Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.17 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
GVPT: Ts. Bùi Văn Mưa
HVTH: Ngô Thị Thanh Nga
STT: 39
Nhóm: 4
Lớp: Cao học Ngày 4
Khóa: 22
Tp. HCM,12/2012
1
LỜI MỞ ĐẦU
G. W. F. Hêghen (1770 – 1831) được xem là một trong những bộ óc bách khoa toàn thư
vĩ đại nhất trong lịch sử. Công trình nghiên cứu triết học của ông để lại cho nhân loại quá
đồ sộ và có giá trị rất cao trong nhiều lĩnh vực. Triết học Hêghen là biểu hiện của sự phát
triển đầy đủ nhất và rực rỡ nhất của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức. Quan điểm triết học
của ông là hệ thống duy tâm cổ điển cuối cùng, là trình độ cao nhất của sự phát triển phép
biện chứng duy tâm. Có thể nói, trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Hêghen
chỉ lặp lại những điều mà các nhà duy tâm trước đó đă nói. Song, cái mới trong học thuyết
của ông, chính là chỗ ông xem xét tinh thần thế giới, ý niệm tuyệt đối là một quá trình tự
phát triển không ngừng, và ông là một nhà triết học hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm,
phép biện chứng của ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới với tính cách là cơ sở đầu tiên và
nguồn gốc của mọi tồn tại.
Triết học cổ điển Đức là tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác và
Hêghen là một trong những bậc tiền bối của Mác. Mác và Angghen đã cải tạo triệt để
phép biện chứng duy tâm Hêghen thành phép biện chứng duy vật để nó đóng vai trò là
công cụ tinh thần nhận thức các lĩnh vực tự nhiên xã hội và tư duy con người.
Đề tài: “Phép biện chứng duy tâm Hêghen và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết


học Mác” sẽ trình bày những nội dung chính của triết học Hêghen và cho thấy vai trò của
tư duy biện chứng trong triết học này đối với sự hình thành của triết học Mác.
2
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN
1.1. Hêghen và xã hội Đức vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX
1.1.1. Hêghen (1770 – 1831)
Hêghen là nhà biện chứng lỗi lạc, ông là nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu tiêu biểu
của nền triết học cổ điển Đức.
Hêghen xuất thân trong một gia đình quý tộc Phổ ở Xtutgat. Thời trẻ, ông chủ yếu quan tâm
nghiên cứu các vấn đề lịch sử, pháp quyền và tôn giáo.
Từ 1800-1807 chịu ảnh hưởng của Senlinh, ông bắt đầu say mê các vấn đề triết học. Ông có
các tác phẩm lớn như "Hiện tượng luận tinh thần" (l807). Tác phẩm này đánh dấu sự kết thúc
quá trình hình thành thế giới quan triết học của Hêghen thời kỳ đầu, đồng thời cũng cho thấy sự
bất đồng nhất định giữa Hêghen và Senlinh trong việc lý giải các vấn đề triết học.
Hêghen viết tác phẩm lớn thứ hai của mình là "Khoa học logic" (l812-1816).
Và tác phẩm lớn thứ 3 của ông "Bách khoa toàn thư của các khoa học triết học" năm 1817. Và
nhiều tác phẩm khác về lịch sử tôn giáo, lịch sử triết học, thẩm mỹ học
1.1.2. Xã hội nước Đức cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX
Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX là một quốc gia liên bang. Triều đình vua
Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ, cản trở đất nước
phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, do đó, kinh tế và chính trị kém phát triển. Thủ
công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất
bình của đông đảo quần chúng. Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản,
ở nước Anh thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu
bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần
cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác của xã hội Đức. Nhưng vì
giai cấp tư sản Đức và những lực lượng tiến bộ khác nằm rải rác ở nhữngvương quốc nhỏ tách
rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách
mạng tư sản trong thực tiễn, mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ muốn
thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết

những vấn đề phát triển đất nước. Trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất
3
tư bản ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện, phát
hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế bào của Lơvenhuc; học
thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo Những thành tựu đó chứng tỏ sự hạn chế của
phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất của các hiện tượng tự nhiên và thực
tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần có cách nhìn mới, phương pháp mới, quan niệm mới
về vai trò và khả năng của con người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
1.2. Triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nguyện vọng và đòi hỏi phát triển khoa học cũng
như văn hóa, kinh tế của đất nước vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức đã tiếp tục phát huy truyền thống duy lý của phương Tây, khôi phục lại
quan niệm xem triết học là khoa học của mọi khoa học. Các triết gia ra sức xây dựng các hệ
thống triết học vạn năng, bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động của con người để làm cơ sở cho
những hoạt động đó. Đối với Hêghen, triết học thực sự phải là logic học, còn đối với Phoiơbắc,
đó là nhân bản học. Tuy nhiên do cố khắc phục những hạn chế siêu hình và máy móc trong nền
triết học duy vật thế kỷ XVII – XVIII mà triết học cổ điển Đức lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm
thần bí. Họ cho rằng tính biện chứng sống động chỉ là bản tính của cái tinh thần, còn bản thân
giới tự nhiên thì phi biện chứng. Dù vậy, họ vẫn biết tiếp thu những tư tưởng biện chứng quý
báu trong di sản triết học truyền thống của nhân loại, phát triển thêm và xây dựng được phép
biện chứng như một học thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra
trong thế giới. Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của con người với tính cách là chủ
thể của mọi hoạt động cải tạo thế giới – khách thể; và khảo sát khách thể gắn liền với hoạt động
thực tiễn của chủ thể - con người. Song, do quan điểm duy tâm chi phối mà nhiều triết gia của
nền triết học này hiểu thực tiễn chỉ là hoạt động sáng tạo của ý thức, đồng thời tuyệt đối hóa ý
thức, biến ý thức thành một lực lượng siêu nhiên có năng lực sáng tạo kỳ vỹ, vì vậy, triết học
của họ mang tính duy tâm – thần bí. Triết học cổ điển Đức là cơ sở thế giới quan, là nền tảng ý
thức hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX vốn yếu về kinh tế, nhược
về chính trị, nhưng có đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú, sống trong một xã hội mà tàn
tích phong kiến còn quá nặng nề. Các triết gia tiêu biểu của triết học cổ điển Đức là Cantơ,

