Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

hệ thống các trung gian tài chính và cơ chế lạm phát mục tiêu và khả năng áp dụng vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.22 KB, 26 trang )

HỆ THỐNG CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
I, Khái quát về trung gian tài chính
1.Trung gian tài chính
- Thị trường tài chớnh có phương thức luân chuyển vốn trực tiếp và phương thức
luân chuyển vốn gián tiếp.
Theo phương thức luân chuyển vốn gián tiếp, vốn được luân chuyển từ người
tiết kiệm đến người đầu tư thông qua hệ thống trưng gian tài chính
- Trung gian tài chính là các tổ chức tài chính có khả năng dẫn truyền từ chủ thể
thặng dư vốn sang chủ thể thiếu hụt vốn.
2. Chức năng, vai trò của trung gian tài chính.
* Chức năng của trung gian tài chính:
- Chức năng môi giới: Để diễn ra giao dịch giữa người đi vay và người cho vay
thì họ phải mất thời gian và chi phí để thu thập, và phân tích thông tin lẫn nhau.
Trung gian tài chính sẽ đưa ra các dịch vụ và giao dịch theo yêu cầu đem lại lợi
ích cho cả người cho vay và người đi vay. Giao dịch sẽ diễn ra thuận lợi và
nhanh chóng hơn, từ đó thúc đẩy tỷ lệ đầu tư.
- Chức năng biến đổi tài sản: Là chức năng chủ yếu hình thành nên lợi thế của
kênh chuyển giao vốn gián tiếp.
Thị trường tài chính thay thế công cụ tài chính sơ cấp do người đầu tư phát hành
bằng các công cụ tài chính có tính lỏng cao, rủi ro thấp, cho người tiết kiệm.
Ngoài ra TTTC còn chuyển giao các khoản vốn nhàn rỗi quy mô nhỏ lẻ trong
tay người tiết kiệm thành các quỹ cho vay với quy mô lớn hơn có khả năng đáp
ứng được nhu cầu vốn khác nhau trong xã hội.
3. Cơ cấu hệ thống trung gian tài chính.
- Hệ thống các ngân hàng trung gian
- Hệ thống tổ chức tài chính phi ngân hàng.
II. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG GIAN.
Ngân hàng trung gian là một trung gian tài chính hoạt động đặc trưng của nó là
nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi đó để cho vay, đầu tư và cung ứng các dịch vụ
thanh toán.
1


A.SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG TRUNG GIAN
1, Ngân Hàng Thương Mại
1.1 Ngân hàng thương mại hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận bằng việc kinh
doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu.
- Tính chất sở hữu: Đa dạng
+ ngân hàng quốc doanh
+ngân hàng cổ phần
+ ngân hàng liên doanh
+ ngân hàng tư nhân
1.2 Chức năng NHTM
NHTM là một trung gian tài chính mang đầy đủ chức năng của TGTC bao gồm:
chức năng dẫn vốn; chức năng tiết kiệm; chức năng thanh khoản.Ngoài ra
NHTM cũn cú những đặc trưng riêng như:
a.Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội: NHTM sẽ mở tài khoản cho khách hàng,
nhận tiền gửi và bảo quản tiền gửi đồng thời đáp ứng nhu cầu chi tiền ra khỏi tài
khoản theo yêu cầu của khách hàng. Trên cơ sở phục vụ nhu cầu của khách hàng
là gửi tiền an toàn,, tiện ích, họ sẽ có cơ hội để sử dụng những tiện ích dịch vụ
khác của NHTM.
Đối với khách hàng thông qua việc gửi tiền vàoNH họ không những đảm bảo
được an toàn về tài sản mà cón thu được những khoản lợi tức từ ngân hàng( tuy
nhiên cũng không loại trừ khả năng ngân hàng gặp rủi ro thanh khoản không đáp
ứng được nhu cầu rút tiền của khách hàng). Đối với ngân hàng chức năng này là
cơ sở để ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán, đồng thời tạo ra
nguồn vốn chủ yếu cho ngân hàng để thực hiện chức năng tín dụng.
b.Chức năng trung gian thanh toán.
Trên cơ sở thực hiện chức năng làm thủ quỹ cho xã hội NHTM làm chức năng
trung gian thanh toán để thu phí. Với chức năng này NHTM sẽ chuyển tiền
thanh toán hộ khách hàng, việc này đem lại lợi ích cho cả khách hàng và ngân
hàng.
- Đối với khách hàng: Họ thanh toán tiền nhanh, an toàn tiện lợi và chi phí thấp

so với thanh toán trực tiếp;
- Đối với ngân hàng: Được hưởng phí thanh toán và tận dụng được các nguồn
vốn nhàn rỗi trong thanh toán để cho vay.
2
- Đối với xã hội: Tiết kiệm được tiền mặt trong lưu thông, giảm chi phí trong
lưu thông tiền mặt, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn trong thanh toán từ đó
thúc đẩy nhanh quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá, vốn được sử dụng có hiệu
quả hơn.
c. Chức năng làm trung gian tín dụng
Ngân hàng làm cầu nối giữa bên cung vốn và bên cầu vốn
- Đối với khách hàng gửi tiền: An toàn, tiện lợi, có cơ hội nhận được những dịch
vụ thanh toán tiện ích.
- Đối với khách hàng vay tiền: Họ được đáp ừng nguồn vốn nhanh chóng, kịp
thời, đầy đủ, chi phỉ thấp từ đó có điều kiện để sản xuất kinh doanh tốt hơn.
- Đối với ngân hàng: Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của ngân hàng
sản sinh ra phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Từ đó góp phần vào quyết định
tồn tại và khả năng của ngân hàng.
- Đối với xã hội: Giúp cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, phát huy
nguồn lực, góp phần tăng trưởng kinh tế.
1.3 Nghiệp vụ của NHTM.
Để cụ thể hoỏ cỏc chức năng NHTM ta nghiên cứu các nghiệp vụ của nó. Trước
tiên ta phải tìm hiểu bảng cân đối tài sản của ngân hàng vỡ nú phản ánh toàn bộ
hoạt động của ngân hàng.
Bảng tổng kết tài sản gồm 2 phần: tài sản có và tài sản nợ. Theo thông lệ cột
phải của bảng này được dùng để ghi những tài sản nợ và vốn, cột trỏi dựng để
ghi các tài sản có hay sử dụng vốn.
Tài sản nợ phản ánh nguồn vốn hoạt động của ngân hàng bao gồm: các khoản nợ
thị trường và vốn của ngân hàng. Các khoản nợ thị trường biểu hiện qua những
khoản vốn mà dân chúng gửi vào ngân hàng hoặc NHTM vay của các tổ chức
kinh tế, tài chính khỏc…

Tài sản có phản ánh việc sử dụng vốn của NHTM hay những khoản vốn mà thị
trường nợ ngân hàng: đó là những khoản mà ngân hàng cho thị trường vay hoặc
đầu tư vào thị trường. Mỗi khoản mà ngân hàng cho vay hay đầu tư chứng
khoán có giá trị đều được ghi bên có của bảng tổng kết tài sản làm tăng TSC của
ngân hàng.
** Nghiệp vụ TSC:
*Khoản mục ngân quỹ bao gồm:
3
- tiền mặt tại quỹ: để đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên của ngân hàng cho
khách hàng
- tiền gửi của NHTM này tại NHTM khác nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán hộ
của các ngân hàng.
- tiền gửi của NHTM tại NHTƯ :
_ Dự trữ bắt buộc: không có ý nghĩa thanh toán chi trả, rất ít rủi ro, khoản tiền
này do NHTƯ bắt buộc quy định nhằm sử dụng như một công cụ chính sách tiền
tệ để đạt được mục tiêu
=> Mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản của ngân hàng nhưng ngân
hàng vẫn phải để tiền ở khoản mục này nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, tạo
uy tín với khách hàng, là cơ sở cho nghiệp vụ huy động vốn và cho vay vì khi để
lại ngân quỹ khách hàng sẽ tích cực mở tài khoản tại ngân hàng hơn, là cơ sở để
ngân hàng huy động vốn và khi để lại ngân quỹ ngân hàng cũng có tiền để thực
hiện cho vay,
Tuy nhiên, nếu để tiền ở trong quỹ nhiều thì ngân hàng sẽ không gặp rủi ro
thanh khoản, đáp ứng nhanh nhu cầu thanh toán của khách hàng, nhưng khả
năng sinh lời giảm và ngược lại.
Thực tế các ngân hàng vẫn có thể huy động khi ngân quỹ ớt vỡ: cỏc ngân hàng
hoạt động cùng hệ thống; ngân hàng có thể đi vay; giảm cho vay để tăng tiền
mặt; tăng dự trữ bắt buộc tại NHTƯ bằng cách đem nộp tiền, hoặc vay tái chiết
khấu, tái cấp vốn nhưng không lấy tiền mặt mà ghi tăng dự trữ bắt buộc; hoặc đi
vay NHTM khác.

