-ghen đã đánh giá một cách
khoa học triết học Hêghen. Trước hết, Ăng-ghen đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản của
triết học Hêghen, đó chính là mâu thuẫn giữa phép biện chứng với hệ thống triết
học. Nếu phép biện chứng là hạt nhân hợp lý, là mặt tiến bộ của triết học Hêghen,
thì ngược lại, hệ thống triết học của Hêghen lại duy tâm, siêu hình. Chính yêu cầu
của hệ thống đã dẫn Hêghen đến việc thừa nhận điểm cuối cùng trong nhận thức
triết học và thực tiễn lịch sử. Ăng-ghen viết: “Tuyên bố rằng toàn bộ nội dung giáo
điều của hệ thống Hêghen đều là chân lý tuyệt đối, vậy là trái với phương pháp biện
chứng của ông ta, phương pháp đã phá bỏ mọi cái có tính chất giáo điều. Như thế
nghĩa là mặt cách mạng của học thuyết Hêghen đã bị đè bẹp bởi sự trưởng thành quá
khổ của mặt bảo thủ của nó. Và điều mà đúng với nhận thức triết học thì cũng lại
đúng với cả thực tiễn lịch sử nữa”. Theo Ăng-ghen, đặc điểm đó của triết học
Hêghen phản ánh sự thoả hiệp của giai cấp tư sản Đức nhỏ bé, yếu hèn về kinh tế và
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 13

chính trị không đủ sức làm cuộc cách mạng tư sản như cuộc cách mạng tư sản Pháp
(1789), mà chỉ mong muốn có những cải cách ôn hoà của giai cấp thống trị. Song,
Ăng-ghen cũng chỉ ra đóng góp to lớn của Hêghen trong sự phát triển tư tưởng triết
học của nhân loại như sau: “Nhưng tất cả những điều đó không ngăn trở hệ thống
Hêghen bao trùm một lĩnh vức hết sức rộng hơn lĩnh vực của bất cứ hệ thống nào
trước kia, và phát triển, trong lĩnh vực đó; một sự phong phú về tư tưởng mà ngày

nay người ta vẫn còn ngạc nhiên. Hiện tượng học về tinh thần, triết học này lại được
nghiên cứu theo các bộ môn lịch sử, riêng biệt cả nó; triết học lịch sử, triết học pháp
quyền, triết học tôn giáo, lịch sử triết học, mỹ học, v.v.; - trong tất cả các lĩnh vực
lịch sử khác nhau ấy, Hêghen cố gắng phát hiện ra và chứng minh sự tồn tại của sợi
chỉ xuyên suốt, tức là của sự phát triển và vì Hêghen không những chỉ là một thiên
tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh
vực, ông xuất hiện ra là một người vạch thời đại”.
Đánh giá phép biện chứng của Hêgen, C.Mác viết: "Tính chất thần bí mà
phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêgen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêgen
trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái
vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêgen phép biện chứng bị lộn ngược
đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó
ở đằng sau lớp vỏ thần bí.”
Triết học duy vật biện chứng chính là giải pháp cho nhiệm vụ nghiên cứu đã
được C. Mác đặt ra đó. C. Mác và Ph.Ăngghen không gán ghép hay hợp nhất một
cách đơn giản phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật trước đó . trước
hết là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc. Trên thực tế các ông đã phải tiến hành một
công việc hết sức phức tạp và đồ sô
̣
là chỉnh lý cải tạo một cách duy vật đối với
phép biện chứng duy tâm của Hêgen: chỉnh lý và cải tạo một cách biện chứng đối
với chủ nghĩa duy vật máy móc và siêu hình.
Trong triết học Mác phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật không phải là các
bộ phận cấu thành riêng biệt tách rời nhau mà chúng chuyển hoá lẫn nhau, xâm nhập
vào nhau và tạo thành một chỉnh thế hữu cơ. Chủ nghĩa duy vật trong hệ thống triết
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 14

học mácxít không những là lý luận mà còn là phương pháp nghiên cứu duy vật.

Đồng thời phép biện chứng mác xít không chỉ là phương pháp mà còn là lý luận hơn
thế nữa là lý luận hoàn thiện nhất, đầy đủ nhất, toàn diện nhất và không phiến diện
nhất về sự phát triển.
Cần phải đặc biệt nhấn mạnh rằng các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác không bao
giờ coi công việc của mình nhằm chỉnh lý và cải tạo một cách duy vật đối với phép
biện chứng của Hêgen đã là hoàn tất. Trái lại cho đến tận cuối đời các ông vẫn
không ngừng nhắc nhở rằng cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu và những
khái quát mới về phép biện chứng Hêgen. Điều mà tiếc thay các ông chưa kịp thực
hiện.
Noi theo tấm gương của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin cũng kiên trì
nhấn mạnh về sự cần thiết phải tiếp tục công việc chỉnh lý một, cách duy vật đối với
phép biện chứng Hêgen. Trong bài viết “Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến
đấu” - tác phẩm được coi một cách xác đáng là di chúc triết học của Lênin - ông kêu
gọi thành lập “Hội những người bạn duy vâ
̣
t của phép biện chứng Hêgen” để tiến
hành công tác nghiên cứu giải thích và tuyên truyền phép biện chứng của Hêgen:
“Dựa vào cách của Mác đã vận dụng phép biện chứng của Hêgen hiểu theo quan
điểm duy vật, chúng ta có thê
̉
và cần phải nghiên cứu phép biện chứng đó trên tất cả
các mặt”.
Những chỉ dẫn rất quan trọng và quý báu đó cũng đồng thời là những kết luận
được chính Lênin rút ra từ các nghiên cứu riêng của ông về triết học Hêgen và trước
hết là về phép biện chứng Hêgen. Ngay từ giữa những năm 90 thế kỷ XIX, Lênin đã
vạch ra một cách sâu sắc ý nghĩa xã hội của phép biện chứng Hêgen, của mặt cách
mạng của nó mà thậm chí phái Hêgen mới đã bỏ qua trong bài viết nhan đề
"Phriđrích Ăngghen" Lênin viết: “Lòng tin của Hêgen vào lý tính của con người và
vào quyền lợi của con người và nguyên lý cơ bản của triết học Hêgen cho rằng trong
thế giới luôn diễn ra một quá trình liên tiếp biến hoá và phát triển đã dâ