Phíchtơ, Senlinh, Hêghen, Phoiơbách.
4
1.3. Sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm biện chứng của Hêghen
Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là kết quả của quá trình xây dựng phương pháp biện
chứng trong triết học cổ điển Đức. Quá trình ấy phản ánh những đòi hỏi của tư tưởng cách
mạng tư sản Âu châu thông qua tình hình đặc biệt của giai cấp tư sản Đức. Triết học duy tâm
biện chứng của Hêghen là sự kế thừa và phát triển những tư tưởng triết học thời đó từ Cantơ,
Phíchtơ, Senlinh.
Cantơ đề cao được vai trò lao động sáng tạo ra thế giới, nhưng chỉ quan niệm cái lao động ấy là
lao động tinh thần. Cantơ hạn chế lao động đó trong phạm vi tinh thần, do hoạt động của tinh
thần mà thế giới bên ngoài được xây dựng và có được tính chất khách quan. Mặc dù còn hạn
chế nhưng tư tưởng duy tâm này đã thể hiện ra cái hạt nhân duy lý trong nó đó là quá trình lao
động xây dựng thế giới. Nhưng Cantơ chưa tin tưởng hoàn toàn vào cái thế giới hàng hóa và
cho đấy chưa phải là thực tại tuyệt đối, chưa phải là vật tự tại.
Tiến lên một bước nữa, Phíchtơ đã tuyệt đối hóa quan niệm duy tâm của Cantơ. Phíchtơ cho
rằng nếu thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà có, do lao động tinh thần xây dựng lên, thì
đấy cũng là thế giới duy nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào khác.
Với Senlinh , phương pháp biện chứng lại tiến một bước nữa. Phương pháp mâu thuẫn của
Senlinh đã đi quá nội dung chủ quan và bao gồm cả tự nhiên. Tư tưởng của Senlinh đã phản
ánh giai đoạn hưởng thụ lung tung sau khi chế độ mới của giai cấp tư sản đã được thực hiện,
quan hệ tư bản trước kia còn là lý tưởng nay đã thành sự thực và phát triển một cách lung tung.
Triết học của Hêghen đã ra đời để đáp ứng nhu cầu đó. Triết học của Hêghen vận dụng một
cách có hệ thống phương pháp biện chứng, tức là phương pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá
trình biến chuyển của mâu thuẫn. Phương pháp của Hêghen phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch
sử thực tế, cho là trong mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, và có phản ánh quá
trình đó một cách có thứ tự, hệ thống. Nhưng Hêghen lại nói rằng quá trình phát triển vật chất
là do mâu thuẫn của hoạt động tinh thần. Hêghen chỉ trông thấy hiện tượng ở bên trên, nên cho
rằng tinh thần quy định sự tiến hóa, hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới. Mệnh đề chung
của Hêghen phản ánh một chân lý: đó là con người sáng tạo thế giới lịch sử. Nhưng con người
đó chỉ được quan niệm trong phạm vi tinh thần. Tuy nhiên con người tinh thần cũng chỉ là hình

ảnh của con người lao động thực sự. Hạt nhân duy lý trong phương pháp biện chứng của
Hêghen là ở chỗ đó.
5
CHƯƠNG II: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN
2.1. Nội dung của phép biện chứng duy tâm Hêghen
2.1.1. Hiện tượng luận tinh thần
Hiện tượng luận tinh thần" (1807) đánh dấu sự trưởng thành trong thế giới quan triết học
của ông: về cơ bản, ông đã thoát khỏi ảnh hưởng của Senlinh và trên cơ sở kế thừa những
tư tưởng hợp lý của Senlinh, ông bắt đầu đề ra những nguyên lý cơ bản nhằm xây dựng hệ
thống triết học độc lập của mình:
a. Thừa nhận sự tồn tại của ý niệm tuyệt đối
Tiếp thu những quan niệm của Senlinh về cái Tuyệt đối, Hêghen coi nền tảng thế giới quan
triết học của mình là ý niệm tuyệt đối được hiểu như đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên
và con người. Đối với ông, tư duy hay ý niệm tuyệt đối là nguồn gốc duy nhất của mọi cái
đang tồn tại. Thế giới tự nhiên là tư duy đã tha hoá, là tư duy tồn tại dưới dạng vật chất.
Ông nhấn mạnh rằng, tư duy là tiền đề của mọi sự vật hiện tượng. Và trong mỗi sự vật có
sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, trong đó tư duy là bản chất còn tồn tại chỉ là "ngoại tại
hoá" của tư duy.
Tư duy không phải là một bản nguyên bất động, mà là một quá trình nhận thức không
ngừng phát triển từ thấp đến cao. Vì vậy, nó không chỉ là khởi nguyên, mà còn là chính cái
nội dung phát triển của tất cả những cái hiện tồn. Theo Hêghen, thế giới vật chất chính là
con người vô cơ, con người còn ở giai đoạn chưa hình thành, còn con người chúng ta bằng
xương bằng thịt là con người đã phát triển đầy đủ, là con người trở về chính bản thân nó với
tất cả những đặc tính vốn có của mình. Giai đoạn phát triển cao nhất của tư duy là tư duy
con người, là lịch sử nhân loại.
Như vậy điểm xuất phát của triết học Hêghen là ý niệm tuyệt đối, là sự thống nhất giữa tư
duy và tồn tại một cách duy tâm. Ông quy mọi quá trình của hiện thực về quá trình tư duy,
quy lịch sử hiện thực về lịch sử nhận thức. Ngay cả hoạt động vật chất thực tiễn của con
người cũng bị quy về quá trình tự ý thức, tự nhận thức. Quan niệm này được trình bày khá
rõ trong "Hiện tượng luận tinh thần" và được triển khai trong toàn bộ hệ thống triết học của

