Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

hướng dẫn học sinh phương pháp học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn toán 6 của học sinh lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.49 KB, 16 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Theo nghiên cứu của các nhà tâm lí học thì hơn 90 % người học học tốt là
do học tập chăm chỉ, có phương pháp học tập khoa học, phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh của họ. Thực tế cho thấy nhiều em học sinh rất chịu khó học bài nhưng kết
quả học tập vẫn không cao (đặc biệt, các em học sinh vùng khó khăn thì việc học
tập ở nhà lại càng không được chú ý nhiều) phải chăng do tố chất của các em không
thể học tốt đươc hay vì điều kiện hoàn cảnh, mức độ nhận thức của các em và của
gia đình? Trước thực tế đó, tôi đã tiến hành nghiên cứu thực trạng và đưa ra giải
pháp giúp các em học tập hiệu quả hơn.
Một trong những mấu chốt quan trọng của việc học tốt là phương pháp học
phù hợp với từng học sinh. Vậy làm thế nào để mỗi học sinh, có một phương pháp
học tập phù hợp với mình để việc học tập thật sự nhẹ nhàng mà lại hiệu quả cao?
Để trả lời câu hỏi này, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh
phương pháp học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán 6 của học sinh
lớp 6” để nghiên cứu, làm tài liệu áp dụng vào việc dạy học giúp học sinh học tập
tốt hơn.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Có một điều mà tất cả các nhà nghiên cứu tâm lí học trong và ngoài nước có
thể khẳng định rằng: tất cả mọi người giáo viên không phải ai cũng có năng lực sư
phạm. Chính vì vậy, khi đã là một người giáo viên thì mỗi người đều phải tự trau
dồi kiến thức, rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên không ngừng để đáp
được nhu cầu học tập của xã hội trong thời đại ngày càng phát triển như hiện nay.
Tìm hiểu tâm lí của học sinh trung học cơ sở thông qua các hoạt động, trong
việc học tập các em đã ghi nhớ tài liệu học tập như thế nào? Quá trình nhận thức lý
tính tư duy và tưởng tượng ở học sinh được hình thành như thế nào? Các em đã
1
thực sự chú ý trong học tập hay chưa? Nắm bắt được tất cả những thắc mắc trên
thì sẽ giúp một phần không nhỏ cho người giáo viên vững vàng hơn, tự tin hơn khi
nhìn lại phương pháp giảng dạy của mình.
Học sinh vùng khó khăn thì việc học tập của các em thường không được


các bậc phụ huynh quan tâm hoặc có quan tâm thì cũng không biết quan tâm sao
cho đúng cách, hơn nữa bản thân các em cũng chưa thực sự cố gắng, chưa có sự nỗ
lực vượt bậc do nhận thức của các em cũng như nhận thức của các bậc phụ huynh
còn chưa đầy đủ.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Để quá trình đi từ lí thuyết đến thực hành được trọn vẹn, tôi đã được Ban
Giám hiệu Nhà trường hết sức tạo điều kiện thuận lợi và sự hợp tác của các em học
sinh khối 6 giúp tôi hoàn thành đề tài này.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài này là khả năng học tập môn
Toán của học sinh khối 6 - Trường THCS xxx
IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Việc vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh
và trao đổi, thảo luận giúp học sinh tự tìm cho mình một phương pháp học tập khoa
học, phù hợp với bản thân mình có thể nâng cao được kết quả học tập môn toán của
học sinh đạt kết quả cao nhất.
Học sinh lứa tuổi THCS là lứa tuổi rất hiếu động, ham chơi, chưa ý thức
thực sự và thấy được tầm quan trọng của việc học tập. Nhiều em chưa tập trung chú
ý nghe giảng, chưa thật sự chăm chỉ và dành nhiều thời gian cho việc học của mình,
do đó kết quả học tập chưa cao.
Phương pháp học chưa khoa học, do vậy ghi nhớ được bài học ngay trên lớp
là điều quan trọng nhất để đạt được kết quả cao trong học tập.