* Nghiệp vụ cho vay
+Cho vay ngắn hạn:
- cho vay chiết khấu: là nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng trung gian. Đây
là nghiệp vụ an toàn vì có tài sản đảm bảo , thủ tục cho vay đơn giản, ngân hàng
không phải xét tư cách của người cho vay mà xét tư cách của người phát hành
giấy tờ có giá, thu gốc và lãi dễ.
- cho vay ứng trước: là cho vay trên cơ sở hợp đồng theo đó ngân hàng sẽ ứng
trước vào tài khoản tiền gửi của khách hàng để sử dụng,nghiệp vụ này rất tiện
lợi cho khách hàng nhưng lại bất lợi cho ngân hàng vì rủi ro cao, không có tài
sản đảm bảo.
4
- cho vay vượt chi( thấu chi) là cho vay cơ sở hợp đồng theo đó ngân hàng cho
phép khách hàng dư nợ tài khoản vãng lai trong một giới hạn và thời gian nhất
định theo lãi suất thoả thuận.
- uỷ thác thu, bao thanh toán: khách hàng nhờ ngân hàng thu tiền hộ. Bao thanh
toán là ngân hàng sẽ mua lại toàn bộ giấy nợ của khách hàng sau đó đi thu nợ để
lấy phí. Khác với nghiệp vụ cho vay chiết khấu là làm cho tất cả khách hàng có
trái phiếu, bao thanh toán chỉ thực hiện cho khách hàng truyền thống. Tóm lại
cho vay ngắn hạn của NHTM chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của NHTM
vì NHTM kinh doanh ngắn hạn là chủ yếu.
+ cho vay trung hạn(1-5 năm)
- cho vay thuê mua:( cho thuê tài chính) là cho vay dựa trên cơ sở hợp đồng theo
đó ngân hàng sẽ mua toàn bộ tài sản cho khách hàng thuê theo các điều kiện ghi
trong hợp đồng. Khi hết hạn hợp đồng khách hàng phải thuê tiếp hoặc mua lại
tài sản này, trong thời hạn thuê thì tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân
hàng, khách hàng không được đem tài sản này để thế chấp hay cầm cố cho một
khoản vay khác.
+Cho vay dài hạn:
- cho vay theo dự án
- cho vay hợp vốn: kết hợp vốn của nhiều ngân hàng để cho vay nhằm phân tán

rủi ro.
* Khoản mục đầu tư:
- chứng khoán chính phủ: đầu tư trái phiếu kho bạc thì an toàn, lãi cao, tính
thanh khoản cao => Ngân hàng đầu tư vào đây để bổ sung cho ngân quỹ.
Trái phiếu chính phủ
- chứng khoán công ty:
Trái phiếu; đầu tư có thời hạn dài, lãi suất cố định, an toàn cao.
Cổ phiếu: lãi lớn, rủi ro cao, các ngân hàng phải dùng vốn tự có để mua chứng
khoán, theo quy định tổng các nguồn đầu tư vào chứng khoán không vượt quá
50% vốn tự có của NHTM.
* Nghiệp vụ TSC khác;
- kinh doanh ngoại tệ
- làm dịch vụ cầm đồ
- cung ứng dịch vụ thanh toán
5
- cho thuê văn phòng, két sắt…
** Nghiệp vụ TSN
* Nghiệp vụ tiền gửi: các khoản vốn mà khách hàng gửi vào ngân hàng bao
gồm:
- Tiền gửi khụng kỡ hạn: đây là tài khoản tiền gửi giao dịch thường xuyên … có
biến động về số dư rất lớn nhưng tổng tiền gửi khụng kỡ hạn tương đối ổn định,
tính lỏng cao nhưng lãi suất thấp.
- Tiền gửi cú kỡ hạn: là loại tiền gửi có sự thoả thuận về kì hạn, chủ yếu do dân
cư , hộ gia đình gửi vào ngân hàng với mục đích an toàn
=>ý nghĩa của nghiệp vụ tiền gửi: tính ổn định không cao, chi phí huy động vốn
thấp, chiếm tỷ trọng cao do đó đây là nguồn huy động chủ yếu để ngân hàng
kinh doanh thu lãi.
* vốn đi vay:
- Phát hành chứng khoán, chứng chỉ tiền gửi… là chứng khoán thứ cấp có tính
lỏng cao, có độ tín nhiệm, rủi ro thấp,

- Vay NHTG khác, vay NHTƯ và vay nước ngoài
+ Tớnh chất các khoản đi vay: ổn định cao, do đó ngân hàng có thể chủ động
trong việc sử dụng các nguồn vốn này ; khối lượng vốn ít nên chi phí cao
+ Tầm quan trọng của vốn vay: vốn vay không phải là nguồn vốn kinh doanh
chủ yếu của ngân hàng , mf ngân hàng vay chủ yếu để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản, chi trả.
* Vốn tự có: - vốn điều lệ
- vốn góp
* Các quỹ:
- Quỹ dự phòng rủi ro
-Quỹ dự trữ bổ sung vốn pháp định
- Quỹ tiền lương, thưởng
+ Tính chất của vốn tự có : ổn định cao tạo sự chủ động cho việc sử dụng của
ngân hàng mặc dù nó chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng,
+ Tầm quan trọng: thể hiện thế mạnh, khả năng cạnh tranh của ngân hàng, nó là
cơ sở cho các huy động vốn và cho vay của ngân hàng là tấm đệm chống đỡ rủi
ro của ngân hàng trong kinh doanh.
6
2. Các NHTG khác
* Ngân hàng đầu tư: là ngân hàng hoạt động chủ yếu là kinh doanh chứng khoán
và làm các dịch vụ liên quan đến chứng khoán
- Tính chất sở hữu đa dạng: tư nhân, cổ phần,
- Mục đích hoạt động: vì lợi nhuận
- Nguồn vốn kinh doanh: phát hành chứng khoán để thu hút nguồn vốn là chủ
yếu, đồng thời có thể nhận tiền gửi khụng kỡ hạn, cú kỡ hạn và đi vay.
- Sử dụng vốn chính; kinh doanh chứng khoán và các nghiệp vụ liên quan đến
chứng khoán.:
+ chấp nhận hối phiếu
+ tư vấn
+ quản lý quỹ đầu tư, quỹ hưu trớ…