Hêghen. Vì vậy, "Hiện tượng luận tinh thần" được coi là cội nguồn của triết học Hêghen.
6
b. Thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối
Khác với các nhà siêu hình, Hêghen coi sự phát triển không chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần
về lượng, hay sự dịch chuyển vị trí của vật về không gian. Ông hiểu sự phát triển là một
quá trình phủ định biện chứng, trong đó liên tiếp diễn ra sự thay thế cái cũ bằng cái mới,
đồng thời kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ mà vẫn có khả năng thúc đẩy phát triển.
Đó là thực chất của sự phát triển theo quan niệm của Hêghen. Sự phát triển diễn ra theo xu
hướng từ trừu tượng đến cụ thể, từ khái niệm còn nghèo nàn, phiến diện đến khái niệm
phong phú hơn về nội dung trong một sự thống nhất chỉnh thể. Như vậy, trừu tượng và cụ
thể, theo Hêghen là hai cấp độ nhận thức, hai cấp độ phát triển khác nhau của ý niệm tuyệt
đối. Sự vận động của ý niệm tuyệt đối từ trừu tượng tới cụ thể là quá trình vận động từ đơn
giản, sơ khai tới phức tạp, tới sự hoàn thiện hơn. Hêghen cố gắng luận chứng rằng cơ sở sâu
xa nhất của mọi sự vật là ý niệm tuyệt đối (tinh thần tuyệt đối) phát triển theo nguyên tắc
tam đoạn thức: chính đề-phản đề-hợp đề, trong đó giữa các yếu tố đều có mối liên hệ hữu
cơ, chuyển hoá lẫn nhau.
Theo Hêghen, trên thế gian này, ngoài tinh thần tuyệt đối và các hình thức biểu hiện cụ thể
của nó ra thì không còn gì khác cả.
c. Thừa nhận ý thức con người là sản phẩm của lịch sử
Hêghen coi lịch sử là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của sự phát triển ý niệm
tuyệt đối trên trần gian. Lịch sử nhân loại có được nhờ vào hoạt động có ý thức của những
cá nhân cụ thể, nhưng nó lại là nền tảng quy định ý thức của mỗi cá nhân. Ý thức cá nhân
chỉ là sự khái quát, sự đi tắt toàn bộ lịch sử mà ý thức nhân loại đã trải qua. Ý thức nhân
loại là sự tái hiện lại toàn bộ tiến trình của lịch sử nhân loại, là sản phẩm của lịch sử, là hiện
thân của ý niệm tuyệt đối.
d. Triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối
Hêghen thừa nhận có ba hình thức thể hiện ý niệm tuyệt đối trên trần gian là nghệ thuật, tôn
giáo và triết học, trong đó, triết học là hình thức thể hiện cao nhất, trọn vẹn và đầy đủ nhất
của ý niệm tuyệt đối. Triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học vạn năng đóng
7

vai trò nền tảng cho toàn bộ thế giới quan và tư tưởng con người. Nhưng mỗi thời đại lại có
một học thuyết triết học của riêng mình. Học thuyết này là tinh hoa của thời đại đó, là thời
đại được thể hiện dưới dạng tư tưởng. Mỗi hệ thống triết học của một thời đại nào đó, đều
là sự chắt lọc, kết tinh, khái quát lại toàn bộ tư tưởng trước đó, đặc biệt là tư tưởng triết học.
Triết học và lịch sử triết học thống nhất với nhau như là sự thống nhất giữa cái logic và cái
lịch sử; vì vậy, triết học phải bao trùm toàn bộ lịch sử phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo
quan điểm này thì triết học Hêghen – khoa học về ý niệm tuyệt đối – được chia thành ba bộ
phận là khoa học logic, triết học tự nhiên và triết học tinh thần; ứng với ba giai đoạn phát
triển của ý niệm tuyệt đối là ý niệm tuyệt đối trong chính nó, ý niệm tuyệt đối trong sự tồn
tại khác của nó (tự tha hóa) và ý niệm tuyệt đối khắc phục sự tự tha hóa quay về với nó.
2.1.2. Khoa học logic
Là tác phẩm quan trọng nhất của hệ thống triết học Hêghen. Khoa học logic nghiên cứu ý
niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhưng lại là xuất phát điểm của hệ thống.
Hêghen coi logic học là khoa học về những phạm trù và quy luật của tư duy, nhưng tư duy
mà logic học nghiên cứu là tư duy thuần túy, tức ý niệm tuyệt đối trong chính nó hay
Thượng đế.
Theo Hêghen, trong tư duy mọi cái đối lập (vật chất – tinh thần, khách thể - chủ thể, tư
tưởng – hiện thực…) đều thống nhất. Logic học nghiên cứu tư duy như thế phải là hệ thống
siêu hình học. Logic học – Siêu hình học của Hêghen được xây dựng dựa trên luận điểm:
“Cái gì hợp lý đều là hiện thực và cái gì hiện thực đều là hợp lý”. Tư tưởng xuyên suốt để
xây dựng logic học là nghịch lý về sự phát triển. Theo Hêghen phát triển là quá trình vận
động tiến lên phía trước, nhưng nó cũng chính là sự quay trở về điểm ban đầu. Cái khởi đầu
được Hêghen xác định dựa trên những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc về tính khách quan: Cái khởi đầu phải là cái khách quan.
- Nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể trong tư duy, từ đơn giản đến phức tạp: Cái khởi
đầu phải là cái đơn giản nhất trừu tượng nhất, để phù hợp với xu thế phát triển tiến lên của
quá trình nhận thức.
8
- Nguyên tắc mâu thuẫn: Cái khởi đầu phải chứa mâu thuẫn cơ bàn của toàn bộ hệ thống.
Bởi vị nếu không hcứ mâu thuẫn cơ bản thì cái khởi đầu không thể phát triển thành hệ