2
Trong đề tài này tôi xin đưa ra một số phương pháp giúp học sinh học tập
một cách hiệu quả. Đây là vấn đề cấp thiết cần làm ngay để đạt được hiệu quả thật
sự trong việc học tập của các em.
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Ở các trường trung học, nhiệm vụ chính của các em học sinh là hoạt động
học tập. Hoạt động học tập của các em chính là kết quả đánh giá chính xác nhất
hoạt động giảng dạy của giáo viên. Do đó, để đưa đến một kết quả tốt trong học tập
của các em học sinh thì trách nhiệm phần lớn phụ thuộc vào chính người giáo viên

trong công tác giảng dạy của mình. Người giáo viên không chỉ đơn thuần lên lớp
dạy cho xong bài học của mình theo phân môn, mà người giáo viên trong giờ dạy
của mình phải nắm bắt được khả năng tiếp thu của các em trong lớp, kể cả các em
học kém đến các em khá giỏi. Đặt ra yêu cầu giảng dạy để kết quả học tập từ các
em học sinh kém đến các em khá giỏi đều có khả năng ghi nhớ được tài liệu bài học
hôm nay và là lôi cuốn được sự chú ý của các em vào bài học. Từ sự chú ý và ghi
nhớ đó thì giáo viên mới đặt ra yêu cầu cao hơn là giúp học sinh nhận thức sâu hơn
về bài học. Từ đó, tạo cho các em thói quen học tập và ghi nhớ kiến thức ngay tại
lớp sẽ đạt kết quả tốt hơn.
Chính nhờ sự nhận thức được điều đó mà tôi đã tập trung tìm hiểu, quan sát
các em thông qua các tiết giảng dạy và dự giờ trực tiếp của mình, thông qua các tiết
học của các em. Nhờ sự quan sát trong các giờ như vậy, tôi nhận thấy:
Trong một lớp hay trong một môn học nhất định thì có bao nhiêu em có sự
tập trung chú ý cao vào môn học, bao nhiêu em chưa thật sự chú ý, số em tự cố
gắng để ghi nhớ tài liệu học tập của mình thông qua bài giảng của giáo viên ngay
tại lớp và bao nhiêu em ngoài sự tập trung chú ý ghi nhớ để rồi cố gắng đi sâu hơn
vào bài học bằng những câu hỏi thắc mắc xoay quanh vào bài học. Sau các giờ học
tôi luôn ở lại lớp để tiếp xúc và xem khả năng phần trăm học sinh trong lớp nắm
bắt được bài học và số còn lại tại sao chưa chiếm lĩnh được những tri thức sau bài
3
giảng của giáo viên. Từ thực tế cụ thể đó, tôi đã tìm ra nhiệm vụ nghiên cứu để
hoàn thành đề tài khoa học mà tôi đang nghiên cứu
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Có thể nói phương pháp dạy học thích hợp với tâm lí học sinh để có kết quả
cao hơn đang là vấn đề nổi cộm ở các trường học hiện nay, mà cụ thể là trường
THCS xxx và cũng đang là một câu hỏi lớn đặt ra cho nền giáo dục nước ta. Do
vậy, khi chọn đề tài này tôi đã cố gắng đề ra cho mình những phương pháp nghiên
cứu về một đối tượng nào đó cụ thể. Cũng như tất cả các đề tài khác, khi bắt đầu
nghiên cứu về một đối tượng nào đó người ta thường xây dựng cho mình các
phương án sao cho sát thực, phù hợp với đối tượng để thu được những thông tin

hữu hiệu, cần thiết để hoàn chỉnh đề tài của mình. Với đề tài này tôi đã xây dựng
cho mình kế hoạch và phương pháp nghiên cứu như sau:
1/ Phương pháp quan sát
Quan sát là hình thức cảm tính tích cực nhằm thu thập sự kiện, hình thành
những biểu tượng ban đầu về đối tượng cần quan sát về thế giới xung quanh và về
những vấn đề có liên quan đến đối tượng đó.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này cần phải quan sat thường xuyên, quan
sát tổng thể những biểu hiện của các em trong việc học tập và diễn biến tâm lí để
tạo ra hiện tượng tâm lí cần thấy được ở học sinh.