* Ngân hàng chính sách: là ngân hàng hoạt động nhằm phục vụ cho các đối
tượng chính sách, nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách xã hội của quốc
gia.
- Tính chất sở hữu: thuộc sở hữu của nhà nước, có thể là ngân hàng cổ phần
nhưng nhà nước nắm giữ cổ phần là chủ yếu,
- Mục tiêu: phục vụ cho các đối tượng chính sách, khụng vỡ mục tiêu lợi nhuận
- Nguồn vốn chính: vốn ngân sách cấp, ngoài ra cũn trớch từ các quỹ, nhận tiền
gửi, đi vay…
- Sử dụng vốn: cho vay các đối tượng chính sách
B. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRUNG GIAN VIỆT NAM HIỆN NAY
Hệ thống ngân hàng Việt Nam có nhiều chuyển biến, nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro.
Trong một hai năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh tiền tệ ngân hàng của Việt
Nam phát triển mạnh mẽ. Tính hấp dẫn của kinh doanh tiền tệ ngân hàng được
đánh giá cao hơn so với nhiều ngành kinh tế khác, lợi nhuận trên vốn tự có của
nhiều ngân hàng đạt 9- 10% cao hơn nhiều so với mức 1- 2% của ngành công
nghiệp. Tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều điểm yếu của hệ thống ngân hàng,
1.Rủi ro từ nội lực và môi trường kinh doanh
Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam là ở nội lực
của chớnh cỏc ngân hàng, với quy mô nhỏ, nguồn lực hạn chế, trình độ công
nghệ còn chậm tiến sơ với các nước trong khu vực. Mặc dù vốn điều lệ của các
ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với khu vực và
7
thế giới. Mức vốn tự có trung bình của một NHTM nhà nước là 4200tỷ đồng,
tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng nhà nước chỉ tương đương với 1 ngân hàng
cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống NHTM quốc doanh chiếm đến 75% thị
trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng. Trong khi đó hệ
số an toàn vốn bình quân của các NHTM Việt Nam còn thấp ( dưới 3%) chưa
đạt tỷ lệ theo ngân hàng nhà nước và thống lệ quốc tế( 8%) chất lượng và sử
dụng hiệu quả tài sản có thấp( dưới 1%) , lại phải đối phó với rủi ro chênh lệch
tỷ giá, rủi ro kì hạn

Nếu trích lập đầy đủ những khoản nợ kinh doanh và nợ khó đòi thì VTC của
NHTM Việt Nam nhất là NHTM nhà nước ở tình trạng âm. Điểm hạn chế thứ
hai của các NHTM trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định
hướng theo nhu cầu khách hàng huy động và nặng về dịch vụ truyền thống. Các
NHTM huy động chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy
động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng
thu nhập. Theo Ts Lê Quốc Lý “ do không thể đa dạng hoỏ cỏc loại hình dịch vụ
ngân hàng đã khiến các NHTM VN chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh
tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức
giới hạn nhất định”
Tình trạng nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng
chú ý là các tổ chức tín dụng nhà nước. Trong đó đáng chú ý là các tổ chức tín
dụng nhà nước. Ts Lê Quốc Lý: một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ quá
hạn gia tăng ở các NHTM quốc doanh là do: Việc cho vay chủ yếu dựa vào tài
sản đảm bảo , trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa
phát triển và còn nhiều biến động phức tạp, tựdo hoá lãi suất có xu hướng làm
cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên, tạo ra nhiều điều kiện thu hút thêm
tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên lãi suất tiền gửi cũng tăng lên làm
cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí sử dụng vốn cho
các doanh nghiệp, phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn vay từ ngân hàng, hậu quả
là ngân hàng tiếp tục cho vay để nuôi nợ dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng
lớn. Một điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là cơ cấu hệ thống tài chính
còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn
cho NKT chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ thì số vốn vay huy động
8
ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm khoảng 50% tổng số vốn huy
động ngắn hạn.
2.Giải pháp đề xuất.
- Nâng cao năng lực tài chính của các NHTM bằng việc đa dạng hóa các hình
thức huy động vốn, điều chỉnh bằng lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý.

Ngoài ra các NHTM cần cơ cấu vốn đầu tư trong điều kiện mới theo hướng
giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn , phát
triển cho vay tiêu dùng đối với cá nhân trong NKT.
- Tăng cường hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, các
NHTM cần tăng mức vốn đầu tư để trang bị kĩ thuật và công nghệ tiên tiến. tuy
nhiên dự án đầu tư công nghệ cần được tính toán kĩ lưỡng để sử dụng công suất
phù hợp với chiến lược mở rộng kinh doanh của ngân hàng.
- Nhân lực chất lượng cao là động lực để bứt phá. Nâng cao năng lực cán bộ
thông qua quản trị điều hành việc nâng cao năng lực quản trị của các NHTM nhà
nước sau khi cổ phần hoá sẽ được thực hiện nhanh nhất và hiệu quả nhất thông
qua sự trợ giúp của các đối tác chiến lược nước ngoài
- Một phần quan trọng để khắc phục những rủi ro tín dụng của NHTM là thực
hiện quản trị NHTM từ chiều rộng sang chiều sâu, theo hướng nâng cao năng
lực quản trị nội bộ thực hiện công tác kiểm tra và chế độ báo cáo thường xuyên.
III. TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG
1.công ty bảo hiểm.
Là tổ chức tài chính mà hoạt động chủ yếu là bảo vệ tài chính cho những người
sở hữu hoạt động bảo hiểm cho những trường hợp xảy ra rủi ro;
* Các nguyên tắc quản lý bảo hiểm: các công ty bảo hiểm tương tự như các ngân
hàng, thực hiện kinh doanh trung gian tài chính chuyển tài sản từ dạng này sang
dạng khác cho công chúng. Các công ty bảo hiểm sử dụng phí bảo hiểm thu
được nhờ việc bỏn cỏc hợp đồng bảo hiểm để đầu tư vào các TSC, rồi từ những
TSC này dùng thanh toán cho những yêu cầu đòi bồi thường theo các hợp đồng
đó bỏn. Nếu quá trình sản xuất, chuyển đổi tài sản của một công ty bảo hiểm
cung cấp có hiệu quả cho khách hàng của mình những dịch vụ bảo hiểm xứng
đáng với giá hạ và nếu nó thu được lợi tức cao trong các vụ đầu tư thì sẽ tạo ra
lợi nhuận, nếu không sẽ chịu tổn thất. Trong trường hợp rủi ro đạo đức xảy ra,
khi co bảo hiểm sẽ khuyến khích bên được bảo hiểm tạo rủi ro. Lựa chọn đối
9
nghịch xảy ra => khi những người dễ nhận được nhất là các khoản tiền bảo hiểm

lớn là những người muốn mua bảo hiểm nhất. Cả lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức đều có thể đưa đến tổn thất lớn cho công ty bảo hiểm bởi vì chúng tạo
ra những khoản thanh khoản cao cho các khiếu nại đòi bảo hiểm. Do đó tối thiểu
hoá lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là quan trọng đối với công ty bảo
hiểm vì thế công ty bảo hiểm phải thực hiện phương thức thực hành bảo hiểm
- sàng lọc: Để giảm bớt sự lựa chọn đối nghịch các công ty bảo hiểm cố gắng
sàng lọc những người mang bảo hiểm rủi ro rồi.
- Phí bảo hiểm rủi ro: đối với công ty bảo hiểm việc thu phí bảo hiểm dựa trên
mức độ rủi ro của đối tượng được bảo hiểm( gọi là phí rủi ro bảo hiểm) là một
nguyên tắc quản lý bảo hiểm đúng đắn. Nguyên tắc này quan trọng, liên quan
đến khả năng sinh lợi của công ty bảo hiểm.
- Những điều khoản hạn chế: là công cụ quản lý để giảm bớt rủi ro đạo đức. Các
điều khoản này làm những người giữ hợp đồng nản lòng không thực hiện những
hoạt động rủi ro, làm cho một khiếu nại bồi thường bảo hiểm khó xảy ra. Một
điều khoản hạn chế người giữ hợp đồng hưởng lợi vì hành vi cư xử khiến cho
một khiếu nại bồi thường dễ có thể xảy ra.
- Việc phòng ngừa gian lận:Cỏc công ty bảo hiểm cũng đối mặt với rủi ro đạo
đức vì một nhân viên bảo hiểm cố ý muốn nói dối công ty và tìm cách khiếu nại
đòi bồi thường dù khiếu nại này không có căn cứ, cũng có thể một người đưa
khiếu nại này mà thực tế không xảy ra.
- Huỷ bỏ bảo hiểm: sẵn sàng huỷ bỏ hợp đồng là một công cụ quản lý bảo hiểm
khỏc. Cỏc công ty bảo hiểm có thể kiềm chế rủi ro đạo đức khi họ đe doạ huỷ bỏ
một hợp đồng khi người nào đó đang bảo hiểm có những hoạt động dễ khiếu nại
đòi bồi thường.
- khoản khấu trừ: khoản khấu trừ là một khoản tiền cố định được khấu trừ từ tổn
thất của người được bảo hiểm khi được thanh toán. Là công cụ quản lý giảm
thiểu rủi ro đạo đức. khoản khấu trừ là phần phản gánh chịu tổn thất cùng với
công ty bảo hiểm khi khiếu nại đòi bồi thường được thực hiện.
- Đồng bảo hiểm: khi một người được bảo hiểm cùng gánh chịu một tỷ lệ tổn
thất với công ty bảo hiểm, việc này sẽ giảm bớt ý muốn thực hiện những hoạt