̃
n những học
trò của nhà triết học ở Béclanh không muốn điều hoà với hiện trạng đến ý nghĩ cho
rằng ngay cả cuộc đấu tranh chống hiện trạng cuộc đấu tranh chống bất công đang
Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 15

tồn tại và chống điều ác đang hoành hành cũng bắt rễ từ quy luật phô
̉
biến là sự phát
triển không ngừng . Nếu mọi cái đều phát triển nếu những thể chế này bị thê
̉
chế
khác thay thế vậy thì tại sao chế độ chuyên chế của vua Phổ hay của Nga hoàng việc
một thiểu số rất nhỏ làm giàu trên lưng tuyệt đại đa số sự thống trị của giải cấp tư
sản đối với nhân dân lại cứ tồn tại mãi?”
Như vậy, tiềm năng cách mạng trong phép biện chứng của Hêgen đã được
Lênin vạch ra; tiềm năng đó biểu hiện nội dung cơ bản của nó: tính có quy luật nội
tại của sự phát triển sự đấu tranh giữa các mặt đối lập sự phủ định biê
̣
n chứng với tư
cách một bậc thang tất yếu của sự phát triển.


















Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 16

KẾT LUẬN

Triết học Hêgen là một thứ "chủ nghĩa duy tâm thông minh", có những "hạt
nhân hợp lý" và rất có giá trị, trở thành một trong những tiền đề trực tiếp của chủ
nghĩa Mác, được các học giả và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đánh
giá rất cao.
Plêkhanốp, một người có học vấn uyên bác, từng được Lênin tôn làm thầy, đã
đánh giá Hêgen:"Chắc chắn sẽ mãi mãi được dành một trong những địa vị cao quí
nhất trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Trong các khoa học mà người Pháp gọi là
"khoa tinh thần và chính trị", không có một khoa học nào là không chịu ảnh hưởng
mãnh liệt và rất phong phú của thiên tài Hêgen: "Phép biện chứng, lôgic học, luật
học, mỹ học, lịch sử triết học và tôn giáo - tất cả những khoa học đó đều có một hình
thức mới nhờ sự tác động của Hêgen.
Hêgen đã để lại cho nhân loại một di sản triết học khổng lồ với những tư
tưởng cực kỳ phong phú và sâu sắc. Ông từng nói:"Cái triết học mới nhất của một
thời đại là kết quả của hết thẩy các triết học đã có từ trước và phải bao gồm những

nguyên lý của tất cả những triết học đó". Chính ông đã thực hiện xuất sắc yêu cầu đó
với việc phân tích, phê phán các trào lưu triết học, các triết gia trước ông và cùng
thời với ông. Hệ thống triết học của Hêgen đã bao quát nhiều lĩnh vực và phát triển
nhiều tư tưởng phong phú và đặc sắc, có ý nghĩa vạch thời đại. Vì vậy, Ph.Ăngghen
đã khẳng định:"Nếu không có triết học Đức mở đường, đặc biệt là nếu không có triết
học Hêgen, thì chủ nghĩa xã hội khoa học Đức - chủ nghĩa xã hội khoa học duy nhất
chưa hề có từ trước đến nay, sẽ không bao giờ được xây dựng nên".





Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa

HVCH: Ngô Văn Long Page 17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (chủ biên) - Triết học phần 1 Đại cương về lịch sử Triết học - (tài
liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết
học) - Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - 2011.
2. Trần Đức Thảo – Lịch sử tư tưởng trước Mác – Nhà xuất bản Khoa học xã hội –
1995
(o/TDThao/TDThao_LichSuTruocMarx_12.htm)
3. Ý Nghĩa của phép biện chứng Hêghen -GS,TS. Nguyễn Trọng Chuẩn - TS. Đỗ
Minh Hợp
4. Friedrich Engels(1820-1895) Lút-Vích Phoi-Ơ-Bắc và sự cáo chung của triết học
cổđiểnĐức
( />d-feuerbach-va-s-cao-chung-ca-trit-hc-c-in-c&catid=6:h-hinh-tam-thc-
hc&Itemid=193)
5.

6.












×