2/ Phương pháp điều tra
Điều tra thông qua câu hỏi trắc nghiệm đã giúp tôi hệ thống chính xác hơn
về khả năng ghi nhớ, học tập của học sinh. Phiếu điều tra đã giúp tôi có một số liệu
cụ thể hơn cho đề tài khoa học mà tôi đang nghiên cứu.
Ngoài hai phương pháp trên tôi còn sử dụng kết hợp với một số phương
pháp khác như: Phương pháp thống kê, Phương pháp phân tích để tìm hiểu kĩ hơn,
sâu hơn vào tâm lí học sinh.
4
Trong quá trình sử dụng các phương pháp này, tôi thấy cần phải vận dụng
một cách linh hoạt, kết hợp các phương pháp với nhau một cách hợp lí. Vì không
có phương pháp nào là toàn năng nên nếu sử dụng từng phương pháp riêng thì sẽ
không đạt được hiệu quả cao trong công tác dạy và học.
5
PHẦN II. NỘI DUNG
I. ĐẶC ĐIỂM HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Trong cuộc sống hiện nay, xã hội chúng ta ngày càng phát triển và tiến bộ
thì những biến đổi về cơ thể cũng như suy nghĩ của các em học sinh cũng phát triển
và đến sớm hơn. Trên thực tế, đa số các em học sinh đến trường THCS đã bước vào
tuổi thiếu niên nên người ta còn gọi tuổi này là tuổi thiếu niên.
Đây là thời kỳ phức tạp và quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi cá
nhân. Thời kỳ này có một vị trí đặc biệt, vì nó là thời kỳ truyển tiếp từ tuổi thơ sang

tuổi trưởng thành. Sự chuyển tiếp tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt đặc thù
về mọi mặt ở thời kì này. Trước hết là sự phát triển nhảy vọt về mặt giải phẫu sinh
lí tạo nên một sự mất cân bằng tạm thời giữa các chức năng sinh lí. Do đó cũng hay
gây ra sự mất cân bằng tạm thời về tâm lí.
Sự phát triển mạnh mẽ của hưng phấn thần kinh tạo ra một sự mất cân bằng
tạm thời so với sự phát triển của cơ thể, có sự mất cân đối giữa phần dưới vỏ não
(có xu hướng phát triển nhanh hơn và mãnh liệt hơn) so với hoạt động của vỏ não.
Từ đó cũng dẫn đến sự mất cân bằng tạm thời giữa hai hệ thống tín hiệu.
Việc học tập ở trường THCS là một bước ngoặt trong đời sống của các em
mà điểm đầu của bước ngoặt đó là khi các em bước vào lớp 6. Các em được tiếp
cận với nhiều kiến thức hơn của nhiều môn học khác nhau và với những giáo viên
có những phong cách giảng dạy, có thái độ và yêu cầu khác nhau đối với học
sinh Các em phải thích nghi với những yêu cầu mới và khác nhau của giáo viên.
Ban đầu, sự thay đổi này sẽ tạo ra những khó khăn nhất định cho các em. Nhưng
mặt khác, nó cũng tạo ra điều kiện để cho các em phát triển dần phương thức nhận
thức người khác.
Ở tuổi này, khả năng cảm giác, tri giác đã đạt tới trình độ phát triển gần như
người lớn. Tri giác có chủ định phát triển mạnh mẽ và thể hiện ở chỗ các em đã có
6
khả năng tự đặt cho mình mục đích, kế hoạch và nhiệm vụ quan sát, biết phân tích
tổng hợp đối tượng tri giác có chủ định. Trong một số trường hợp, các em có thể tri
giác phân biệt một cách tinh tế, sâu sắc về mọi mặt.