động như là chữa bệnh một cách không cần thiết- việc có liên quan đến các
10
khiếu nại đòi bồi thường nhiều tiền hơn vì vậy đồng bảo hiểm có tác dụng giảm
rủi ro đạo đức.
- Những giới hạn của đồng bảo hiểm:
Mặc dù khách hàng sẵn sàng thanh toán để cú thờm tiền bồi thường, tuy nhiên
vẫn cần giới hạn bảo hiểm. Tiền bảo hiểm càng lớn thì người được bảo hiểm
càng dễ tham gia hơn các hoạt động rủi ro, khiến cho việc thanh toán bảo hiểm
dễ có thể xảy ra, và do đó rủi ro đạo đức lớn.
* Công ty BH nhân thọ
Hợp đồng bảo hiểm của công ty này bảo vệ tài chính cho bản thân hoặc nhân
thân của người có hợp đồng bảo hiểm
Có hai loại hợp đồng bảo hiểm Nhân thọ
+ Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ kì hạn
+ Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trọn đời
- Nguồn huy động của các công ty bảo hiểm nhân thọ
+ Phí bảo hiểm từ các hợp đồng là số tiền khách hàng đóng cho công ty bảo
hiểm mục đích sẽ có nguồn thu nhập khi có biến cố xảy ra hoặc khi tuổi già.
+ Thu nhập từ đầu tư: lợi nhuận có được từ các hoạt động đầu tư của công ty
bảo hiểm
+ Các hợp đồng bảo lãnh: đây cũng là nguồn huy động quan trọng của ngành
bảo hiểm , công ty bảo hiểm bán ra các hợp đồng bảo hiểm đầu tư bảo lãnh với
lời hứa trả lãi suất cố định dài hạn cho những người mua. Lãi suất của việc huy
động này cao nên đây là nguồn có nguy cơ rủi ro caơ đối với công ty bảo hiểm
+ Các tài khoản riêng của các doanh nghiệp, cá nhân, các quỹ trợ cấp, hưu trí do
công ty bảo hiểm quản lý. Nguồn này không nằm trong tài khoản chung của
công ty bảo hiểm. Họ quản lý điều hành và kinh doanh đầu tư nguồn vốn này
theo sự uỷ thác của các doanh nghiệp, cá nhân.
- Các loại hình đầu tư của công ty bảo hiểm
+ Chứng khoán chính phủ: an toàn cao, tính lỏng cao. Do tải sản lưu hoạt động

của công ty thường được dự trữ ở mức thấp cho nên các chứng khoán nhà nước
rất được ưa chuộng trên thị trường thứ cấp sẽ là dự trữ thanh khoản bổ sung vì
tính chất an toàn trong ngành bảo hiểm.
+ Trái phiếu công ty: các loại trái phiếu công ty mà BH quan tâm chủ yếu là trái
phiếu của ngành công nghiệp và sản xuất chế tạo phát hành. Đầu tư trái phiếu là
11
hoạt động quan trọng chiếm vị trí hàng đầu trong ngành BH. Họ đầu tư một
lượng rất lớn vào tài sản này vì khả năng sinh lời cao và ổn định.
+ Cổ phiếu công ty: là loại chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng tài sản công ty bảo
hiểm. Chúng mang lại thu nhập lâu dài nhưng cũng có nhiều nguy cơ rủi ro.
Chiến lược đầu tư tiềm năng và dài hạn mà các khoản riêng biệt chiếm chỗ chủ
yếu trong loại đầu tư này.
+ Cho vay thế chấp về thương mại, nông nghiệp bất động sản => an toàn, lợi tức
cao nhưng chịu biến động lớn trước áp lực của lạm phát.
+ Đầu tư trực tiếp bất động sản: như hình thức tự bảo vệ và tăng cường chiến
lược đầu tư lâu dài cho công ty.
+ Cho vay ứng trước với người được bảo hiểm: thực chất đây là hình thức nhận
tiền thanh toán trước.
* Các công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn
_ Đặc điểm
+Sử dụng vốn không dài hạn
+Khó có thể kế hoạch hoá được, các khoản chi nhiều và bất thường.
+Thị trường yêu thích là thị trường tiền tệ (thị trường ngắn hạn)
+ Có nhiều rủi ro.
* Các công ty bảo hiểm Việt Nam hiện nay
Có thể thấy thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn đang là một trong những thị
trường có tốc độ tăng trưởng nhanh và ấn tượng nhất khu vực và trên thế giới
với tốc độ bình quõn thu phí bảo hiểm 1993-2005 đạt khoảng 29%/ năm. Tỷ
trọng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP từ 1,37% (1993) lên trên 2% (2005).
Mục tiêu đặt ra đến 2010, tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP của thị

trường bảo hiểm Việt Nam đạt 4,5% đến 5%. Theo yên cầu của bộ trưởng bộ tài
chớnh doanh thu bảo hiểm phải đạt mức 5,7% 7% /GDP. Các doanh nghiệp
bảo hiểm nhất là các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực bảo hiểm nhõn thọ đã
khẳng định là kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế.
Cơ cấu đầu tư đã chuyển mạnh từ đầu tư ngắn hạn sang đầu tư dài hạn dưới các
hình thức: mua trái phiếu chớnh phủ, đầu tư vào cổ phiếu niêm yết và chưa niêm
yết, đầu tư trực tiếp vào các dự án phát triển kết cấu hạ tầng như giao thông,
năng lượng, khu đô thị, khu công nghiệp, các dự án sản xuất, dịch vụ…
12
Một số công ty BH thành lập các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu
tư để chuyên nghiệp hoá hoạt động kinh doanh cung cấp thêm dịch vụ tài chớnh
cho thị trường qua đó góp phần tạo thêm kênh huy động vốn đầu tư quan trọng
cho nền kinh tế, nhất là vốn đầu tư từ các tầng lớp dõn cư. Chớnh sự tham gia
tích cực và ngay từ đầu của các doanh nghiệp BH vào thị trường vốn và thị
trường chứng khoán VN là yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển của thị
trường.
2.Các quỹ trợ cấp
- Là tổ chức tài chớnh có vốn hình thành trên cơ sở vốn góp.
-Trong việc thực hiện các chức năng trung gian tài chớnh chuyển đổi tài sản, các
quỹ trợ cấp đem lại cho công chúng một loại bảo vệ khác – thanh toán tiền thu
nhập hưu trí. Những người thuê nhõn công, các liên hiệp, hoặc các cá nhõn có
thể đề ra những chương trình tự cấp. Các chương trình này thu nhận tiền vốn do
người tham dự nộp vào. Tuy mục đớch các chương trình tự cấp như nhau, nhưng
có thể khác nhau ở một số đặc tớnh.
-Tự cấp riêng:
Những người có thu nhập cao sẽ đóng một phần thu nhập của mình vào quỹ này
đến khi nghỉ việc được trả lại mỗi tháng tương tự lương hưu.
-Tự cấp công cộng
Số tiền quỹ lớn, chi phí quản lý quỹ cao, số dư cao, đõy là chương trình tự cấp
quan trọng cũn được gọi là BH xã hội vốn là tỷ lệ nhất định trên lương của

