Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, phát triển của một số dòng lai trở lại có nguồn gốc từ cặp bố mẹ khang dân 18 và DDS1 tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 101 trang )


Số hóa bởi trung tâm học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




LƢU VIẾT HUỲNH




NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH TRƢỞNG,
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ DÒNG LAI TRỞ LẠI CÓ
NGUỒN GỐC TỪ CẶP BỐ MẸ KHANG DÂN 18 VÀ ĐS1
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN





OA HỌC NÔNG NGHIỆP









THÁI NGUYÊN, 2013

Số hóa bởi trung tâm học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




LƢU VIẾT HUỲNH



NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH TRƢỞNG,
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ DÒNG LAI TRỞ LẠI CÓ
NGUỒN GỐC TỪ CẶP BỐ MẸ KHANG DÂN 18 VÀ ĐS1
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60 62 01 10


ỌC NÔNG NGHIỆP


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Hữu Hồng
2. TS. Đặng Quý Nhân






THÁI NGUYÊN, 2013

Số hóa bởi trung tâm học liệu

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng cho bảo vệ một học vị nào, mọi
sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn này đều đã được cảm ơn, các thông
tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả

Lƣu Viết Huỳnh

Số hóa bởi trung tâm học liệu

ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài từ năm 2012 đến năm 2013,
tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu Nhà trường, Phòng
Quản lý đào tạo sau đại học, Khoa Nông học, Trung tâm Thực hành - Thực
nghiệm, cùng các Thầy Cô giáo và học viên, sinh viên Trường Đại học Nông
lâm Thái Nguyên. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy hướng dẫn khoa học: PGS -
TS. Nguyễn Hữu Hồng, TS. Đặng Quý Nhân, Trường đại học nông lâm Thái

Nguyên là những người Thầy đã tận tình trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề
tài và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Luận văn này khó tránh khỏi còn có những thiếu sót, tôi rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của các Thầy Cô giáo, đồng nghiệp và bạn đọc
để luận văn được hoàn thiện hơn
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả


Lƣu Viết Huỳnh

Số hóa bởi trung tâm học liệu

iii
MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
DANH MỤC CÁC HÌNH vii
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu của đề tài 2
3. Yêu cầu của đề tài 2
4. Ý nghĩa của đề tài 2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu 3
1.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất giống lúa trên Thế giới và Việt Nam 5

1.2.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa trên Thế giới 5
1.2.1.1. Tình hình sản xuất lúa trên Thế giới 5
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống lúa trên Thế giới 8
1.2.1.3. Tình hình nghiên cứu giống lúa thuộc loài phụ Japonica trên Thế giới 20
1.2.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa ở trong nước 21
1.2.2.1. Tình hình sản xuất ở trong nước 21
1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu lúa trong nước 26
1.2.3. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống lúa chất lượng ở Việt Nam 28
1.2.4. Tình hình sản xuất lúa gạo chất lượng cao ở Việt Nam 32
1.2.5. Tình hình nhập nội và sản xuất giống lúa thuộc loài phụ Japonica 33
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 37
2.1. Đối tượng nghiên cứu 37
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 38
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu 38

Số hóa bởi trung tâm học liệu

iv
2.2.2. Thời gian nghiên cứu 38
2.3. Nội dung nghiên cứu 38
2.4. Phương pháp nghiên cứu 38
2.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 38
2.4.2. Các biện pháp kỹ thuật trong khi làm thí nghiệm 40
2.4.3. Phương pháp thu thập số liệu 42
2.4.4. Phương pháp xử lý số liệu 42
2.5. Các chỉ tiêu theo dõi trong thí nghiệm 42
2.5.1. Chỉ tiêu về sinh trưởng 43
2.5.2. Chỉ tiêu về năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 46
2.5.3. Chỉ tiêu về khả năng chống chịu 47
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 53

3.1. Khí hậu, thời tiết vùng nghiên cứu 53
3.2. Sức sống của mạ 53
3.3. Thời gian sinh trưởng, phát triển của các dòng lúa tham gia thí nghiệm 57
3.4. Khả năng sinh trưởng, phát triển của các dòng lúa tham gia thí nghiệm 63
3.5. Một số đặc điểm nông học của các dòng lúa tham gia thí nghiệm 69
3.6. Khả năng chống đổ của các dòng lúa tham gia thí nghiệm 71
3.7. Khả năng chống rét của các dòng lúa tham gia thí nghiệm 74
3.8. Khả năng chống chịu sâu, bệnh của các dòng lúa tham gia thí nghiệm 76
3.9. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 78
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC 91


Số hóa bởi trung tâm học liệu

v
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

TT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1
FAO
Tổ chức Nông lương thế giới
(Food and Agriculture Organization).
2
IRRI
Viện nghiên cứu lúa Quốc tế
(International Rice Research Institute)

3
KL1000
Khối lượng nghìn hạt
4
NSLT
Năng suất lý thuyết
5
TGST
Thời gian sinh trưởng
6
ƯTL
Ưu thế lai


Số hóa bởi trung tâm học liệu

vi
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Các Quốc gia sản xuất lúa gạo nhiều nhất trên Thế giới
năm 2010 5
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam trong
mấy thập kỷ gần đây 25
Bảng 2.1: Các dòng, giống lúa tham gia thí nghiệm 37
Bảng 2.2: Các thời kỳ sinh trưởng, phát triển của cây lúa 44
Bảng 3.1: Chất lượng mạ của các dòng lúa tham gia thí nghiệm trong
vụ Mùa 2012 54
Bảng 3.2: Chất lượng mạ của các dòng lúa tham gia thí nghiệm trong
vụ Xuân 2013 55
Bảng 3.3: Thời gian sinh trưởng của các dòng lúa tham gia thí

nghiệm vụ Mùa 2012 61
Bảng 3.4: Thời gian sinh trưởng của các dòng lúa tham gia thí
nghiệm vụ Xuân 2013 62
Bảng 3.5: Một số chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của các dòng lúa
tham gia thí nghiệm vụ Mùa 2012 65
Bảng 3.6: Một số chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển của các dòng lúa
tham gia thí nghiệm vụ Xuân 2013 66
Bảng 3.7: Một số đặc điểm nông học của các dòng lúa tham gia thí
nghiệm trong vụ Mùa 2012 và vụ Xuân 2013 70
Bảng 3.8: Khả năng chống đổ của các dòng lúa tham gia thí nghiệm 73
Bảng 3.9: Khả năng chịu lạnh của các dòng lúa vào giai đoạn mạ 75
Bảng 3.10: Mức độ sâu, bệnh hại của các dòng lúa tham gia thí nghiệm 77
Bảng 3.11 - a: Các yếu tố cấu thành năng suất của các dòng lúa tham gia
thí nghiệm 80
Bảng 3.11 - b: Các yếu tố cấu thành năng suất của các dòng lúa tham gia
thí nghiệm 83