Về trí nhớ của học sinh: dần dần mang tính chất của những quá trình có
điều kiện, điều chỉnh và có tổ chức. Trong ghi nhớ, các em thiết lập được các mối
liên hệ phức tạp hơn, gắn tài liệu mới với tài liệu cũ, biết liên hệ tri thức giữa các
môn học. Nhưng tiến bộ đáng kể là các em có khả năng ghi nhớ có ý nghĩa. Tùy
theo yêu cầu, nhiệm vụ của bài học các em biết chọn cách ghi nhớ lâu hơn, đúng
hơn.
Mặc dù có khả năng ghi nhớ có ý nghĩa, nhưng các em vẫn tùy tiện trong
việc ghi nhớ: khi gặp khó khăn là các em lại từ bỏ việc ghi nhớ có ý nghĩa. Đồng

thời các em lại chưa hiểu đúng việc ghi nhớ máy móc, coi đó là “học vẹt”, coi
thường việc ghi nhớ chính xác. Do vậy, không phải lúc nào các em cũng nhớ đúng
các tài liệu cần nhớ chính xác. Vì thế, giáo viên cần chú ý giúp các em kêt hợp cả
hai cách ghi nhớ (Ghi nhớ máy móc và ghi nhớ có ý nghĩa) trong mỗi môn học, là
môn Toán.
Về chú ý của học sinh: các em có khả năng tập trung làm việc nghiêm chỉnh
nếu các em thấy vấn đề cần thiết và hứng thú. Khối lượng chú ý, khả năng di
chuyển chú ý của các em cũng tăng rõ rệt. Do vậy, cần tổ chức giờ học sao cho nó
có nội dung đòi hỏi học sinh hoạt động nhận thức tích cực.
Về tư duy của học sinh: Ở tuổi thiếu niên, tư duy nói chung, tư duy trừu
tượng nói riêng phát triển mạnh là một đặc điểm cơ bản của hoạt động tư duy ở
thiếu niên. Ở tuổi này, tính phê phán của tư duy cũng được phát triển, các em biết
lập luận giải quyết vấn đề một cách có căn cứ. Các em không thể tin như lúc nhỏ
mà đòi hỏi phải có chứng minh, có căn cứ rồi mới tiếp thu. Nhưng không phải lúc
nào tư duy của các em cũng là sự suy nghĩ có phê phán. Nếu suy nghĩ của các em
chủ yếu là nghi ngờ, tranh cãi không có căn cứ, bướng bỉnh thì phải khắc phục.
7
Những đặc điểm lứa tuổi trong tâm sịnh lí và trong hoạt động nhận thức nói
trên là những đặc điểm bình thường có thể có ở lứa tuổi này, còn những đặc điểm
ấy có xuất hiện hay không? Xuất hiện đến mức nào? là tùy thuộc vào việc tổ chức
hoạt động học tập và hoạt động dạy học của giáo viên đối với các em.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Trường THCS xxx nằm trên đại bàn dân cư có thu thấp thấp, kinh tế còn
nhiều khó khăn, nhận thức của các bậc phụ huynh về việc học tập của con em mình
còn rất hạn chế, nhận thức của bản thân các em học sinh còn chưa đầy đủ nên việc
học tập của các em chưa đạt kết quả cao.
Trong giờ học các em còn chưa thật sự chú ý vào bài học, về nhà các em
không chịu khó học và làm bài về nhà, chưa chuyên cần trong học tập
Do vậy, đưa ra được phương pháp dạy và học một cách hợp lí nhất đối với
từng đối tượng học sinh là một vấn đề cấp bách nhằm đưa nền giáo dục của nước ta

nói chung, của huyện nhà cũng như của nhà trường nói riêng ngày một đi lên.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Nghiên cứu
+ Đặc điểm tâm lí lứa tuổi
Với người lớn tuổi, kinh nghiệm sống, sự thông thái và kĩ năng giải quyết
vấn đề thực tiễn cao, tư duy con đường tích hợp tốt, tồn tại nhiều loại năng lực trí
tuệ khác nhau, ghi nhớ chậm nhưng hình ảnh ghi nhớ bền.