người lao động đóng góp
3.Các trung gian đầu tư
-Là các loại hình TGTC, thực hiện huy động vốn bằng phát hành chứng khoán,
đồng thời sử dụng vốn vào mục đích chuyên biệt vì quyền lợi các chủ thể đầu tư.
-Đặc trưng là huy động vốn trung và dài hạn để đầu tư lĩnh vực chuyên môn
hoá.
-Nguồn: + huy động vốn tiền gửi
+ bán chứng khoán để hút tiền
*Công ty tài chớnh
13
-Là trung gian tài chớnh hình thành nguồn vốn bằng cách huy động tiền gửi có
kỳ hạn hoặc phát hành chứng khoán nợ hay vay của ngõn hàng.
-Mục tiêu: huy động vốn nhanh nhất cho công ty mẹ, đáp ứng nhu cầu vay chủ
yếu là nhỏ, lẻ, phục vụ cho tiêu dùng của các cá nhõn, gia đình.
-Bao gồm ba loại: Công ty TC tiêu dùng
Công ty TC bán hàng
Công ty TC thương mại
*Quỹ đầu tư
- Quỹ đầu tư hay cũn gọi là công ty uỷ thác đầu tư là định chế tài chính thực
hiện việc huy động vốn của người tiết kiệm thông qua việc bán các chứng chỉ
góp vốn.
- Bao gồm các loại:
+ Căn cứ vào quy mô: quỹ đầu tư tư nhõn
Quỹ đầu tư tập thể
+ Căn cứ vào cơ cấu huy động vốn:
Quỹ đẩu tư mở
Quỹ đầu tư đóng
+ Căn cứ vào cơ cấu tổ chức:
Quỹ đầu tư theo mô hình tín thác
Quỹ đầu tư theo mô hình công ty

+ Căn cứ vào đối tượng đầu tư:
Quỹ cổ phần thường
Quỹ trái phiếu
Quỹ thị trường tiền tệ
4.Các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác
- Là những tổ chức tài chớnh không làm trung gian, không làm môi giới, làm
các dịch vụ uỷ thác và kinh doanh trên thị trường TC theo yêu cầu của khách
hàng.
+ Không phát hành giấy nợ cho riêng mình.
+ Vai trò : kích thích tiết kiệm, đầu tư, tạo tăng trưởng cho nền kinh tế.
- Các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán: ngoài việc môi giới chứng
khoán họ cũn kinh doanh chứng khoán để hưởng chênh lệch giá.
14
- Các sở giao dịch chứng khoán: là nơi diễn ra hoạt động chứng khoán tập trung.
Hàng hoá là các chứng khoán đã niêm yết, là thị trường có tớnh minh bạch và tổ
chức cao, chịu sự quản lý của nhà nước.
Phần II: Cơ chế lạm phát mục tiêu và khả năng áp
dụng vào Việt Nam
Lạm phát mục tiêu đã trở thành cơ chế điều hành CSTT phổ biến trên thế giới.
Hiện nay có khoảng 21 quốc gia (8 quốc gia công nghiệp và 13 quốc gia thị
trường mới nổi) đang áp dung cơ chế này. Bên cạnh đó, một số quốc gia khác
cũng đang nghiên cứu những bước đi của các quốc gia LPMT để tìm ra khả
năng áp dụng trong thời gian tới.
Đó có một số nghiên cứu, bài viết về LPMT, trong đó nờu khỏ cụ thể về khái
niệm và những yếu tố cấu thành nên cơ chế này, nên bản báo cáo phân tích này
chủ yếu hướng vào việc trả lời câu hỏi: LPMT có phải là một cơ chế ưu việt và
thích hợp với các quốc gia thị trường mới nổi không? Nếu có thì khả năng áp
dụng vào Việt Nam như thế nào? Tuy nhiên, để đảm bảo tính đầy đủ, đồng bộ,
báo cáo này trước hết nêu tóm tắt về khái niệm và đặc điểm của cơ chế LPMT,
sau đó đi vào phân tích những ưu, nhược điểm của cơ chế này xột trờn khía cạnh

lý luận. TiÕp theo, chúng tôi xin đưa ra một số đánh giá về cơ chế LPMT trên
cơ sở tham khảo một số nghiên cứu thực nghiệm. Cuối cùng xin đưa ra một số
gợi ý ban đầu đối với việc đổi mới cơ chế điều hành CSTT ở NHNN.
1- Khái niệm và đặc điểm của cơ chế LPMT:
Khái niệm: Lạm phát mục tiêu là một trong những khuôn khổ chính sách tiền
tệ mà theo đó, NHTW hoặc Chính phủ thông báo một số mục tiêu trung hạn về
lạm phát và NHTW cam kết đạt được những mục tiêu này.
Đặc điểm: LPMT có 02 đặc điểm chính
- Thứ nhất, NHTW được uỷ quyền và cam kết đạt được mục tiêu lạm phát với
một con số cụ thể hoặc trong một biên độ nhất định.
- Thứ hai, dự báo về lạm phát được coi (không chính thức) là mục tiêu trung
gian của CSTT, vì việc điều hành CSTT căn cứ vào dự báo lạm phát trong tương
15
lai. Khi tỉ lệ lạm phát dự báo khác với mục tiêu thì NHTW sẽ nghiên cứu khả
năng sử dụng công cụ CSTT để hướng lạm phát về phía mục tiêu đã định.
2- Điều kiện để thực hiện khuôn khổ LPMT.
Các điều kiện cơ bản để một quốc gia có thể theo đuổi được khuôn khổ lạm phát
mục tiêu có thể được chia thành 4 nhúm chớnh.
(i) Nhóm điều kiện đầu tiên và có lẽ là quan trọng nhất đó là NHTW được trao
quyền cao và sự tín nhiệm để theo đuổi lạm phát mục tiêu:
- Ngân hàng Trung ương phải có quyền đặc biệt để theo đuổi mục tiêu lạm phát
và tự mình đặt ra các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Công chúng phải được thông báo về khuôn khổ chính sách tiền tệ và việc thực
hiện chính sách tiền tệ.
(ii) Nhóm điều kiện thứ hai liên quan đến vấn đề đảm bảo mục tiêu lạm phát là
mục tiêu chính, không phải là mục tiêu hỗ trợ cho mục tiêu khỏc. Nhúm này bao
gồm các điều kiện:
- Chính sách tiền tệ không bị chi phối bởi các ưu tiên về ngân sách Chính phủ;
Chính phủ tăng ngân sách bằng việc huy động các nguồn vốn trên thị trường tài
chính và hạn chế tuyệt đối việc cấp tín dụng cho Chính phủ.