Số hóa bởi trung tâm học liệu

vii
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1: Sơ đồ thí nghiệm 39




Số hóa bởi trung tâm học liệu

1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
(Nhật Bản, Trung Quốc,
Việ
ờ ờ
ngườ
.
Cây lúa cũng giống như bất cứ cây trồng nào khác sống trong vùng khí
hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới rất mẫm cảm với điều kiện nhiệt độ từ 15 -
20
o
C (Yoshida et al 1996; Nakagahara et al. 1997). Sống trong điều kiện nhiệt
độ thấp cây lúa thường bị các tổn thương như: mọc mầm kém, sinh trưởng còi
cọc, lá vàng hoặc khô cháy, đẻ nhánh kém, trỗ muộn và lép (Kaneda and
Beachell 1974; Mackill and Lei 1997) dẫn đến giảm năng suất.
Kết quả của các nhà chọn tạo giống Trung Quốc cho thấy: Trên tổng thể
hiệu ứng ƯTL biểu hiện theo quy luật: Indica/Japonica > Indica/Javanica >
Japonica/Javanica > Indica/Indica > Japonica/Japonica. Các tổ hợp lai năng suất
siêu cao đã và sẽ được tạo ra là tổ hợp lai giữa hai loài phụ Indica/Japonica. Năm
1997, Yuan LP. [29] đã trình diễn tổ hợp lai Peiai 64S/E32, đạt năng suất cao tới
17,1 tấn/ha/vụ. Vì vậy, hiện nay lai xa giữa các loài phụ được sử dụng khá phổ
biến ở Trung Quốc, IRRI, Ấn Độ và một số nước khác.
Những năm gần đây, năng suất và sản lượng lúa của nước ta khá ổn
định, an ninh lương thực được đảm bảo. Tuy nhiên, giống lúa chủ lực vẫn chỉ
là Q5, Khang dân, IR50404… tuy sản lượng rất cao, khả năng chống chịu sâu
bệnh tốt nhưng chất lượng gạo chưa ngon, giá trị kinh tế thấp.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

2

Việc tạo ra các giống lúa mới năng suất cao, chất lượng gạo ngon, mẫu
mã đẹp, ưa thâm canh, khả năng chống chịu tốt với điều kiện thời tiết bất
thuận và sâu bệnh hại, là đòi hỏi tất yếu mang tính cấp thiết trong công tác
chọn tạo giống lúa ở Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên
cứu đặc điểm sinh trưởng, phát triển của một số dòng lúa lai trở lại có
nguồn gốc từ cặp bố mẹ Khang Dân 18 và ĐS1 tại Trường Đại học Nông
lâm Thái Nguyên".
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá được sơ bộ những dòng lai trở lại có đặc điểm nông sinh
học tốt, có khả năng chống chịu với điều kiện bất thuận. Từ đó, lựa chọn
được những cá thể phù hợp để làm vật liệu cho công tác lai tạo giống ở các
thể hệ tiếp theo.
3. Yêu cầu của đề tài
- Nghiên cứu đánh giá khả năng của sinh trưởng, phát triển của các
dòng lai trở lại.
- Nghiên cứu đánh giá một số tính trạng đặc trưng của các dòng lai trở lại.
- Đánh giá một số đặc điểm nông sinh học của của các dòng lai trở lại.
- So sánh một số đặc điểm của các dòng lai trở lại Khang Dân 18 và ĐS1.
4. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa khoa học
- Chọn ra các dòng lúa tốt làm cơ sở phục vụ cho công tác chọn tạo
giống và nghiên cứu về sau.
- Là tài liệu tham khảo cho sinh viên và những người quan tâm.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Giới thiệu một số dòng lúa có triển vọng làm nguồn nguyên liệu mới
phục vụ cho công tác chọn, tạo giống.

Số hóa bởi trung tâm học liệu


3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu
Trong mỗi điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng cần có những giống
cây trồng tốt phù hợp với điều kiện canh tác. Vì vậy một trong những biện
pháp kinh tế kỹ thuật nhằm tận dụng các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội là
bố trí cơ cấu cây trồng phù hợp với một vùng hay một đơn vị sản xuất nông
nghiệp. Muốn xác định giống cây trồng hợp lý đạt hiệu quả kinh tế cao, đất
đai là một trong những căn cứ quan trọng sau điều kiện khí hậu, cho nên cần
phải nắm vững mối quan hệ giữa một nhóm cây trồng với đặc điểm đất đai thì
mới xác định được cơ cấu cây trồng hợp lý, đạt hiệu quả kinh tế cao. Giống là
tư liệu sản xuất vô cùng quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, cũng như đất
đai, phân bón và công cụ sản xuất. Nếu không có giống thì không thể sản xuất
ra một loại nông sản nào. Ngày nay, quan niệm “nhất nước, nhì phân, tam
cần, tứ giống”đã không còn phù hợp nữa. Nếu xếp giống vào hệ thống các
khâu kỹ thuật canh tác thì giống tốt phải được xếp vào vị trí trung tâm. Trong
những năm gần đây, sản lượng lương thực ở một số nước tăng lên khá nhanh,
chủ yếu nhờ áp dụng trên quy mô lớn các biện pháp kỹ thuật nông nghiệp
thích hợp mà chủ yếu là cải tiến giống. Vì giống lúa là một trong những điều
kiện quyết định đến năng suất và phẩm chất của sản phẩm thu hoạch.
Theo Thanh Tri-1987 [15] giống lúa là một trong những biện pháp
quan trọng trong việc tăng năng suất sản lượng lương thực, trong thực tiễn sản
xuất ở nhiều địa phương nếu có cơ cấu giống phù hợp với điều kiện tự nhiên
và sử dụng loại giống có độ thuần cao, phẩm chất giống tốt thì có thể nâng
cao được năng suất lúa lên từ 15-20% trở lên .
Các giống lúa khác nhau có khả năng thích ứng với điều kiện sinh thái,
thổ nhưỡng ở mỗi vùng khác nhau. Để xác định được giống tốt cho một vùng