Với lứa tuổi học sinh ( 11 - 15 tuổi) thì đây là lứa tuổi rất hiếu động, tò mò,
khả năng phán đoán phân tích còn yếu, tư duy cụ thể dựa vào khả năng tri giác
nhiều, quá trình ghi nhớ diễn ra nhanh nhưng lại chóng quên.
+ Thời gian đồng hồ sinh học của con người:
8
Theo kinh nghiệm bản thân và kết hợp điều tra cho thấy khoảng thời gian
ghi nhớ tốt nhất là vào buổi sáng:
+ Tâm thế ghi nhớ
Khả năng chú ý có vai trò rất lớn trong quá trình ghi nhớ. Tôi đã đặt câu hỏi
trắc nghiệm trong quá trình ghi nhớ như sau: Nếu cho em một cuốn chuyện hay, dài
khoảng 20 trang mà em rất thích, đọc xong em có nhớ không? Nếu đang đọc dở mà
em phải ngừng đọc thì em có tiếp tục cố gắng trong thời gian ngắn nhất lại tiếp tục
đọc không?
40/45 học sinh trả lời: Có chiếm 88,9 %
5/45 học sinh trả lời là Không chiếm 11,1%
Vậy, cho em một công thức toán hay một bài địa lí em có chắc chắn chỉ đọc
1 - 2 lần là thuộc và nhớ không? Đang học dở buộc phải ngừng em có tìm mọi
cách để tiếp tục học không? ( chưa yêu cầu kiểm tra ngay)
45/45 em ( 100%) trả lời là Không
Từ kết quả nghiên cứu trên, tôi phân tích và tiến hành các biện pháp cụ thể:
1) Hướng dẫn ghi nhớ cho lớp
Khi học trên lớp ở mỗi tiết học, các em nên có ý thức thành lập thói quen tự
học bài ngay trên lớp, không nên có tư tưởng chỉ cần ghi chép đầy đủ về học lại.

Vì, nếu chỉ cần ghi chép đầy đủ về nhà học là được thì chỉ cần có SGK và không
cần đến lớp nữa.
Trong giờ học, những lời giảng bài của giáo viên tác động đến thính giác,
điệu bộ, cử chỉ tác động vào thị giác giúp cho quá trình ghi nhớ dễ dàng hơn. Mặt
khác, có ý thức thuộc bài tại lớp thì sự tập trung chú ý sẽ cao hơn và năng lực ghi
nhớ sẽ tốt hơn.
9
Ví dụ: Với giờ học Toán, học sinh phải hiểu và ghi nhớ tại lớp các định lí,
tính chất phương pháp giải từng dạng bài, từng kiểu bài.
Khi ở trên lớp, để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ giáo viên cần phải làm nổi bật
từng phần, từng nội dung nhỏ của bài bằng cách cho học sinh tự tìm tòi khám phá
dưới sự hướng dẫn của giáo viên, Sau mỗi nội dung đó giáo viên cần tiểu kết cho
học sinh và ra bài tập để học sinh tự vận dụng kiến thức vào làm bài tập. Sau toàn
bài, giáo cần chốt lại nội dung bài học cho học sinh luyện tập củng cố vận dụng
kiến thức vừa học để làm bài tập tổng hợp (vừa sức). Trong tiết học, cần có ít nhất
một hoạt động nhóm để tạo điều kiện cho học sinh tự học tập lẫn nhau cũng như có
cơ hội dạy lại cho người khác. Đây là điều cực kì quan trọng để học sinh hiểu sâu
bài học và gây hứng thú học tập cho các em. Có thể cho điểm để gây hứng thú cho
các em học tập hiệu quả, dễ thu được kết quả tốt.