- Vị thế bên ngoài đủ mạnh để đảm bảo cho chính sách tiền tệ theo đuổi mục
tiêu lạm phát là mục tiêu hàng đầu.
- Khi bắt đầu thực hiện khuôn khổ lạm phát mục tiêu thì lạm phát cần ở mức
thấp để đảm bảo cho sự điều chỉnh kiểm soát tiền tệ thích hợp.
(iii) Nhóm điều kiện thứ 3 liên quan đến vấn đề phát triển và ổn định thị trường
tài chính để thực hiện khuôn khổ này. Nhóm này bao gồm các điều kiện:
- Cần phải có thị trường tài chính ổn định để đảm bảo cho chính sách tiền tệ theo
đuổi các mục tiêu lạm phát và không bị tác động bởi các lo lắng về sức khoẻ của
thị trường tài chính.
- Thị trường tài chính cần phát triển ở mức nhất định để đảm bảo chính sách tiền
tệ được thực hiện bằng các công cụ thị trường tài chính và đảm bảo việc thực
hiện chính sách tiền tệ không gặp rắc rối do sự yếu kém của thị trường tài chính.
16
(iv) Nhóm điều kiện thứ 4 liên quan đến các công cụ của chính sách tiền tệ:
- NHTW phải ở vị thế tác động đến lạm phát thông qua các công cụ chính sách
và cần thiết phải hiểu các mối quan liên kết giữa vị thế chính sách và lạm phát.
- Các mục tiêu về tỷ giá phải hỗ trợ cho mục tiêu lạm phát. Do đó, NHTW nên
cố gắng làm sáng tỏ vấn đề can thiệp vào thị trường ngoại hối và các thay đổi về
chính sách lãi suất để tác động đến tỷ giá chỉ nhằm mục đích làm giảm nhẹ ảnh
hưởng của các cú sốc tạm thời.
- Chính sách tài khoá và các hoạt động quản lý nợ công cộng nên hỗ trợ cho mục
tiêu lạm phát.
Cỏc nhóm điều kiện trên không có nghĩa tạo thành các điều kiện tiên quyết để
thực hiện lạm phát mục tiêu. Điều đó có nghĩa là không nhất thiết phải có tất cả
các điều kiện này thì một quốc gia mới có thể thực hiện khuôn khổ lạm phát
mục tiêu. Thực tế đã cho thấy mặc dù gặp khó khăn trong việc thoả mãn một số
điều kiện, khuôn khổ lạm phát mục tiêu vẫn hoạt động tốt. Quyết định có theo
đuổi khuôn khổ lạm phát mục tiêu cần phải dựa trên sự cân nhắc thận trọng các
chi phí và lợi ích của khuôn khổ lạm phát mục tiêu so với các khuôn khổ khác.
3. Ưu, nhược điểm của cơ chế LPMT:

Theo một số nhà phân tích thuộc trường phái ủng hộ cơ chế LPMT, cơ chế này
có 03 ưu điểm chính sau:
Một là, LPMT giúp gây dựng lòng tin và kiểm soát kỳ vọng lạm phát, cũng như
duy trì nó trong thời gian dài.
LPMT thể hiện rõ rằng mục tiêu chính của CSTT là đạt được tỉ lệ lạm phát
thấp, đồng thời cơ chế này có tính minh bạch cao. Mục tiêu lạm phát rõ ràng, dễ
quan sát, dễ hiểu hơn và không thay đổi nhiều so với các mục tiêu khác. Điều
này giúp cho các tác nhân trong nền kinh tế hiểu và đánh giá được tốt hơn về
khả năng của NHTW, từ đó NHTW có thể kiểm soát được kỳ vọng lạm phát
được tốt hơn so với các cơ chế khác mà vai trò của NHTW tỏ ra kém rõ ràng và
khó theo dõi hơn.
Hai là, LPMT có sự linh hoạt cao hơn.
Do CSTT thường có độ trễ, nờn nú không thể tác động ngay đến lạm phát hiện
hành. Vì vậy, mục tiêu lạm phát thường được hiểu là mang tính trung hạn. Điều
17
này có nghĩa là NHTW theo đuổi mục tiêu đó trong một thời kỳ nhất định, thông
qua việc kiểm soát và duy trì kỳ vọng lạm phát ở mức phù hợp. Trong ngắn hạn,
những biến động của lạm phát so với mục tiêu là có thể chấp nhận được và
không nhất thiết làm mất đi lòng tin của công chúng đối với NHTW.
Ba là, trong cơ chế LPMT, chi phí kinh tế phát sinh khi CSTT thất bại sẽ ở mức
độ thấp hơn.
Hậu quả do sự thất bại của CSTT trong một số cơ chế, chẳng hạn như chế độ
neo tỉ giá, trong nhiều trường hợp là rất lớn như: tổn thất nghiêm trọng về dự trữ
ngoại tệ, lạm phát cao, vỡ nợ và các cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ. Trong
khi đó, trong cơ chế LPMT, khi CSTT thất bại vì không đạt được mục tiêu lạm
phát, thì hậu quả thường chỉ là lạm phát tạm thời ở mức cao hơn mục tiêu và
tăng trưởng kinh tế chậm lại vì NHTW phải tăng lãi suất để đưa lạm phát về
mục tiêu.
Với quan điểm khác, một số nhà kinh tế cho rằng LPMT cũng có những điểm
bất lợi, cụ thể:

Một là, trong cơ chế LPMT cú quỏ ớt quyền tự quyết và bởi vậy cơ chế này cản
trở tăng trưởng kinh tế một cách không cần thiết.
Do sự thành công của LPMT dựa trên cơ sở phải thiết lập được lòng tin của
công chúng đối với NHTW, nên cơ chế này chỉ vận hành hiệu quả nếu NHTW
luôn đạt được mục tiêu lạm phát đặt ra. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu chuyển
sang cơ chế LPMT, để duy trì được lạm phát ở mức cam kết, NHTW có thể
không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải thắt chặt tiền tệ, bởi thế sẽ làm
tăng trưởng sản lượng giảm đi.
Hai là, LPMT không thể kiểm soát được kỳ vọng lạm phỏt vì cơ chế này có quá
nhiều quyền tự quyết.
Trái ngược với quan điểm nêu trên, một số nhà nghiên cứu cho rằng LPMT
không thể giúp gây dựng lòng tin ở các quốc gia mà kỳ vọng lạm phát không ổn
định và ở mức cao, vì cơ chế này có quá nhiều quyền tự quyết về việc làm thế
nào và khi nào đưa lạm phát về mục tiêu đặt ra. Ngoài ra, ngay cả mục tiêu lạm
phát cũng có thể được thay đổi, nên lại càng tác động xấu đến lòng tin của công
chúng vào khả năng kiểm soát lạm phát của NHTW.
Ba là, cơ chế LPMT có thể dẫn đến sự biến động mạnh của tỉ giá.
18
Do mục tiêu chính của LPMT là ổn định giá cả, nên cơ chế này đòi hỏi tỉ giá
phải hoàn toàn (hoặc chí ít cũng phải tương đối) được tự do biến động. Bởi vậy,
một quốc gia dụng cơ chế LMPT, có thể phát sinh những tác động xấu đến mức
độ biến động của tỉ giá và tăng trưởng kinh tế.
Bốn là, LPMT không thể vận hành ở các quốc gia không đáp ứng được các
“điều kiện tiên quyết”.
Các điều kiện này thường bao gồm: Khả năng về mặt kỹ thuật của NHTW trong
việc thiết lập cơ chế LPMT, đặc biệt vấn đề thu thập thông tin, phân tích và dự
báo; Không có sự thống lĩnh về tài khoá, trong đó đảm bảo NHTW không tài trợ
cho thâm hụt ngân sách; Thị trường tài chính phát triển; Có thể chế hiệu quả để
hỗ trợ và thúc đẩy việc thực hiện cam kết đạt được mục tiêu lạm phát, chẳng hạn
như vị thế độc lập của NHTW