thống và cái cuối cùng không phải là cái khởi đầu được triển khai đầy đủ.
- Nguyên tắc thống nhất tính logic và tính lịch sử: Cái khởi đầu vừa là cái lịch sử đầu tiên,
vừa là cái logic tất yếu; bởi vì phát triển không phải là quá trình diễn ra theo thời gian mà
còn là quá trình kế thừa vượt bỏ những cái ngẫu nhiên để liên tục tiến lên.
Khoa học logic gồm 3 phần, mỗi phần nghiên cứu một trong 3 giai đoạn tương ứng của tư
duy thuần túy trong chính nó. Đó là học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất và học
thuyết về khái niệm.
- Học thuyết về tồn tại: Hêghen vạch ra tính quy định lẫn nhau giữa lượng và chất. Những
thay đổi liên tục về lượng dẫn đến những những biến đổi gián đoạn về chất và ngược lại. Sự
quy định này nói lên cách thức tồn tại của sự vật. Theo Hêghen, tồn tại xuất phát không
phải là là tồn tại hiện hữu mà là tồn tại thuần túy, nghĩa là tồn tại ở một phương diện nhất
định và được đồng nhất với hư vô, tồn tại dẫn đến sinh thành. Quá trình chuyển từ tồn tại
thuần túy sang sinh thành là sự thống nhất giữa chất, lượng trong độ. Chất là tính quy định
bên trong sự vật. Lượng là tính quy định bên ngoài của nó. Độ là sự thống nhất của chất và
lượng với nhau trong sự vật để sự vật là nó. Khi lượng của sự vật thay đổi vượt quá độ, tức
qua điểm nút thì chất này chuyển thành chất khác, tức bước nhảy xảy ra.
- Học thuyết về bản chất: Hêghen vạch ra sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là
nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển của sự vật. Khi nghiên cứu quá trình
vận động phát triển của khái niệm, ông cho rằng, trong bản thân khái niệm vốn có sẵn cái
khác biệt được sinh ra từ cái đồng nhất. Lúc đầu là khác biệt nhỏ, do tích lũy dần dẫn đến
khác biệt cơ bản; từ đây mâu thuẫn hình thành va phát triển dẫn đến chuyển hóa.
- Học thuyết khái niệm: bàn về sự vận động và phát triển của ý niệm tuyệt đối thông qua
hình thức tồn tại chủ quan của nó như khái niệm – phán đoán – suy luận, bàn về thực tiễn,
về chân lý hay ý niệm – sự thống nhất giữa khái niệm và thực tiễn. Hêghen vạch ra con
đường phát triển của khái niệm theo xu hướng phủ định của phủ định, nghĩa là khái niệm
phát triển theo đường xoắn ốc. Ông cho rằng khái niệm không bất động mà nó phải trải qua
các giai đoạn khác nhau của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn trực quan cảm tính với
cảm giác, tri giác, biểu tượng và giai đoạn lý tính với khái niệm, phán đoán, suy lý.
9
2.1.3. Triết học tự nhiên

Đây là học thuyết về giới tự nhiên với tính cách là một dạng tồn tại khác của ý niệm tuyệt
đối dưới dạng các sự vật, vật chất. Hêghen không giải thích ý niệm tuyệt đối chuyển từ nó
sang giới tự nhiên như thế nào và khi nào, mà chỉ nói rằng ý niệm tuyệt đối tồn tại bên
ngoài thời gian, và giới tự nhiên cũng không có khởi đầu trong thời gian. Hêghen cho rằng
quá trình hình thành giới tự nhiên từ ý niệm tuyệt đối đồng thời cũng là quá trình ý niệm
tuyệt đối ngày càng biểu hiện ra thành giới tự nhiên. Thế giới đã được tạo ra, hiện đang
được tạo ra và sẽ vĩnh viễn được tạo ra. Những hình thức chủ yếu của ý niệm tuyệt đối tồn
tại dưới dạng tự nhiên là cơ học, vật lý học, sinh thể học. Hêghen cố gắng trình bày về giới
tự nhiên như một chỉnh thể thống nhất mà trong nó, mọi vật có liên hệ hữu cơ với nhau.
Tuy nhiên do coi giới tự nhiên là sự tha hóa của ý niệm tuyệt đối, mà ông cho rằng bản thân
giới tự nhiên thụ động, khôgn tự vận động, không biến đổi không phát triển theo thời gian
mà chỉ vận động trong không gian.
2.1.4. Triết học tinh thần
Triết học tinh thần bao gồm học thuyết về tinh thần chủ quan, học thuyết về tinh thần khách
quan và học thuyết về tinh thần tuyệt đối.
- Tinh thần chủ quan: thể hiện sự tồn tại của mình trước hết trong linh hồn con người, sau
đó thể hiện trong ý thức để phân biệt với cơ thể, sau cùng nó thể hiện trong tri thức – cái
tinh thần bắt thế giới bên ngoài phục tùng nó.
- Tinh thần khách quan: là sự phủ định biện chứng tinh thần chủ quan. Nó thể hiện tính tự
do của ý niệm tuyệt đối trong pháp quyền; nó lấy tự do ý chí làm nền tảng, lấy ý niệm pháp
quyền và việc thực hiện pháp quyền làm đối tượng. Khi cá nhân pháp lý trở thành chủ thể
đạo đức thì tinh thần khách quan tự phát triển vào lĩnh vực đạo đức. Đạo đức là pháp quyền
của hành vi, nó lấy sự hòa hợp hành vi của các chủ thể làm cơ sở. Tinh thần khách quan
hoàn thành quá trình tự phát triển trong phong hóa. Phong hóa là sự thể hiên jbản tính tự do
của ý niệm tuyệt đối.
- Tinh thần tuyệt đối: là sự thống nhất tinh thần chủ quan và khách quan. Theo Hêghen,
nghệ thuật, tôn giáo, triết học là các phương thức mà ý niệm tuyệt đối sử dụng để tự khám
phá ra chính mình, để rủ bỏ mọi dấu vết vật chất bám vào mình nới trần gian mà quay về
10
với mình, quay về với cái khởi đầu trong tính toàn vẹn và đầy đủ của nó. Trong đó, triết học