Số hóa bởi trung tâm học liệu


4
sản xuất nào đó cần phải tiến hành khảo nghiệm, gieo cấy thử nghiệm qua
một vài vụ sản xuất để đánh giá khả năng thích ứng của giống đó. Do đó việc
xác định tính thích nghi của giống nào đó trước khi đưa ra sản xuất trên diện
tích rộng phải tiến hành bố trí gieo trồng tại nhiều vùng có đặc điểm sinh thái
khác nhau nhằm đánh giá khả năng thích ứng, độ đồng đều, tính ổn định, khả
năng chống chịu sâu, bệnh, mức độ chịu đất chua mặn, khả năng cho năng
suất, hiệu quả kinh tế của giống đó so với các giống đang gieo trồng đại trà
hiện có tại một khu vực hoặc một địa phương nào đó.
Ở đề tài này với mục tiêu đánh giá khả năng thích ứng của một số dòng
lúa được lai tạo từ loài phụ Japonica với mục đích chuyển dịch cơ cấu cây
trồng có giá trị, thay thế những cây trồng hiện có chưa đáp ứng được nhu cầu
thực tiễn, cải tiến để đưa giống lúa có năng suất khá, chất lượng tốt vào sản
xuất phù hợp với điều kiện của nông dân và vùng sinh thái.
Cần phải thí nghiệm các giống lúa triển vọng, tạo ra sản phẩm hàng hoá
có giá trị kinh tế cao đáp ứng nhu cầu thị trường, sử dụng hợp lý phân bón,
thuốc trừ sâu, giống mới có triển vọng song vẫn đảm bảo có năng suất khá, sử
dụng nước tưới và các biện pháp kỹ thuật không khác nhiều so với tập quán
canh tác của địa phương.
Đối với lúa trong sản xuất hiện nay khi đưa giống mới vào sản xuất
người ta thường quan tâm đến thị hiếu người tiêu dùng và việc tiêu thụ sản
phẩm đó ra sao.
Trong thực tế sản xuất thì mỗi giống lúa đều có ưu, nhược điểm song
sự chuyển dịch cơ cấu giống lúa như thế nào để giải quyết được nhu cầu cấp
bách của người dân nghèo mà vẫn có lợi về mặt tài chính, đem lại hiệu quả
kinh tế cao và phù hợp với đặc điểm của vùng sản xuất, của một không gian,
thời gian nhất định và được người nông dân chấp nhận và mở rộng.
Cơ cấu các giống lúa đang được gieo trồng được chọn dựa trên lợi ích
cho đa số người dân, cơ cấu các giống lúa triển vọng phải được bố trí hợp lý,


Số hóa bởi trung tâm học liệu

5
có độ an toàn, xác suất gặp rủi ro thấp nhất, phù hợp với tập quán canh tác của
địa phương, đảm bảo an toàn hệ sinh thái trong vùng.
1.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất giống lúa trên Thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu lúa trên Thế giới
1.2.1.1. Tình hình sản xuất lúa trên Thế giới
Vùng phân bố của cây lúa là khá rộng từ vĩ độ 53
0
B đến vĩ độ 35
0
N.
Trong đó vùng phân bố chủ yếu từ 30
0
B đến 10
0
N, với khoảng trên 100 nước
trồng lúa, năng suất trung bình đạt 43,68 tạ/ha/năm.
Bảng 1.1. Các Quốc gia sản xuất lúa gạo nhiều nhất trên Thế giới năm 2010
TT
Tên nƣớc
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(tấn)
1
Trung Quốc

30.117.262
65,48
197.212.010
2
Ấn Độ
42.560.000
33,83
143.963.000
3
Inđônêxia
13.253.500
50,15
66.469.400
4
Bangladesh
11.700.000
42,79
50.061.200
5
Việt Nam
7.513.700
53,22
39.988.900
6
Myanma
8.051.700
41,24
33.204.500
7
Thái Lan

10.990.100
28,75
31.597.200
8
Philippin
4.354.160
36,22
15.771.700
9
Brazil
2.722.460
41,27
11.236.000
10
Pakistan
2.365.000
30,59
7.235.000

Thế giới
159.416.542
43,68
696.324.394
(Nguồn: FAOSTAT, 2012)[11]
Qua bảng 1.1 ta thấy, các Quốc gia sản xuất nhiều lúa gạo nhất trên Thế
giới chủ yếu tập trung ở châu Á. Nước có diện tích trồng lúa lớn nhất là Ấn