4. Khả năng áp dụng cơ chế LPMT ở các quốc gia thị
trường mới nổi:
* Một số quan điểm phản đối việc áp dụng cơ chế LPMT cho rằng: ở nhiều quốc
gia thị trường mới nổi, khả năng về mặt kỹ thuật (trong đó có vấn đề nghiên cứu,
phân tích và dự báo) còn rất yếu kém và tính độc lập của NHTW rất thấp. Vì
vậy, theo quan điểm trờn, cỏc quốc gia này nên tiếp tục theo đuổi cơ chế CSTT
truyền thống, chẳng hạn như các cơ chế lấy tỉ giá hoặc tăng trưởng tiền tệ làm
mục tiêu.
Theo trường phái nêu trên, để có thể áp dụng cơ chế LPMT, các quốc gia cần
đáp ứng 04 điều kiện tiên quyết.
Thứ nhất , NHTW phải độc lập về thể chế, có nghĩa là phải độc lập hoàn toàn
về pháp lý và không phải chịu các áp lực tài khoá hoặc chính trị, từ đó tránh
được các mâu thuẫn với mục tiêu lạm phát đặt ra.
Thứ hai, quốc gia (mà cụ thể là NHTW) phải có được các số liệu, thông tin
cần thiết, cũng như khả năng xây dựng mô hình và dự báo lạm phát phục vụ cho
quá trình điều hành CSTT theo cơ chế LPMT.
Thứ ba , về cơ cấu kinh tế, để việc kiểm soát lạm phát được hiệu quả, giá cả
hoàn toàn phải được biến động tự do; nền kinh tế không quá nhạy cảm với sự
19
biến động của tỉ giá và giá cả hàng hoỏ nguyờn nhiên liệu đầu vào; đồng thời
tình trạng đô la hoá phải ở mức độ tối thiểu.
Thứ tư, hệ thống tài chính phải vững mạnh thể hiện ở hiệu quả hoạt động của
hệ thống ngân hàng, trình độ phát triển của thị trường vốn, nhằm mục đích giảm
thiểu xung đột với các mục tiêu bình ổn tài chính.
Kết quả nghiên cứu của một số nhà phân tích (chủ yếu từ IMF), cho thấy rằng
nhìn chung không có quốc gia nào đáp ứng đủ 04 điều kiện nêu trên trước khi
chuyển sang cơ chế LPMT, cụ thể là:
Đối với điều kiện thứ nhất – Tính độc lập của NHTW: hầu hết các NHTW đều
có được phạm vi độc lập nhất định trong việc sử dụng các công cụ CSTT, nhưng
hầu hết các NHTW không đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí về tính độc lập cao

về mặt pháp lý như: (i) không tài trợ cho chi tiêu ngân sách dưới mọi hình thức;
(ii) đảm bảo vị trí thống đốc NHTW được ổn định, chẳng hạn như có nhiệm kỳ
cố định và thống đốc chỉ bị miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm trong một số trường
hợp; và (iii) luật pháp cần chỉ rõ rằng ổn định giá là mục tiêu duy nhất của
NHTW, hoặc nếu có các mục tiêu khỏc thỡ ổn định giá cả cần phải được ưu tiên
hàng đầu.
Đối với điều kiện thứ hai - khả năng về mặt kỹ thuật của NHTW: thực tế cho
thấy rằng khi chuyển sang cơ chế LPMT, hầu hết các quốc gia, kể cả các nước
công nghiệp, đều chưa có hoặc có rất ít khả năng dự báo. Bên cạnh đó, tại thời
điểm áp dụng LPMT, các quốc gia gặp nhiều vấn đề về số liệu, trong đó các
quốc gia thị trường mới nổi thường có nhiều khó khăn hơn so với các nước công
nghiệp.
Đối với điều kiện thứ ba - về cơ cấu kinh tế: vào thời điểm áp dụng cơ chế
LPMT, không có quốc gia nào có được các điều kiện kinh tế thật tốt, trong đó tất
cả các quốc gia đều nhạy cảm với những thay đổi của tỉ giá và giá hàng hoỏ
nguyờn nhiên liệu đầu vào. Bên cạnh đó, đô la hoá mặc dù không phải là vấn đề
đối với các nước công nghiệp, nhưng lại tồn tại với những mức độ khác nhau ở
các quốc gia thị trường mới nổi, mà nghiêm trọng nhất là ở Peru. Ngoài ra, ngay
cả trong điều kiện hiện nay, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ở nhiều quốc gia LPMT
vẫn bị ảnh hưởng đáng kể của sự biến động giỏ cỏc mặt hàng do Nhà nước quản
lý.
20
Đối với điều kiện thứ tư - Hệ thống tài chính vững mạnh: Tại thời điểm chuyển
sang cơ chế LPMT, điều kiện này đều không được đáp ứng tốt ở hầu hết các
quốc gia. Điều này được thể hiện ở các chỉ tiêu như: hệ số an toàn vốn (CAR),
độ sâu tài chính (mức độ vốn hoá của thị trường chứng khoán so với GDP, khối
lượng trái phiếu do khu vực tư nhân phát hành so với GDP, doanh số mua bán
của thị trường vốn…) và trạng thái ngoại hối của các ngân hàng thương mại.
Những đánh giá nêu trên cho thấy rằng một quốc gia nếu không đáp ứng được
các điều kiện tiên quyết (như một số nhà nghiên cứu đưa ra ở trên) vẫn có thể

chuyển sang áp dụng cơ chế LPMT. Bên cạnh đó, thực tế cũng cho thấy rằng khi
áp dụng cơ chế LPMT, cơ cấu tổ chức và khả năng kỹ thuật của các NHTW
được cải thiện nhanh, trong đó bao gồm cả vấn đề thu thập, xử lý thông tin và dự
báo.
** Kinh nghiệm của một số nước thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu:
1. Chilờ
Chilờ là nước đầu tiên trong số các quốc gia mới nổi áp dụng khuôn khổ lạm
phát mục tiêu, năm 1990 tỷ lệ lạm phát của Chilờ hơn 20%. Như phần trên trình
bầy để đảm bảo cho khuôn khổ lạm phát mục tiêu thành công thì NHTW phải
được độc lập, ngân sách nhà nước đủ mạnh và hệ thống tài chính lành mạnh.
Trước khi theo đuổi lạm phát mục tiêu, Chilờ đó thông qua Luật NHTW mới
vào năm 1989 và có hiệu lực vào năm 1990, trao quyền độc lập cho NHTW và
quyền theo đuổi mục tiêu lạm phát là mục tiêu chính Ngân sách nhà nước cũng
được củng cố, theo đó thặng dư ngân sách từ năm 1991 đến 1997. Bên cạnh đó
nhừ một loạt các biện pháp được áp dụng sau cuộc khủng hoảng ngân hàng
những năm 80 thì hệ thống tài chính của Chilờ đó phát triển lành mạnh.
Ngân hàng Trung ương Chilờ nhận thức đầy đủ những khó khăn của việc kiểm
soát lạm phát để đạt được mục tiêu đặt ra khi lạm phát ở mức 2 con số và
NHTW Chilờ đó cú một số giải pháp để là được điều này.
Thứ nhất: Tương tự như các quốc gia công nghiệp đã áp dụng khuôn khổ lạm
phát mục tiêu, Chilờ đặt mục tiêu lạm phát từng bước sau khi đạt được thành
công trong việc giảm tỷ lệ lạm phát. Khi tỷ lệ lạm phát được công bố vào tháng
9/1990, NHTW giải thích đây là tỷ lệ lạm phát kế hoạch cần cố gắng để đạt
được chứ không công bố đây là tỷ lệ lạm phát phải đạt được. Chỉ đến khi
21
NHTW đạt được những thành công về giảm tỷ lệ lạm phát và đạt được những
mục tiêu thì NHTW mới nhấn mạnh cần phải đạt được tỷ lệ lạm phát này.
Thứ hai, NHTW Chilờ theo đuổi một cách tiếp cận từng bước để giảm tỷ lệ lạm
phát đạt được mục tiêu bắt đầu năm 1991 tỷ lệ lạm phát là 20% và từng bước
giảm xuống 3,5% sau một thập kỷ.