là quá trình tự nhận thức đầy đủ và trọn vẹn nhất của ý niệm tuyệt đối trong các hình thức
thể hiện là gia đình, xã hội công dân và nhà nước, trong đó nhà nước là hình thức cao nhất.
2.2. Sự mâu thuẫn lớn trong nội tại của triết học Hêghen
Phép biện chứng Hêghen về thực chất là tích cực và cách mạng, nhưng nó lại bị giam hãm
trong hệ thống triết học duy tâm thần bí của ông. Vì vậy trong triết học Hêghen, bên cạnh
những nội dung biện chứng, tiến bộ, vượt thời đại, khoa học và cách mạng lại có không ít
quan điểm siêu hình, phản động, phản khoa học và báo thủ, tư biện, bản thân nó tự mâu
thuẫn giữa lớp vỏ duy tâm thần bí và hạt nhân biện chứng.
- Lớp vỏ duy tâm thần bí:
Hêghen đã kết luận sai lầm rằng tồn tại thực chất là tư duy. Quan hệ hiện thực đã bị Hêghen
thần bí hoá bị đặt lộn ngược chân lên đầu. Ông cũng phủ nhận sự phát triển trong giới tự
nhiên. Ông bất chấp hay phủ nhận nhiều thành tựu của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ nếu
chúng không dung hợp với ý niệm tuyệt đối. Do coi giới tự nhiên là sự tha hóa của ý niệm
tuyệt đối, mà ông cho rằng, bản thân giới tự nhiên thụ động, không tự vận động, không biến
đổi, không phát triển theo thời gian mà chỉ vận động trong không gian.
Hêghen coi nhà nước Đức, văn minh Đức là đỉnh cao của hiện thân tinh thần tuyệt đối trên
trần gian, là chuẩn mực cuối cùng mà mọi dân tộc trên toàn thế giới phải hướng đến.
Hêghen coi trọng triết học Đức – triết học Hêghen, ý niệm tuyệt đối đã khám phá ra chính
mình từ cái không phải là mình để quay về với chính mình. Do đó, tại đây mọi phát triển
tiếp tục bị chấm dứt. Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử và thiên hướng động hoà với
trật tự xã hội phổ hiện tồn thời đó mà Hêghen đã có những kết luận mâu thuẫn và không
nhất quán. Như vậy, Hêghen đã đặt ra một giới hạn cho sự phát triển của nhân loại kể cả
cho sự phát triển của triết học sau khi tuyên bố rằng học thuyết của mình là sự kết thúc
tuyệt đối hoàn thiện của tư tưởng triết học.
- Hạt nhân biện chứng:
Mặc dù bề ngoài triết học Hêghen trông huyền bí, siêu hình; hạt nhân bên trong lại thể hiện
tính biện chứng rõ ràng. Đó là các quy luật cơ bản của phép biện chứng và các quy luật
không cơ bản- các cặp phạm trù, dựa trên cơ sở mổ xẻ quá trình tự vận động của ý niệm
11
tuyệt đối. Hêghen đã xây dựng các nguyên tắc của logic biện chứng, các quan điểm biện