2) Hướng dẫn tự học ở nhà ( học bài cũ)
Khoa học đã chứng minh, một vấn đề hoàn toàn mới được đề cập nếu sau
48 tiếng đồng hồ không hề nhắc lại cũng như không hề nhớ đến thì nó sẽ tự mất đi,
khi con người nhắc đến nó thì lại như mới.
Qua tìm hiểu tôi thấy 45/45 học sinh khối 6 trường THCS xxx có cách học
là: hôm sau có môn học nào thì tối hôm đó các em mới lấy sách ra học để chuẩn bị
bài cho hôm sau và các em lại thấy kiến thức như mới (Thường thì học sinh của
nhà trường chỉ học vào các buổi tối). Cho nên rất khó khăn để các em vận dụng
kiến thức để làm được các bài tập thầy giáo giao về nhà.
Do vậy, tôi hướng dẫn học sinh việc tự học ở nhà đối với môn Toán cũng
như các môn khác, đó là: trong một buổi tối tự học ở nhà, các em nên học ít nhất là

2 tiếng đồng hồ và chia làm hai phần học một cách rõ ràng.
- Phần 1: Hiểu lại
10
Sau mỗi buổi học trên lớp, khi về nhà các em nên xem lại toàn bộ bài học
hôm đó, có thể làm một số bài tập đơn giản hoặc làm lại các bài tập trên lớp để các
em nhớ được và hiểu hơn về bài học. Việc làm này rất nhẹ nhàng, chỉ cần 15-20
phút thôi nhưng rất hiệu quả.
- Phần 2: Chuẩn bị bài cũ
Học sinh xem hôm sau có những môn học nào thì lấy những môn đó ra học,
làm bài tập và chuẩn bị đồ dùng đầy đủ.
Với đặc điểm học sinh tập trung theo từng khu vực tôi có định hướng cho
các em theo cách học nhóm: trước hết mỗi em tự học độc lập sau đó các em cùng
tập trung để đối chiếu, trao đổi, thảo luận bài làm của mỗi em, Cách học này các
em rất hứng thú vì các em vừa được tự mình làm bài tập, vừa được trao đổi, thảo
luận và dạy lại cho bạn, rất thoải mái, không gò bó đồng thời khả năng khẳng định
mình cũng như tâm lí xấu hổ sẽ giúp các em có tâm lí học tập tốt hơn, vì vậy kết
quả sẽ cao hơn.
Phân bố thời gian biểu học tập, việc xắp sếp lịch học, môn học cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến kết quả ghi nhớ học tập của các em. Việc phân bố quỹ thời
gian học tập nên như sau:
Buổi chiều hoặc đầu giờ học tối: dành 10 - 15 phút cho bài vừa học trên lớp
(học lại). Đọc nội dung bài ngày mai để phận loại bài khó, dễ, thời lượng. Làm bài
tập tóm tắt nội dung bài bằng sơ đồ. Đọc qua một lượt bài học thuộc lòng trước khi
đi ngủ.
Sáng sớm: dậy sớm dành 30 - 40 phút học các bài thược lòng, ghi nhớ định
lí chuẩn bị cho bài học hôm đó.
Việc phân bố thời gian như vậy phù hợp với đặc điểm sinh học của con
người và đặc trưng môn học.
3) Đọc ghi nhớ tài liệu sách giáo khoa, sách tham khảo:
11

100% các em đọc truyện dài mà vẫn ghi nhớ được nội dung, vẫn nhớ được
từng chi tiết nhỏ trong khoảng thời gian dài nhiều tháng, nhiều năm, thậm chí là cả
cuộc đời con người. Sở dĩ có quá trình ghi nhớ kéo dài là vì người đọc dồn hết tâm
trí, tư tưởng, tình cảm theo dõi trình tự diễn biến của câu chuyện vì nó cuốn hút.
Thế là ta giải mã được để ghi nhớ một cách nhanh chóng và bền lâu thì cần tập
trung chú ý cao độ kể cả tư duy tưởng tượng, tình cảm.