Số hóa bởi trung tâm học liệu

6

Độ (42.560.000 ha), tiếp đến là Trung Quốc (30.117.262 ha) và sau đó là các
nước Inđônêxia, Bangladesh, Thái Lan,… Như vậy, diện tích trồng lúa của 10
Quốc gia đứng đầu chiếm 83,82 % tổng diện tích trồng lúa của cả Thế giới.
Vì vậy đây được coi là trung tâm sản xuất lúa gạo để cung cấp cho nhu cầu
lúa gạo của Thế giới.
- Về năng suất lúa: Trong 10 nước trồng lúa nhiều nhất trên Thế giới
thì Trung Quốc là nước có năng suất lúa cao nhất, đạt 65,48 tạ/ha cao hơn
năng suất trung bình của Thế giới là 21,8 tạ/ha, tiếp theo là Việt Nam
(53,22 tạ/ha) cao hơn năng suất trung bình của Thế giới là 9,54 tạ/ha và các
nước khác như Inđônêxia (50,15 tạ/ha, cao hơn năng suất trung bình của
Thế giới là 6,47 tạ/ha). Các nước còn lại là Bangladesh (42,79 tạ/ha),
Brazil (41,27 tạ/ha), Myanma (41,24 tạ/ha), Philippin (36,22 tạ/ha), Ấn Độ
(33,83 tạ/ha) Pakistan (30,59 tạ/ha) và thấp nhất là Thái Lan (28,75 tạ/ha)
thấp hơn năng suất trung bình của Thế giới từ 0,89 tạ/ha đến 14,93 tạ/ha
(năng suất lúa của Thái Lan thấp là do họ gieo trồng chủ yếu các giống lúa
cổ truyền có chất lượng cao.
- Về sản lượng lúa: Đứng đầu trong danh sách các nước sản xuất lúa
nhiều nhất là Trung Quốc với 197.212.010 tấn, tiếp theo là Ấn Độ (143.963.000
tấn), và các nước còn lại là Inđônêxia (66.469.400 tấn), Bangladesh
(50.061.200 tấn), Việt Nam (39.988.900 tấn),… Như vậy, sản lượng lúa của
10 Quốc gia đứng đầu chiếm 85,7 % tổng sản lượng lúa gạo của cả Thế giới.
Sản lượng lúa gạo trong một số năm trở lại đây có mức tăng trưởng
đáng kể nhờ việc mở rộng diện tích đất trồng lúa, cùng với việc đầu tư thâm
canh, sử dụng các giống lúa mới có tiềm năng năng suất cao, xây dựng đường
giao thông, hệ thống thuỷ lợi tưới tiêu, hoàn chỉnh các biện pháp kỹ thuật.
Hiện tại, nhu cầu về phẩm chất lúa gạo rất khác nhau tùy từng vùng và
tập quán ăn uống. Các nước Nhật, Triều Tiên, Trung Quốc, Âu Mỹ thích gạo
mềm, ướt, hơi dẻo (giống japonica). Ngược lại Ấn Độ, Pakixtan, Việt Nam lại
thích gạo nở, cơm khô. Trên thị trường gạo Thế giới, chiều dài hạt, phẩm chất


Số hóa bởi trung tâm học liệu

7
gạo rất được quan tâm. Về chiều dài hạt, Viện IRRI chia ra làm 4 cấp: hạt rất
dài (trên 7,5 mm), hạt dài (6,6 - 7,5 mm), hạt trung bình (5,5 - 6,5 mm) và hạt
ngắn (dưới 5,5 mm). Về màu sắc gạo, phổ biến nhất là màu trắng ngà, song
cũng có màu đỏ hoặc hơi đen. Về hướng phát triển gạo của các nước cũng rất
khác nhau, tùy vào thị trường tiêu thụ của mình mà các nước xuất khẩu gạo
lớn hiện nay tập trung phát triển các loại gạo có chất lượng khác nhau: Thái
Lan tập trung sản xuất phát triển các giống lúa có kiểu hạt dài, chất lượng cao;
tại Mỹ phát triển các giống có kiểu hạt tròn và hạt dài nhưng có chất lượng
cao; trong khi đó Ấn Độ lại phát triển các giống có năng suất cao để ăn và
xuất khẩu sang các nước nghèo (các nước ở Châu Phi).
Việc nghiên cứu, chọn tạo các giống lúa có thời gian sinh trưởng ngắn,
năng suất, chất lượng cao đang được các tổ chức nghiên cứu trên Thế giới quan
tâm. Một số giống lúa có chất lượng đã được công bố như: Khao Dawk Mali;
đây là giống lúa của Thái Lan, phản ứng với ánh sáng thích hợp với đất phèn
nhẹ, đất nhiễm mặn vào mùa khô, có đặc điểm gạo mềm, hạt dài, có mùi thơm,
năng suất đạt 3 - 4 tấn/ha.
Tại Mỹ các nhà khoa học đã chọn lọc ra được giống Jasmine 85 có thời
gian sinh trưởng 100 - 105 ngày, cho năng suất khá (5 - 6 tấn/ha), có chất
lượng cao và có mùi thơm như hoa nhài.
Trong xã hội hiện nay khi mức sống của đại bộ phận người dân đã
được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm gạo có chất lượng cao đặc biệt là các
loại lúa đặc sản ngày một tăng lên. Theo nhận xét của S.Tang và Z.Wang,
2001: lúa đặc sản chất lượng là cơ sở vật chất quan trọng cho công tác cải tiến
các giống lúa mới.
Còn theo định nghĩa của Ceng Y.M; Chen Y (1998) thì lúa đặc sản là
những loại lúa đặc biệt, không giống như các loại lúa phổ biến thông thường.
Chúng được xác định bởi sự khác biệt về một vài đặc điểm theo những chỉ

tiêu quan trọng quy định chung cho phần lớn các nước châu Á và Châu Phi:
hình dáng, kích cỡ, hàm lượng Amylose, màu nội nhũ và mùi thơm