chứng về nhận thức, ông đặt nền móng cho sự thống nhất giữa phép biện chứng, logic học
và nhận thức luận. Theo ông, nhận thức phải đi từ trừu tượng đến cụ thể, nhận thức lý
thuyết phải thống nhất với hoạt động thực tiễn. Chân lý phải mang tính cụ thể., tính quá
trình và là phù hợp của khái niệm với thực tiễn.
Ông đã cống hiến cho nhân loại phép biện chứng tư duy. Phép biện chứng duy tâm Hêghen
vừa là lý luận biện chứng về sự phát triển của ý niệm vừa là phương pháp luận nghiên cứu
ý niệm. Qua phép biện chứng của ý niệm, ông đã đoán đúng phép biện chứng của sự vật.
Hêghen đòi hỏi khi xem xét lịch sử, khi đánh giá cá nhân thì các nhà triết học phải biết xem
xét trong sự khách quan. Hêghen cũng thấy được tính chất của xã hội, vai trò của lao động,
sự phân công lao động đối với sự phát triển của lịch sử và bản thân con người.
Hêghen quan niệm lịch sử toàn cầu là sự tiến bộ trong nhận thức về tự do. Cho dù bản chất
của tự do có được hiểu khác nhau xong việc thừa nhận nó vẫn trở thành một trong những
tiêu chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo và về sự công bằng xã hội. Đó chính là lý do
tại sao sự quan tâm của nhiều nhà triết học hiện đại đến học thuyết Hêghen trở thành sự
quan tâm có cơ sở sâu sắc và mang ý nghĩa thiết thực.
Ý nghĩa thực sự và tính chất cách mạng của triết học Hêghen chính là ở chỗ nó đã vĩnh viễn
kết liễu tính tối hậu của những kết quả của tư tưởng và của hành động con người.
2.3. Sự cần thiết phải được giải phóng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí của triết học
Hêghen
Với những mâu thuẫn lớn trong nội tại – lớp vỏ bên ngoài mang tính duy tâm, siêu hình
nhưng hạt nhân bên trong lại là nội dung duy vật, chính vẻ siêu hình bề ngoài đã bóp nghẹt
khoa học thành tư biện, giáo điều. Do đó, triết học của Hêghen cần được giải phóng ra khỏi
lớp vỏ duy tâm để nó trở nên hợp lý và có thể phát huy được vai trò nền tảng của sự phát
triển xã hội.
12
CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN ĐỐI
VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
3.1. Bối cảnh ra đời của triết học Mác
3.1.1. Điều kiện kinh tế-xã hội
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó cũng là thời kỳ

Chủ nghĩa Tư bản đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác động của cách mạng công nghiệp.
Sự phát triển của CNTB làm cho những mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản
bộc lộ ngày càng gay gắt, giai cấp vô sản muốn đấu tranh chống lại sự bóc lột của tư sản.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan phải có
lý luận mới, khoa học dẫn đường. Trong khi ấy, có một loạt những lý luận không khoa
học đang tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân. Chẳng hạn như “chủ nghĩa xã hội
tiểu tư sản” - chống CNTB, nhưng đòi thực hiện sở hữu nhỏ, tức là đi ngược lại lịch sử ;
“chủ nghĩa xã hội phong kiến” - chống CNTB nhưng đòi quay trở về chủ nghĩa phong
kiến ; “chủ nghĩa xã hội tư sản” - cho rằng không cần phải đập tan nhà nước tư sản, chỉ
cần sửa chữa nó. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có lý luận mới khoa học ra đời để dẫn
đường cho phong trào công nhân. Sự ra đời của Chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về mặt lý
luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng.
3.1.2. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên
a. Nguồn gốc lý luận
Mác và Ăngghen kế thừa toàn bộ những tinh hoa lý luận của nhân loại từ cổ đại đến thời
đại các ông nhưng trực tiếp là kinh tế - chính trị cổ điển Anh; CNXH không tưởng Pháp
và triết học cổ điển Đức. Với kinh tế - chính trị cổ điển Anh, Mác và Ăngghen đã kế thừa
học thuyết giá trị của A.Xmít và Đ.Ricácđô và vận dụng vào phân tích kinh tế tư bản chủ
nghĩa, chỉ ra nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác và Ăngghen cũng kế thừa Xanh
Ximông, Phuriê ở những luận điểm: cần và có thể đập tan nhà nước tư sản. Với triết học
cổ điển Đức, Mác, Ăngghen khắc phục vỏ duy tâm, thần bí của triết học Hêghen kế thừa
phương pháp biện chứng của ông ta, đặt phương pháp biện chứng này trên nền thế giới
quan duy vật. Đồng thời khắc phục tính siêu hình trong triết học Phoiơbắc, kế thừa chủ
nghĩa duy vật nhân bản của ông và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng phương pháp
13
biện chứng. Đồng thời cả chủ nghĩa duy vật, cả phương pháp biện chứng đều được các
ông nâng lên về chất. Trên cớ sở đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
b. Tiền đề khoa học tự nhiên
Đó là những phát minh khoa học như định luật bảo toàn vật chất và vận động; định luật

bảo toàn và chuyển hoá năng lượng. Hai phát minh khoa học này đã chứng minh tính
thống nhất vật chất của thế giới, đồng thời chỉ ra rằng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế
giới luôn nằm trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thuyết tế bào; thuyết tiến hoá
đã chứng minh sự thống nhất về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh; chỉ ra rằng,
sự sống và sự đa dạng phong phú của các loài sinh, động vật là kết quả tiến hoá tự nhiên,
lâu dài của chính giới tự nhiên. Những phát minh này tạo ra điều kiện, tiền đề cho thế giới
quan duy vật và phương pháp biện chứng ra đời.
Như vậy triết học Mác ra đời là tất yếu lịch sử, tất nhiên phải có những điều kiện chủ
quan như sự thông minh, lòng yêu thương những người lao động của chính Mác và
Ăngghen.
3.2. Vai trò của phép biện chứng duy tâm Hêghen đối với sự ra đời của triết học Mác
3.2.1. Sự vận dụng triết học Hê ghen của Mác
Năm 1841 Mác nhận bằng tiến sỹ và từ đầu 5/1842 – 3/1843 ông làm ở báo Sông Ranh.
Chính thời kỳ làm ở báo Sông Ranh đấu tranh cho dân chủ đã giúp ông chuyển biến bước
đầu từ chủ nghĩa duy tâm và tinh thần dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng
sản chủ nghĩa. Khi báo Sông Ranh bị cấm (từ 1/4/1843) Mác đặt ra cho mình nhiệm vụ
xem xét có phê phán triết học Hêghen về xã hội và nhà nước. Trong thời gian Mác ở
Croixnăc (từ tháng 5 - 10/1843) Mác đã tiến hành phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen, qua đó phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen nói chung. Cuối tháng 10/1843
Mác sang Pari. Tại đây được tiếp xúc với không khí cách mạng Pháp và các đại biểu tiêu
biểu của phong trào công nhân đã giúp Mác chuyển biến dứt khoát sang chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa cộng sản. Các bài báo: Bàn về vấn đề Do Thái; Góp phần phê phán triết
học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu đăng trên tạp chí Niên giám Pháp - Đức tháng
2/1844 đánh dấu quá trình chuyển biến này.
14
Từ 1844 - 1848 là giai đoạn C.Mác và Ph.Ănghen chuyển biến dứt khoát và từng bước
hình hành tư tưởng của mình. Điều này thể hiện ở một loạt tác phẩm như Bản thảo kinh tế
- triết học 1844 - phê phán triết học duy tâm Hêghen, phê phán khoa kinh tế chính trị cổ
điển Anh, tìm nguyên nhân tha hoá con người ở sở hữu tư nhân; Gia đình thần thánh - phê
phán phái Hêghen trẻ, đề xuất một số nguyên lý triết học duy vật của mình; Hệ tư tưởng