Chilờ theo đuổi khuôn khổ lạm phát mục tiêu được coi là khá thành công, tỷ lệ
lạm phát giảm từ trên 20%, khi bắt đầu công bố theo đuổi khuôn khổ lạm phát
mục tiêu xuống còn 3% hiện tại. Cùng thời điểm đó, GDP tăng trưởng cao, bình
quân 8%/năm từ 1991 đến 1997.
2. Hàn Quốc:
Trước năm 1997, Hàn Quốc theo đuổi mục tiêu tiền tệ, tuy nhiên sau cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ Hàn Quốc đã chuyển sang điều hành chính sách
tiền tệ hai mục tiêu đó là mục tiêu lạm phát và mục tiêu tiền tệ. Hàn Quốc đã đặt
ra mục tiêu trung hạn về lạm phát 2.5%-3.5% trong giai đoạn 2004-2006 và sử
dụng các công cụ chính sách tiền tệ như dự trữ bắt buộc, thị trường mở, các
chính sách về tín dụng để đạt được mục tiêu này. Kết quả cho thấy Hàn Quốc đã
thành công trong việc theo đuổi khuôn khổ lạm phát mục tiêu, giá cả ổn định,
lạm phát được kiểm soát ở mức đặt ra và biến động không lớn.
3.Thái Lan:
Thái Lan bắt đầu theo đuổi khuôn khổ lạm phát mục tiêu từ năm 2000, theo đó
tỷ lệ lạm phát được công bố theo một biên độ cho thời kỳ trung hạn là 0-3,5%.
Tỷ lệ này được xác định phù hợp với tỷ lệ lạm phát của các nước có quan hệ
kinh tế lớn với Thái Lan và đây là mức thấp so với tỷ lệ lạm phát của các năm
trước, đồng thời với tỷ lệ lạm phát này cũng phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh
tế. NHTW Thái Lan sử dụng mức lói suõt mua lại 14 ngày làm lãi suất chủ đạo
để điều hành chính sách tiền tệ, qua đó tác động đến tỷ lệ lạm phát. Bên cạnh đú
cỏc mức khác như 1 ngày, 7 ngày đôi khi cũng được sử dụng khi cần thiết.
5. Khả năng áp dụng cơ chế LPMT ở Việt Nam:
Có thể thấy việc điều hành CSTT của NHNN hiện nay cũn cú những khó khăn,
bất cập. Việc điều hành CSTT chủ yếu theo phương thức lấy tổng phương tiện
thanh toán (M2) làm mục tiêu trung gian và duy trì sự ổn định tỉ giá. Song một
22
số nghiên cứu cho thấy ở Việt Nam không có quan hệ chặt chẽ giữa M2 với các
mục tiêu tăng trưởng, lạm phát. Bên cạnh đó, những năm gần đây tỉ giá giữa
VND và USD ổn định, nhưng lạm phát CPI vẫn khá cao. Điều này đặt ra yêu

cầu đổi mới điều hành CSTT của NHNN.
Các phân tích nêu tại phần 4 ở trên gợi ý rằng một quốc gia muốn áp dụng cơ
chế LPMT, không nhất thiết phải đáp ứng đầy đủ cả 4 điều kiện được một số
nhà kinh tế cho là “tiờn quyết”. Mặc dù vậy, trong điều kiện hiện nay, Việt Nam
cũng chưa thể chuyển sang áp dụng cơ chế này khi chúng ta chưa thực sự đáp
ứng được bất kỳ điều kiện tiên quyết nào. Nhưng về trung hạn khả năng này là
có thể, với điều kiện là chúng ta xây dựng được lộ trình cụ thể để chuyển sang
cơ chế mới, cựng cỏc biện pháp chính sách hợp lý, với bước đi thận trọng, vững
chắc. Vì vậy, nếu định hướng chuyển sang áp dụng cơ chế LPMT trong tương
lai, NHNN nên tập trung vào một số vấn đề chính sau:
Một là, trong thời kỳ quá độ chuyển sang cơ chế mới (cơ chế LPMT), Việt Nam
nên thúc đẩy việc tính lạm phát cơ bản (LPCB) đảm bảo độ tin cậy. Đây sẽ là
một căn cứ quan trọng đối với NHNN để bổ sung vào quá trình điều hành CSTT
xuất phát từ các lý do sau:
 LPCB phản ánh xu hướng biến động của giá cả, nên nếu LPCB không
tăng (trong khi lạm phát CPI tăng, chẳng hạn do sự gia tăng của giá lương
thực thực phẩm) thì đây là một căn cứ để NHTW xem xét khả năng chưa
thắt chặt tiền tệ. Ngược lại, khi LPCB tăng, NHTW cần cân nhắc việc có
phản ứng CSTT để kiểm soát lạm phát.
 LPCB có khả năng dự báo, nên khi tính được LPCB hiện hành, có thể
dự đoán được tỉ lệ lạm phát CPI trong tương lai. Đây là một trong những
căn cứ để đưa ra quyết định CSTT, vì CSTT có độ trễ nên thường NHTW
không thể chỉ căn cứ vào lạm phát CPI hiện hành.
 LPCB có mối quan hệ chặt chẽ hơn với các biến số tiền tệ, nên có thể
sử dụng công cụ CSTT để tác động tới LPCB, từ đó tác động đến mục tiêu
lạm phát CPI.
 Ngay cả khi chuyển sang cơ chế LPMT, thì LPCB vẫn là căn cứ cần
thiết cho điều hành CSTT. Thậm chí có quốc gia LPMT (như Thái Lan) lấy
LPCB làm mục tiêu điều hành CSTT.
23

Hai là, song song với việc tính toán để sử dụng LPMT làm căn cứ điều hành
CSTT và các biện pháp chính sách cần thiết khác, NHNN nên có kế hoạch và lộ
trình cụ thể để dần chuyển sang cơ chế LPMT, trong đó tập trung vào một số
vấn đề sau:
 Nâng cao tính độc lập của NHTW. Đây là vấn đề rất quan trọng và là một
trong những nội dung được đề cập đến trong Đề án phát triển NHTW hiện
đại đang được triển khai thực hiện. Để đảm bảo hiệu lực pháp lý cao, nội
dung này cần được nghiên cứu cụ thể và đưa vào Luật NHNN mới. (Theo
chỉ đạo của Thủ tướng Chớnh phủ tại Quyết định 112/2006/QĐ-TTg ngày
24/5/2006, NHNN xõy dựng đề án Luật NHNN mới, thay thế luật hiện
hành để trình Quốc hội trong năm 2008)
 Tiếp tục cú cỏc biện pháp hiệu quả để phát triển thị trường tài chính, định
hình kênh chuyển tải tác động CSTT nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra. Về
phía NHNN, trong thời gian tới, bên cạnh những giải pháp đang thực hiện,
nên xem xét tháo gỡ những vướng mắc phát sinh dẫn đến thực trạng hoạt
động cho vay lẫn nhau giữa các TCTD cũn hạn chế. Việc các TCTD tăng
cường cho vay lẫn nhau cũng giúp thúc đẩy phát triển thị trường tiền tệ liên
ngân hàng - một bộ phận quan trọng trong cơ chế truyền dẫn CSTT.
 NHNN nên nghiên cứu để chuyển dần từ điều hành CSTT theo các chỉ tiêu
khối lượng (như tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán, tín dụng) sang
điều hành bằng công cụ lãi suất. Cụ thể là nờn cú giải pháp để khống chế lãi
suất thị trường trong phạm vi khung lãi suất của NHNN. Do đó, khi điều
chỉnh khung lãi suất của mình, NHNN sẽ tác động làm thay đổi lãi suất thị
trường để hướng đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Liên quan tới vấn đề
này, NHNN nên xem xét việc điều chỉnh lãi suất, đặc biệt là lãi suất tái cấp
vốn tại thời điểm thích hợp.
 Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD, hướng tới mục tiêu xây
dựng một hệ thống ngân hàng vững mạnh, nhằm giảm thiểu xung đột với
mục tiêu ổn định hệ thống tài chính. Khi mục tiêu này đã đạt được ở mức
độ nhất định (thông qua các chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính, hoặc kết

quả kiểm tra sức chịu đựng của từng TCTD), thì khả năng của NHNN trong
việc chuyển sang áp dụng cơ chế LPMT sẽ trở nên rõ ràng hơn. NHNN có
24
thể thay đổi lãi suất linh hoạt hơn khi hệ thống ngân hàng có sức chiu đựng
tốt hơn trước sự thay đổi lãi suất
 Tập trung nghiên cứu cơ chế truyền dẫn CSTT ở Việt Nam để xác định rõ
độ trễ thời gian, phương thức và mức độ tác động của các chính sách do
NHNN thực hiện đến các mục tiêu CSTT. Đây là vấn đề rất quan trọng và
không thể thiếu khi chúng ta chính thức áp dung cơ chế lạm phát mục tiêu./.
25

×