Số hóa bởi trung tâm học liệu

8
Ceng Y.W; Chen Y và Dai L.Y (1998) cho rằng lúa nếp (Waxy), lúa
thơm, lúa màu (lúa đỏ, lúa tím, lúa đen), lúa nương - japonica, lúa dẻo (soft
rice), lúa boutique, lúa nấu rượu, lúa hữu cơ, lúa có phẩm chất dinh dưỡng,
đều thuộc lúa đặc sản và khái niệm về lúa đặc sản cổ truyền, lúa đặc sản cải
tiến là khái niệm để phân biệt lúa đặc sản bản địa và lúa đặc sản mới chọn tạo.
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống lúa trên Thế giới
Trên Thế giới người ta quan tâm đến việc bảo tồn nguồn gen nói chung,
và nguồn gen cây lúa nói riêng. Ngay từ những năm 1924 Viện nghiên cứu cây
trồng Liên Xô (cũ) đã được thành lập, nhiệm vụ chính là thu nhập và đánh giá
bảo tồn nguồn gen cây trồng. Tổ chức Lương thực và nông nghiệp Thế giới
(FAO) đã tổng hợp các kết quả nghiên cứu và đề ra phương hướng thúc đẩy
việc xây dựng ngân hàng gen phục vụ cho việc giữ gìn tài nguyên thiên nhiên
nhằm phục vụ lợi ích lâu dài của nhân loại. Trong vùng nhiệt đới và á nhiệt đới
đã hình thành nhiều tổ chức Quốc tế, đảm nhận việc thu thập tập đoàn giống
trên Thế giới đồng thời cung cấp nguồn gen để cải tạo giống lúa trồng [9].
Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế với tên tiếng Anh là International
Rice Research Institute (IRRI) ở Los Banos, Philippines đã bắt đầu chương
trình thu thập, bảo tồn và đánh giá các giống cổ truyền và các cây lúa dại từ
năm 1962. Từ khi thành lập IRRI đã tiến hành thu thập nguồn gen cây lúa,
năm 1977 chính thức khai trương ngân hàng gen, tại đây đã thu thập tập đoàn
cây lúa từ 110 Quốc gia trên Thế giới trong bộ sưu tập có hơn 80 nghìn mẫu,
trong đó các giống lúa trồng ở châu Á (O. sativa) chiếm đến 95% [24].
Khoảng 90.000 giống lúa trồng trên khắp Thế giới đã được tồn trữ ở IRRI và
cùng một số lượng giống lúa này được IRRI gửi bảo quản ở Phòng Khảo

nghiệm tồn trữ hạt giống Quốc gia Mỹ (US. National Seed Storage Laboratory)
tại Fort Collins thuộc Bộ Nông nghiệp bang Colorado - Mỹ và ở Viện Quốc
gia Tài nguyên Nông sinh (National Institute of Agrobiological Resources) ở
Nhật Bản. Nhưng sự bảo quản tại các phòng lạnh hiện nay có thể làm ngăn trở

Số hóa bởi trung tâm học liệu

9
sự tiến hóa của các giống lúa này với môi trường. Vì vậy, bảo quản các giống
lúa ngoài ruộng rất cần thiết nhưng tốn kém.
Trong hơn 40 năm tồn tại và phát triển IRRI đã lai tạo, chọn lọc hàng
trăm giống lúa tốt phổ biến khắp Thế giới, tiêu biểu như các giống IR, Jasmin.
IR8 mở đầu cho cuộc cách mạng xanh ở các nước Nam Á và Đông Nam Á.
Tiếp theo là sự ra đời của các giống lúa, mà sự ra đời của các giống này đã tạo
ra sự nhảy vọt về năng suất, phẩm chất lúa như: IR5, IR6, IR20, IR22, IR26,
IR36, Những năm 80 (thế kỷ XX) giống IR8 được trồng phổ biến ở Việt Nam
đã đưa năng suất lúa tăng cao đáng kể. Cuộc “Cách mạng xanh” từ giữa thập
niên 60 (thế kỷ XX) đã có ảnh hưởng tích cực đến sản lượng lúa của châu Á.
Nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được tạo ra để nâng cao năng suất và sản lượng lúa
gạo. Các nhà nghiên cứu của viện lúa Quốc tế đã nhận thức rằng các giống lúa
mới thấp cây, lá đứng, tiềm năng năng suất cao cũng chỉ có thể giải quyết vấn
đề lương thực trong phạm vi hạn chế. Hiện nay Viện IRRI đang tập trung vào
nghiên cứu chọn tạo ra các giống lúa cao sản (siêu lúa) có thể đạt 13 tấn/ha/vụ,
đồng thời phát huy kết quả chọn tạo 2 giống là IR64 và Jasmin là giống có
phẩm chất gạo tốt, được trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên Thế giới. Trên cơ sở
một số giống lúa chất lượng cao Viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu,
chọn tạo các giống lúa có hàm lượng Vitamin và Protein cao, có mùi thơm,
cơm dẻo ) vừa để giải quyết vấn đề an ninh lương thực, vừa đáp ứng được nhu
cầu đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng [20].
IRRI đã có quan hệ chính thức với Việt Nam từ năm 1975 trong

chương trình thí nghiệm giống Quốc tế trước đây và hiện nay là chương trình
đánh giá nguồn gen cây lúa. Trong quá trình hợp tác, Việt Nam đã nhập được
279 tập đoàn lúa gồm hàng ngàn mẫu giống, mang nhiều đặc điểm sinh học
tốt, chống chịu với sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất thuận như nhiệt độ,
nhiễm mặn, hạn hán, úng lụt [31].
Các nhà khoa học Ấn Độ và Nhật Bản là những người đầu tiên đề xuất
mở rộng sản xuất lúa lai thương phẩm [22]. Tại Viện nghiên cứu lúa Quốc tế -

Số hóa bởi trung tâm học liệu

10
IRRI các nhà khoa học đã xây dựng chương trình nghiên cứu về lúa lai làm cơ
sở cho phát triển sản xuất lúa lai thương phẩm. Song tất cả họ đều chưa thành
công vì chưa tìm ra phương pháp thích hợp để sản xuất hạt lai [23]. Nhưng
việc nghiên cứu chọn tạo giống lúa không chỉ dừng lại ở đó, sự miệt mài của
các nhà khoa học ở Viện nghiên cứu lúa Quốc tế đã lai tạo chọn lọc hàng trăm
giống lúa thuần được gieo trồng phổ biến trên Thế giới. Các giống lúa IR5,
IR6, IR8, IR30 và những giống lúa khác đã tạo ra sự nhảy vọt về năng suất.
Các viện khác như IRAT, EAT, ICRISAT cũng đã chọn lọc ra nhiều những
giống lúa tốt phục vụ sản xuất.
Hiện nay người ta ứng dụng ưu thế lai trong sản xuất lúa. Trong lịch sử
phát triển lúa lai, Trung Quốc là nước đầu tiên sử dụng thành công ưu thế này.
Năm 1974, các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời những tổ hợp lai có
ưu thế lai cao, đồng thời xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất hạt lai hệ "3
dòng" được hoàn thiện và đưa vào sản xuất năm 1975. Năm 1996, Trung
Quốc lại thành công với quy trình sản xuất lúa lai "2 dòng" và đẩy mạnh
nghiên cứu lúa lai 1 dòng và lúa lai siêu cao sản nhằm tăng năng suất và sản
lượng lúa gạo của đất nước [26]. Cụ thể như sau: năm 1973 Shiming Song
phát hiện ra được dòng bất dục mẫn cảm với ánh sáng ngày ngắn (PGMS) từ
giống Nongken 58. Nhiều kết quả nghiên cứu khác về lúa lai hai dòng cũng