Đức - phê phán các hệ tư tưởng Đức bấy giờ, trình bày quan niệm duy vật về lịch sử;
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - đánh dấu sự hình thành chủ nghĩa Mác trên tất cả các
bộ phận cấu thành (triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và kinh tế chính trị học).
Mác và Ăngghen luôn tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng và bổ sung lý luận triết
học của mình. Các tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp ; Ngày mười tám tháng sương mù
của Lui Bônapáctơ; Nội chiến ở Pháp, v.v đã được Mác phát triển nhiều nguyên lý của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, như đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp là một trong
những động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng; tính tất yếu của chuyên chính
vô sản, về thái độ phải đập tan nhà nước tư sản, v.v. Phê phán Cương lĩnh Gôta phát triển
lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, trình bày tư tưởng về hai giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa cộng sản. Chống Đuy-rinh, Biện chứng của tự nhiên, Tư bản, v.v phát triển cụ thể
nhiều vấn đề về phép biện chứng, quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên, phê phán
các quan điểm sai trái; phân tích xã hội tư bản chỉ ra tính tất yếu của sự ra đời nhà nước
vô sản.
Mác đã kế thừa có chọn lọc và phát triển sáng tạo di sản văn hóa nhân loại, nhất là lịch sử
tư tưởng triết học nhân loại, gắn kết với thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản
toàn thế giới và những thành tựu mới của khoa học, gắn kết hữu cơ chủ nghĩa duy vật với
phép biện chứng để tạo nên một học thuyết cách mạng về giải phóng con người, giải
phóng xã hội.
Nguồn gốc lý luận của triết học Marx được hình thành từ học thuyết kinh tế - chính trị cổ
điển Anh, chủ nghã xã hội không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức. Trong đó, đối với
triết học cổ điển Đức, Mác đã kế thừa phương pháp biện chứng của Hêghen, đặt phương
pháp biện chứng này trên nền thế giới quan duy vật, đã khắc phục được lớp vỏ duy tâm
thần bí trong triết học Hêghen.
15
Mác nhìn thấy tầm vóc của "Hiện tượng luận tinh thần" của Hêghen ở chỗ nhà triết học đã
"tóm được bản chất của lao động", hiểu con người "như là sản phẩm của lao động của
chính mình".
Như vậy Mác cùng với cộng sự của mình là Ăngghen đã kế thừa phương pháp biện chứng
từ Ăngghen cũng như chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbách và phát triển lên thành

lý thuyết khoa học có thể áp dụng được vào xã hội lúc bấy giờ.
3.2.2. Sự cải tạo triết học Hêghen của Mác
Mác đã sinh ra trong một bầu không khí văn hóa chính trị, xã hội có những biến đổi xáo
trộn về trật tự xã hội, có sự hình thành manh nha những ý tưởng xã hội triết lý cách mạng.
Sự nghiệp của Mác là tiếp nhận những cái "tích cực" của những người đi trước để thiết
lập một chủ nghĩa đã và còn đang tác dụng lớn lao vào lịch sử.
Mác đã khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng
trong triết học trước đó, Mác và Ăngghen đã tạo ra sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa
duy vật và phương pháp biện chứng là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đây là bước phát
triển cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.
Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cho triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen trở nên
triệt để. Trước khi triết học Mác ra đời chưa có một nhà triết học nào giải thích được một
cách duy vật lĩnh vực lịch sử - xã hội - tinh thần. Triết học Mác ra đời đã khắc phục được
những hạn chế này.
Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác và
Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn. Triết học của hai
ông trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ. Triết học của
hai ông đã gắn bó với phong trào cách mạng của giai cấp vô sản, còn phong trào vô sản
cần đến sự chỉ đường, dẫn dắt của triết học này.
Với sự ra đời của triết học Mác, Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa triết học
với các khoa học cụ thể. Trước khi triết học Mác ra đời thì triết học hoặc là đối lập với
các khoa học cụ thể, hoặc là hoà tan vào nó. Từ khi triết học Mác ra đời thì quan hệ giữa
triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau.
Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các thông số, dữ liệu khoa học, tài liệu
16
khoa học để triết học Mác khái quát, còn triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương
pháp luận chung nhất cho các khoa học cụ thể.
Marx lấy lại của Hêghen phương pháp biện chứng, cải biến nó từ một phương pháp biện
chứng duy tâm thành phương pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật. Sở dĩ Marx thực
hiện được một cuộc biến chất như vậy chính là vì trong phép biện chứng của Hêghen đã