Từ thực tế đó tôi suy nghĩ: làm thế nào để khi đọc SGK, tài liệu tham khảo,
quá trình ghi nhớ của các em được nhanh chóng mà lại bền lâu?
Vì trong xu thế đổi mới hiện nay, vai trò tự học của các em là rất lớn, các
em là người tiếp thu tri thức một cách chủ động, tự giác, sáng tạo. Mặt khác, cuộc
sống đòi hỏi các em phải tự biết vận dụng kĩ năng, kiến thức học được để giải quyết
các vấn đề của cuộc sống.
Vậy nên, việc tự đọc tài liệu nâng cao, bổ sung cho kiến thức SGK là rất
cần thiết.
Việc đọc sách tham khảo không phải là công việc thường xuyên của mọi
học sinh. Đại bộ phận học sinh Trung học Cơ sở hiện nay ngại đọc sách, trừ vài
quyển sách bài mẫu giải sẵn đọc để chép vào vở. Thế thì làm thế nào để các em đỡ
ngại đọc sách?
Trước hết cần gần gũi các em, trò chuyện tâm tình để các em tự nói ra
những suy nghĩ, khó khăn vướng mắc của mình về học tập, về các vấn đề khác
trong cuộc sống tạo niềm tin cho các em. Dần dần các em thấy mình là người thầy,
người bạn gần gũi thân thiết sẽ mạnh dạn học hỏi, tiếp xúc, đồng thời lắng nghe
tiếp thu những góp ý hướng dẫn chỉ bảo. Từ đó, tôi có hướng cho các em nên đọc
sách tham khảo để bổ sung kiến thức. Có em đã nói: “Em cũng rất thích đọc nhưng
nhiều lúc không hiểu, đọc không vào, không nhập tâm”. Trước những băn khoăn đó
của các em, tôi đã hướng dẫn các em phương pháp đọc sách. Việc làm này đòi hỏi
phải thường xuyên, liên tục, kiên trì
12
Khi học sinh được đọc, được vận dụng các kiến thức mà mình tự khám phá
nâng cao, ghi nhớ thì sẽ rất tự tin khi tiếp thu. Để duy trì tốt nề nếp, chất lượng,

hiệu quả của công việc này người giáo viên cần tổ chức các hoạt động ngoại khóa
có liên quan đến việc tự đọc tài liệu ghi nhớ của các em.
Từ thực trạng và giải pháp trên, tôi đã đưa ra 6 yêu cầu cho việc học tốt đối
với học sinh như sau:
1) Vạch kế hoạch: học tập và làm việc có hệ thống, nghiên cứu điều gì nên
làm trước, điều gì nên làm sau.
2) Học vào lúc nào cảm thấy có lợi nhất cho môn học
3) Hiểu rõ các ghi chép, tìm ra ý tưởng quan trọng mà thầy cô đã nhấn
mạnh, lưu ý các “Chú ý”
4) Học một cách chủ động, không nên “học như vẹt”
5) Ghi chú cẩn thận, ghi ngắn, đủ, dễ hiểu.
6) Luôn học tại bàn.
IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM VÀ BÀI HỌC
Thời gian tôi dạy tại trường THCS xxx là 5 năm. Thời gian đó tuy chưa
dài nhưng cũng đã giúp tôi “vỡ vạc” ra nhiều điều.
Về công tác giảng dạy: để giảng dạy đạt kết quả cao thì không chỉ soạn bài
tốt, giảng bài hay, chuẩn bị bài chu đáo của giáo viên mà cần sự nỗ lực hăng hái
trong học tập của học sinh. Để làm được điều đó thì không có việc gì ngoài nắm rõ
tâm lí, năng lực, phong trào học tập của các em học sinh trong lớp để có hình thức
tổ chức học tập, phương pháp học tập khoa học nhất cho từng đối tượng học sinh.