đã được công bố. Năm 1991 các nhà khoa học Nhật Bản đã áp dụng phương
pháp gây đột biến nhân tạo để tạo ra dòng bất dục đực mẫn cảm với nhiệt độ
[22]. Chương trình phát triển lúa lai giữa các loài phụ indica và japonica được
bắt đầu từ năm 1987 nhờ sự phát hiện và sử dụng gen tương hợp rộng, mở ra
tiềm năng về năng suất cao cho các giống lúa lai hai dòng [25]. Những tổ hợp
giữa các loài phụ như: Chen 232/26 Zhazao; 3037/02428 và 6154S/vaylava
đưa ra ở Trung Quốc nhưng không được sử dụng trong sản xuất đại trà, vì cây
F1 quá to, bông quá lớn, số dảnh ít, dạng lá rộng. Bởi thế, Yang Z và CS
(1997) [28] đã đề xuất một lý thuyết chọn giống năng suất siêu cao thông qua
việc kết hợp hình dạng lý tưởng và ưu thế lai thích hợp.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

11
Nhờ ưu thế hơn hẳn về năng suất nên diện tích trồng lúa lai của Trung
Quốc không ngừng được mở rộng. Năm 1992 diện tích gieo trồng lúa lai của
Trung Quốc là 15.000 ha với năng suất 9-10 tấn/ha, năng suất cao nhất đạt 17
tấn/ha [3]. Năm 1997 đã có 640.000 ha, năng suất trung bình cao hơn lúa lai 3
giống từ 5 - 15% [28]. Đến năm 2001 diện tích lúa lai 2 dòng đạt 2,5 triệu ha.
Một số tổ hợp lai hai giống điển hình có năng suất đạt hơn 10,5 tấn/ha ở điểm
trình diễn và năng suất trung bình trên diện rộng là 9,1 tấn/ha. Đã có những tổ
hợp lúa lai 2 dòng đều mới đạt 12 - 14 tấn/ha trong ô thí nghiệm [27]. Hầu hết
các tổ hợp lai hai dòng đều cho năng suất cao và phẩm chất tốt hơn so với tổ
hợp lai ba dòng [3]. Gần đây hướng nghiên cứu phát triển lúa lai một giống là
mục tiêu cuối cùng và rất quan trọng của công tác chọn tạo lúa lai của Trung
Quốc. Ý tưởng của Yuan L.P là cố định ưu thế lai và sản xuất lúa lai thuần đã
trở thành đề tài lớn, quan trọng trong các chương trình Quốc gia về phát triển
khoa học và công nghệ cao.
Như vậy xu thế phát triển tất yếu của lúa lai theo Yuan Long Ping đã
khởi xướng là phát triển từ hệ thống ba dòng đến hệ thống hai dòng và sau đó

là hệ lai một dòng hay cố định ưu thế lai ở F1 thành lúa lai thuần.
Sự phát triển thành công của công nghệ sản xuất lúa lai ở Trung Quốc
đã được ứng dụng rộng rãi ở nhiều nước trên Thế giới. Hiện nay có 17 nước
trên Thế giới nghiên cứu và sản xuất lúa lai đã đưa tổng diện tích lúa lai của
Thế giới lên tới khoảng 10% tổng diện tích trồng lúa và chiếm 20% tổng sản
lượng lúa gạo toàn Thế giới, song tốc độ phát triển mạnh nhất vẫn là Việt
Nam và Ấn Độ. Lúa lai đã thực sự mở ra hướng phát triển mới để nâng cao
năng suất, sản lượng lúa cho xã hội loài người.
Ấn Độ là một nước đi đầu trong cuộc “cách mạng xanh” và thành công
lớn trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhất là giống mới vào sản
xuất. Trong công tác nghiên cứu giống lúa, Viện nghiên cứu giống lúa Trung
ương của Ấn Độ được thành lập vào năm 1946 tại Cuttuck bang Orisa là nơi
tập trung nghiên cứu, lai tạo các giống lúa mới phục vụ sản xuất. Ngoài ra tại

Số hóa bởi trung tâm học liệu

12
các bang của Ấn Độ đều có các cơ sở nghiên cứu, trong đó các cơ sở quan
trọng ở Madras, heydrabat, Kerala, hoặc Viện Nghiên cứu cây trồng cạn Á
nhiệt đới (ICRISAT). Ấn Độ là nước có nhiều giống lúa chất lượng cao nổi
tiếng trên Thế giới như: Basmati, Brimphun trong đó giống lúa Basmati có giá
trị trên thị trường tới 850 Đô la Mỹ/tấn, trong khi giống gạo thơm Thái Lan nổi
tiếng trên Thế giới cũng chỉ có giá trị 460 Đô la Mỹ /tấn [8].
Mặt khác, Ấn Độ cũng là nước nghiên cứu lúa lai khá sớm và đã đạt
được một số thành công nhất định, một số tổ hợp lai tốt được sử dụng ở Ấn
Độ như; IR58025A/IR9716, IR62829A/IR46, PMS8A/IR46, ORI 161, ORI
136, 2RI 158, 3RI 160, 3RI 086, PA- 103 Một trong những giống lúa chất
lượng cao do các nhà khoa học chọn tạo thành công được nhập về Việt Nam
là giống BTE-1, giống này đã được Bộ Nông nghiệp & PTNT Việt Nam công
nhận năm 2007 [8].