có một cơ sở chân lý, đó chính là cái hạt nhân duy lý, tức là cái phương pháp nêu mâu
thuẫn trong mọi khái niệm và suy diễn cuộc biến chuyển theo quá trình phát triển mâu
thuẫn. Hêghen đã vận dụng phương pháp nêu mâu thuẫn đó một cách lộn ngược, chân cho
lên trên, đầu để xuống dưới; lẽ ra phải thấy rằng do mâu thuẫn nội tại mà vật chất luôn
luôn biến chuyển, và đến một trình độ nào đó mới phát sinh ra tinh thần, thì Hêghen lại
cho rằng nguồn gốc mâu thuẫn là hoạt động của tinh thần.
Hêghen đã rút ra một kết luận sai lầm rằng tồn tại thực chất là tư duy. Quan hệ hiện thực
đã bị Hêghen thần bí hoá bị đặt lộn ngược chân lên đầu. Mác không những đã chỉ phê
phán một cách sâu sắc phép biện chứng của Hêghen mà còn cải tạo phép biện chứng đó
xây dựng nên phép biện chứng duy vật duy nhất và thực sự khoa học với mẫu mực tuyệt
vời của nó là tác phẩm chủ yếu của ông - bộ "Tư bản". C.Mác viết: "Tính chất thần bí mà
phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở
thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động
chung của phép biện chứng ấy ở Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất.
Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ
thần bí.
17
KẾT LUẬN
Như vậy, triết học của Hêghen được biết đến dưới hình thức bề ngoài là duy tâm, siêu
hình, cản trở sự phát triển của các lý thuyết khoa học, làm cho các lý thuyết khoa học trở
nên tư biện. Mặc dù hình thức bề ngoài còn nhiều hạn chế như vậy nhưng bên trong nội
dung triết học Hêghen lại chứa đựng một nền tảng biện chứng vững vàng. Do đó, chỉ cần
được giải phóng ra khỏi lớp vỏ thần bí kia thì triết học Hêghen sẽ phát huy được vai trò
của nó đối với thời đại. Và chính Mác đã làm được điều đó một cách hoàn chỉnh.
Mác đã sinh ra trong một bầu không khí văn hóa chính trị, xã hội có những biến đổi xáo
trộn về trật tự xã hội, có sự hình thành manh nha những ý tưởng xã hội triết lý cách mạng.
Sự nghiệp của Mác là tiếp nhận những cái "tích cực" của những người đi trước để thiết
lập một chủ nghĩa đã và còn đang tác dụng lớn lao vào lịch sử.
Cuộc cách mạng trong triết học do Mác và người bạn đồng hành Ăngghen thực hiện có ý
nghĩa hết sức to lớn, đó là làm cho triết học thay đổi cả về vai trò, vị trí, chức năng trong

hệ thống tri thức khoa học; làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở trở thành khoa
học và làm cho triết học Mác trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ts. Bùi Văn Mưa (Chủ biên), TS. Trần Nguyên Ký, PGS TS. Lê Thanh Sinh, TS.
Nguyễn Ngọc Thu, TS. Bùi Bá Linh – TS. Bùi Xuân Thanh, Triết học phần I – Đại cương
về lịch sử triết học, Lưu hành nội bộ, 2011
2. Bộ GDĐT, Giáo trình triết học Mác - Lênin, NXB Chính Trị Quốc Gia, 2004
3. Lê Công Nam, Tiểu luận triết học – Đề tài “Phép biện chứng duy tâm Hêghen – Những
giá trị và hạn chế”, Tp. HCM, 2012
4. Đinh Ngọc Thạch, Tính sáng tạo của triết học Mác – Thực chất và ý nghĩa lịch sử, Tạp
chí triết học (Số 7), tháng 7 – 2008
5. Nguyễn Văn Trung, Hành trình trí thức của Karl Marx, NXB Nam Sơn, 1969
6. Friedrich Ăngghen, LÚT-VÍCH PHOI-Ơ-BẮC VÀ SỰ CÁO CHUNG CỦA TRIẾT
HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC, tạp chí Die Neue Zeit, số 4 và 5; Nguyên văn bằng tiếng Đức; Bản
dịch trong C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 21, NXB Chính Trị Quốc Gia, 1999
19
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU Trang 1
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN Trang 2
1.1. Hêghen và xã hội Đức vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX Trang 2
1.1.1. Hêghen (1770 – 1831) Trang 2
1.1.2. Xã hội nước Đức cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX Trang 2
1.2. Triết học cổ điển Đức Trang 3
1.3. Sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm biện chứng Trang 4
CHƯƠNG II: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN Trang 5
2.1. Nội dung cốt lõi của triết học Hêghen Trang 5
2.1.1. Hiện tượng luận tinh thần Trang 6
2.1.2. Khoa học logic Trang 7

2.1.3. Triết học tự nhiên Trang 9
2.1.4. Triết học tinh thần Trang 9
2.2. Sự mâu thuẫn lớn trong nội tại của triết học Hêghen Trang 10
2.3. Sự cần thiết phải được giải phóng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí của triết học
Hêghen Trang 11
CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN ĐỐI
VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC Trang 12
3.1. Bối cảnh ra đời của triết học Mác Trang 12
3.1.1. Điều kiện kinh tế-xã hội Trang 12
3.1.2. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên Trang 12
3.2. Vai trò của phép biện chứng duy tâm Hêghen đối với sự ra đời của triết học Mác-
Trang 13
3.2.1. Sự vận dụng triết học Hê ghen của Mác Trang 13
3.2.2. Sự cải tạo triết học Hêghen của Mác Trang 15
KẾT LUẬN Trang 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang 18
20

×