Đối với học sinh khối 6 trường THCS xxx , qua gần một năm tôi trực tiếp
giảng dạy môn Toán, thực nghiệm đã chứng minh việc áp dụng đề tài của tôi đã có
hiệu quả. Kết quả cụ thể:
13
+ Các tiết học môn Toán rất sôi nổi, học sinh tích cực phát biểu ý kiến xây
dựng bài.
+ 100% học sinh khối 6 được hỏi đều trả lời: Thích học môn Toán
+ Số học sinh kiểm tra định kỳ đạt điểm khá - giỏi tăng đáng kể so với cùng
kỳ của học kỳ I:
- Bài kiểm tra số 1 học kỳ I có 5 điểm khá - giỏi

- Bài kiểm tra số 2 học kỳ I có 10 điểm khá - giỏi
- Bài kiểm tra số 3 học kỳ I có 12 điểm khá - giỏi
- Bài kiểm tra số 1 của học kỳ II có 13 điểm khá - giỏi
- Bài kiểm tra số 2 của học kỳ II có 22 điểm khá - giỏi
- Bài kiểm tra số 3 của học kỳ II có 16 điểm khá - giỏi
14
PHẦN III: KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Việc học ngày nay bao gồm học chữ, học nghề, học làm người, tự học đã
trở thành một yêu cầu khách quan. Người thầy phải dạy cho học sinh tính chủ
động, sáng tạo, dạy cho học sinh cách thức tự học, học sinh phải rèn luyện ý chí, tự
mình tiếp cận tri thức, tự mình kiểm tra đánh giá và điều chỉnh nhận thức của mình.
Vì những yêu cầu cấp bách trên của đời sống thực tế, từ những băn khoăn
khi đứng trước công tác giảng dạy đầy vinh dự và trách nhiệm lớn lao cùng với
việc tìm tòi áp dụng những biện pháp riêng của mình nhằm nâng cao chất lượng
học tập của học sinh. Sau một thời gian tự nghiên cứu, áp dụng đã phần nào thu
được kết quả đáng mừng, các em đã yêu thích việc tự học, tự đọc sách, không còn
sợ những giờ kiểm tra, không khí học tập sôi nổi, từ đó kết quả học tập của các em
đã được nâng cao.
Bản thân tôi qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu để hoàn thành đề tài này, tôi
đã tự rút ra được đặc điểm về tâm lí học sinh THCS, đó là một điều kiện tốt cho tôi
trong quá trình dạy học và công tác chủ nhiệm. Và hơn là đề tài này là công cụ đắc
lực để giúp tôi hiểu nghề, yêu nghề và thực hiện được mong muốn có thể giúp học
sinh tự khám phá, tự trang bị cho mình vốn kiến thức làm hành trang để bước đi
những bước thật vững chắc mà người giáo viên luôn là điểm tựa, là người bạn đồng
hành cùng các em.
II. NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Với Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT
- Quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo
viên dạy toán. Nên tổ chức các hội thảo chuyên đề chuyên sâu cho giáo viên trong

tỉnh.
15
- Đề nghị Phòng GD&ĐT quan tâm, trang bị cho nhà trường một số thiết bị
dạy học, là thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin như: máy chiếu và các thiết bị
liên quan khác.
2. Với BGH nhà trường
- Hiện nay, nhà trường đã có một số sách tham khảo tuy nhiên có vẻ như
chưa đầy đủ. Vì vậy nhà trường cần quan tâm hơn nữa về việc trang bị thêm sách
tham khảo môn Toán trong thư viện nhà trường. Xây dựng thêm phòng đọc theo
yêu cầu của bạn đọc (học sinh) để học sinh được tìm tòi, học tập khi giải toán để
các em có thể tránh được những sai lầm trong khi làm bài tập và nâng cao hứng
thú, kết quả học tập môn toán nói riêng, nâng cao kết quả học tập của học sinh nói
chung.
3. Với PHHS
- Quan tâm việc tự học, tự làm bài tập ở nhà của con cái. Thường xuyên
kiểm tra sách, vở và việc soạn bài trước khi đến trường của các con
16

×