Thái Lan là nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu Thế giới. Với những ưu
đãi của thiên nhiên Thái Lan có vùng châu thổ trồng lúa phì nhiêu, mặc dù
năng suất và sản lượng lúa gạo của Thái Lan không cao song họ chú trọng
đến việc chọn tạo giống có chất lượng gạo cao. Các trung tâm nghiên cứu lúa
của Thái Lan được thành lập ở nhiều tỉnh và các khu vực. Các trung tâm này
có nhiệm vụ tiến hành chọn lọc, phục tráng, lai tạo, nhân giống phục vụ cho
nhu cầu sản xuất của người dân với mục tiêu phục vụ nhu cầu trong nước và
xuất khẩu. Các đặc điểm nổi bật của các giống lúa mà các nhà khoa học tập
trung nghiên cứu và lai tạo đó là hạt gạo dài và trong, ít dập gãy khi xay sát,
có hương thơm, coi trọng chất lượng hơn là năng suất, điều này cho chúng ta
thấy rằng giá lúa gạo xuất khẩu của Thái Lan bao giờ cũng cao hơn của Việt
Nam. Một số giống lúa chất lượng cao nổi tiếng Thế giới của Thái Lan là:
Khaodomali, Jasmin (Hương nhài).
Đối với Nhật Bản, công tác giống lúa cũng được đặc biệt chú trọng về
giống chất lượng cao vì người Nhật giàu có, nên nhu cầu đòi hỏi lúa gạo chất
lượng cao. Để đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, các Viện và các Trạm nghiên

Số hóa bởi trung tâm học liệu

13
cứu giống lúa được thành lập ở hầu hết các tỉnh thành của Nhật Bản, trong đó
có các trung tâm quan trọng nhất đặt ở Sendai, Niigata, Nagoya, Fukuoka,
Kochi, Miyazaki, Saga, là những nơi diện tích trồng lúa lớn. Trong công tác
nghiên cứu giống lúa ở các Viện, các nhà khoa học Nhật Bản đã tập trung lai
tạo và đưa vào sản xuất các giống lúa vừa có năng suất cao, chất lượng tốt
như Koshihikari, Sasanisiki, Koenshu đặc biệt ở Nhật đã lai tạo được 2
giống lúa có mùi thơm đặc biệt, chất lượng gạo ngon và năng suất cao như
giống: Miyazaki1 và Miyazaki2. Cho đến giờ các giống này vẫn giữ được vị
trí hàng đầu về 2 chỉ tiêu quan trọng đó là hàm lượng Protein cao tới 13%,
hàm lượng Lysin cũng rất cao, Nguyễn Hữu Hồng (1990) [7].

Các nước Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên, Đài Loan chủ yếu nghiên cứu và
sử dụng giống lúa thuộc loại hình Japonica, hạt gạo tròn, cơm dẻo phù hợp
với thị hiếu tiêu dùng của người dân khu vực này. Các giống lúa nổi tiếng của
khu vực này là Tongil (Hàn Quốc), Tai chung 1, Tai chung 2, Gang chan gi,
Đee- Geo-Wô-Gen (Đài Loan)… đặc biệt giống Đee-Geo-Wô-Gen là một vật
liệu khởi đầu để tạo ra giống lúa IR8 nổi tiếng một thời [19].
Các chuyên gia nông nghiệp Đài Loan cho biết đã nghiên cứu phát triển
thành công các giống lúa mới giàu dinh dưỡng. Các giống này không phải là
biến đổi gen sẵn có nhiều màu sắc khác nhau như đen, đỏ và vàng mà màu sắc
phụ thuộc vào hàm lượng dinh dưỡng như Beta-carotene và anthocyanins - một
chất chống ôxy hoá. Đây là kết quả nghiên cứu gần 9 năm thí nghiệm để gây đột
biến trên cây lúa với việc sử dụng các tác nhân hoá học. Như trên ta thấy, để đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của con người các nhà chọn giống không những
chọn tạo ra được những giống lúa có năng suất cao mà còn chọn tạo ra những
giống có chất lượng cao, hàm lượng dinh dưỡng lớn. Đây cũng là một giải pháp
để giảm áp lực cho y học. Vì vậy, một số viện nghiên cứu Quốc tế đang tập
trung vào giống lúa mới “gạo vàng 2” để chống lại nguy cơ bệnh mù do thiếu
vitamin A đang tăng lên trên Thế giới. So với giống "gạo vàng" phát triển vào
năm 2000, “gạo vàng 2” này có hàm lượng beta-carotene cao gấp 23 lần.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

14
Theo ông Jagadish Mittur - giám đốc Trung tâm nghiên cứu Monsanto
ở Bangalore (Ấn Độ), bộ gen của giống lúa mới được ghép thêm gen của cây
thủy tiên hoa vàng hoặc cây ngô. Giống lúa đang được nghiên cứu và phát
triển ở sáu nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Vì giống lúa mới là sản phẩm
của công nghệ biến đổi gen, các nhà khoa học đang nghiên cứu để xác định
độ an toàn thực phẩm và an toàn môi trường của giống lúa này, trước khi đưa
vào gieo trồng đại trà mang tính thương mại trong vòng 3-4 năm tới [16].

Ngoài châu Á, thì ở Mỹ, năm 1926, J.W Jones đã bắt đầu nêu vấn đề ưu
thế lai của lúa khi khảo sát lúa ở Đài Loan. Có 2 người tham gia vào đề xuất
vấn đề sản xuất lúa lai thương phẩm là Stansent và Craiglules. Trong thời
gian gần đây các nhà khoa học Mỹ không chỉ quan tâm đến việc chọn lọc, lai
tạo và đưa ra những giống lúa có năng suất cao, ưa thâm canh và ổn định, mà
còn nghiên cứu tỷ lệ protein trong gạo, phù hợp với thị trường hiện nay.
Ngoài ra, trên Thế giới còn rất nhiều nhà khoa học đã và đang nghiên cứu các
giống lúa nhằm mục đích đưa ra những giống lúa có năng suất cao, phẩm chất
tốt, có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh, thâm canh.
* Sơ lược lịch sử chọn tạo giống lúa trên thế giới
Theo Gurdev S. Khush trong bài khai mạc hội thảo “Lúa lai và sự
thay đổi trong hệ thống nông trang” do hiệp hội các nhà khoa học trẻ có triển
vọng tổ chức tại Đại học Kyushu, Nhật Bản từ 22 - 24/11/2008 cho biết lịch
sử chọn tạo giống lúa trên thế giới chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn chọn lọc: 1901 - 1949
Cây lúa xuất hiện sớm nhất ở khu vực châu Á. Xuất hiện đầu tiên ở
Maligaya (Philippines) vào năm 1902, Nishigahara (Japan) vào năm 1903,
Bogor (Indonesia) năm 1905, Mandalay (Burma) năm 1907…. Đây là khu
vực được coi là cái nôi của nghề trồng lúa nước, là nơi tập trung rất đa dạng
nguồn gen cây lúa. Tuy nhiên ở giai đoạn này chủ yếu là các giống lúa thuần
có năng suất thấp.

Số hóa bởi trung tâm học liệu

15
Giai đoạn lai tạo: 1950 - 1960
Giai đoạn này, nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được tạo ra để nâng cao năng
suất và sản lượng lúa gạo. Bên cạnh đó các nhà khoa học còn tập trung nghiên
cứu những giống lúa có khả năng chống lại sự xâm nhiễm của cỏ dại, dịch
bệnh và sự tàn phá của côn trùng.

Giai đoạn Cách mạng xanh: 1961 - 2000
Cuộc cách mạng xanh đã làm cho năng suất và sản lượng lúa trên thế
giới tăng lên một cách rõ rệt, đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cung cấp cho
người dân. Tuy nhiên diện tích trồng lúa ngày càng thu hẹp, tốc độ đô thị hoá
gia tăng. Mặt khác, giá lúa tăng chậm trong khi đó giá vật tư đầu vào tăng cao
không khuyến khích nông dân trồng lúa, hệ số sử dụng ruộng đất khó có thể
tăng cao hơn, nông dân chuyển diện tích trồng lúa sang trồng các cây khác và
nuôi trồng thuỷ sản có hiệu quả kinh tế cao hơn hoặc chuyển sang trồng các
giống lúa có chất lượng cao mặc dù năng suất thấp hơn.
Trước sự suy giảm về năng suất lúa các nhà khoa học đang từng bước
tạo ra những giống lúa mới cho năng suất cao đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của
thực tế sản xuất. Từ những giống lúa truyền thống ban đầu dần được cải tiến
tạo ra giống năng suất cao, lúa lai, giống lúa thế hệ mới.
Có ba giống lúa thế hệ mới được đưa ra sản xuất đại trà tại tỉnh
Yunnan Trung Quốc với năng suất bình quân đạt 13 tấn/ha, năng suất cao
nhất đạt 15,2 tấn/ha.
IR64446-7-10-5 „Dianchao 1‟ (2002)
IR69097-AC2-1 „Dianchao 2‟ (2003)
IR64446-7-10-5 „Dianchao 3‟ (2000)
Gần đây với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ sinh học và các
giống cây trồng chuyển gen. Phương pháp chuyển gen cũng đang được
nhiều viện nghiên cứu áp dụng nhằm tạo các giống lúa có khả kháng thuốc
giết cỏ như giống lúa có tên là Oryza Nivara, kháng côn trùng với gen Bt,

Số hóa bởi trung tâm học liệu

16
chịu ngập như FR13A, chịu hạn hán, và giống lúa C-4 có khả năng tổng hợp
ánh sáng cao.
* Những thành tựu đạt trong công tác chọn tạo giống lúa mới trên

thế giới
Châu Á là vùng trồng nhiều lúa nhất trong đó có các trung tâm nghiên
cứu hàng đầu về lúa đặt tại đây. Phải kể đến đầu tiên là Viện Khảo cứu Lúa
gạo quốc tế International Rice Research Institute (IRRI) ở Los Banos,
Philippines đã bắt đầu chương trình thu thập, bảo tồn và đánh giá các giống
cổ truyền và các cây lúa dại từ năm 1962. Từ khi thành lập đến nay IRRI đã
lai tạo, chọn lọc hàng trăm giống lúa tốt phổ biến khắp thế giới, tiêu biểu như
các dòng IR, Jasmi. Hiện nay Viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu chọn
tạo ra các giống lúa cao sản (siêu lúa) có thể đạt 13 tấn/ha/vụ, đồng thời phát
huy kết quả chọn tạo 2 giống là IR64 và Jasmin là giống có phẩm chất gạo tốt,
được trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới. Trên cơ sở một số giống lúa chất
lượng cao Viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu, chọn tạo các giống lúa
có hàm lượng Vitamin và Protein cao, có mùi thơm, cơm dẻo ) vừa để giải
quyết vấn đề an ninh lương thực, vừa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày
càng cao của người tiêu dùng.
Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới sử dụng lúa lai trong sản xuất
đại trà. Năm 1974, các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời những tổ hợp
lai có ưu thế lai cao, đồng thời xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất hạt lai hệ
"3 dòng" được hoàn thiện và đưa vào sản xuất năm 1975. Năm 1976, diện tích
gieo cấy lúa lai ở Trung Quốc mới là 13,3 nghìn ha cho đến nay lúa lai đã phổ
biến rộng rãi trong cả nước. Năm 1983, bộ Nông nghiệp, Chăn nuôi và nghề
cá của Trung Quốc đã coi lúa lai là hạng mục trọng điểm về tiến bộ kỹ thuật
nông nghiệp để phát triển gieo cấy vụ xuân. Thành tựu nghiên cứu và sản xuất
lúa lai của trung Quốc đã đạt được giải thưởng đặc biệt về phát minh năm
1981. Năm 1996, Trung Quốc lại thành công với quy trình sản xuất lúa lai "2
dòng" và đẩy mạnh nghiên cứu lúa lai 1 dòng và lúa lai siêu cao sản nhằm

×