Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

chiến tranh triều tiên (1950-1953) và vai trò của xô- mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.23 KB, 15 trang )

1
MỤC LỤC
Lời mở đầu………………………………………………………………………2
Nội dung…………………………………………………………………………4
1. Nguồn gốc của cuộc chiến tranh…………………………………………… 4
2. Sơ lược diễn biến cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)……………… 7
3. Vai trò của Mỹ và Liên Xô trong cuộc Chiến tranh
Triều Tiên (1950-1953)………………………………………………………9
Kết luận…………………………………………………………………………14
Tài liệu tham khảo………………………………………………………………15












2
LỜI MỞ ĐẦU
Sau Chiến tranh thế giới II, quan hệ quốc tế có những thay đổi rõ rệt. Lúc
này, hai chủ thể trọng yếu của trật tự thế giới là Mỹ và Liên Xô đã từ chỗ là đồng
minh với nhau trong Thế chiến, chuyển sang quan hệ đối đầu nhau quyết liệt. Mỹ
đã đưa ra “học thuyết Truman” thẳng thừng tuyên bố mình phải có sứ mạng lãnh
đạo “thế giới tự do” và các dân tộc trên thế giới chống lại sự “đe dọa” của chủ
nghĩa cộng sản, sự bành trướng của Liên Xô và các nước XHCN bằng mọi biện
pháp. Từ đây đã khơi mào cho cuộc đối đầu quyết liệt suốt hàng mấy thập kỷ


giữa Mỹ và Liên Xô, mà người ta gọi đó là cuộc “Chiến tranh lạnh” . Cả Mỹ và
Liên Xô đều ra sức lôi kéo đồng minh, không ngừng tăng cường tiềm lực quốc
phòng, giành giật nhau khốc liệt trong việc giải quyết các lợi ích quốc tế và luôn
sẵn sàng ở trong tư thế chuẩn bị chiến tranh. Chính vì vậy, khi Thế chiến hai vừa
mới kết thúc, quan hệ quốc tế lại căng thẳng , nguy cơ một cuộc Thế chiến tiếp
theo luôn thường trực. Lúc này, do có nhiều lợi ích mẫu thuẫn nhau, cả Mỹ và
Liên Xô đều can dự ở những mức độ khác nhau vào việc giải quyết các vấn đề
quốc tế. Riêng về mặt quân sự, lúc thì nước này ra mặt, lúc thì nước kia ra mặt,
song phương châm chung là cả Mỹ và Liên Xô đều tối kỵ đụng đầu nhau trực
tiếp. Với phương châm đó, trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, tuy không có cuộc đại
chiến trực tiếp giữa hai cường quốc, nhưng cũng đã xảy ra không ít cuộc xung
đột quân sự mang tính khu vực ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có phản ánh
cuộc đối đầu Xô- Mỹ. Một trong những cuộc xung đột khu vực ở thời kỳ này tiêu
biểu phải kể đến là Cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Đây không đơn
thuần là cuộc nội chiến giữa hai lực lượng đối lập nhằm thống nhất Triều Tiên.
Trong cuộc chiến tranh này, Mỹ và Liên Xô (nước thì lộ diện, nước thì ngấm
ngầm) đã đứng đằng sau hai lực lượng quân sự đối địch nhau: một bên là quân
đội Mỹ- các nước đồng minh và quân đội Nam Triều Tiên, một bên là Trung
Quốc và quân đội Bắc Triều Tiên. Cuộc chiến tranh cục bộ này vừa là công việc
của một dân tộc, nhưng cũng đồng thời phản ánh hiện thực quan hệ quốc tế sau
3
Chiến tranh thế giới II. Cuộc chiến tranh này chính là một phần của Chiến tranh
lạnh, và ở một góc độ nhất định, nó cũng chính là sản phẩm của quan hệ quốc tế,
của sự đối đầu Xô- Mỹ. Việc giải quyết cuộc chiến này không thấu đáo của các
cường quốc, đã gây thương tổn nghiêm trọng cho nhân dân Triều Tiên, khiến bán
đảo Triều Tiên bị chia cắt thành 2 miền, với 2 chế độ xã hội khác nhau và tồn tại
đến tận ngày nay. Do đó việc nghiên cứu về cuộc Chiến tranh Triều Tiên có một
ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó không chỉ giúp ta thấy rõ quan hệ quốc tế lúc bấy
giờ, mà còn lý giải được về sự chia cắt của lãnh thổ Triều Tiên còn có căn
nguyên từ chính quan hệ quốc tế quy định. Xuất phát từ đó, tôi đã quyết định

chọn vấn đề “Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và vai trò của Xô- Mỹ ” làm
bài tập tiểu luận của mình.
Do điều kiện thời gian hạn chế, hơn nữa lại nằm trong khuôn khổ của một
bài tập tiểu luận, nhận thức của bản thân về quan hệ quốc tế sau Chiến tranh lạnh
còn hạn chế, nên trong bài viết này tôi chỉ trình bày khái quát về nguồn gốc của
cuộc chiến tranh, sơ lược diễn biến, phân tích khái lược về vai trò của Mỹ và của
Liên Xô trong cuộc chiến tranh này để từ đó lý giải được tại sao Chiến tranh
Triều Tiên chính là một phần của Chiến tranh lạnh, là một biểu hiện cụ thể trong
thực tế về sự đối đầu Đông- Tây.
Bố cục của tiểu luận, ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính gồm
có 3 mục:
1. Nguồn gốc của cuộc chiến tranh.
2. Sơ lược diễn biến cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953).
3. Vai trò của Mỹ và Liên Xô trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953).



4
NỘI DUNG
1. Nguồn gốc của cuộc chiến tranh.
Triều Tiên vốn là một bán đảo nằm ở Đông Á, giáp liền với Trung Quốc ở
hướng Tây Bắc và Nga ở hướng Đông Bắc, gần với Nhật Bản ở Đông Nam qua
eo biển Triều Tiên. Sau Chiến tranh Trung- Nhật (1894-1895) và Chiến tranh
Nga- Nhật (1904-1905), Nhật Bản đã chiếm được Triều Tiên và đến năm 1910
thì đã sát nhập Triều Tiên vào Nhật Bản. Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới II,
Triều Tiên nằm dưới sự cai trị của phát xít Nhật.
Khi Chiến tranh thế giới II gần bước vào hồi kết, vấn đề độc lập của Triều
Tiên đã được các nước đồng minh nêu ra. Tại Hội nghị Cairô, ngày 1-12-1943
khi hội nghị bàn về tương lai của châu Á, các lãnh tụ phe đồng minh đã nhất trí sẽ
trao quyền tự do và độc lập cho Triều Tiên vào “thời điểm chín muồi”. Đến Hội

nghị Têhêran ngày 28-11-1943, các nước đồng minh lại nhất trí với nhau sẽ trao
quyền độc lập cho Triều Tiên, nhưng hội nghị cũng tiên liệu rằng sẽ phải mất một
khoảng thời gian có thể là 40 năm để Triều Tiên độc lập hoàn toàn. Đến đầu năm
1945, tại Hội nghị Ianta, vấn đề Triều Tiên lại được đưa ra bàn thảo. Các nước
đồng minh gồm Liên Xô, Mỹ, Anh đã thống nhất tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa quân
phiệt Nhật, kết thúc chiến tranh. Trong đó, các nước đồng minh thỏa thuận để
Liên Xô tham chiến tiêu diệt phát xít Nhật tại châu Á. Riêng Triều Tiên, Liên Xô
và Mỹ sẽ phối hợp với nhau giải giáp quân Nhật. Quân đội Liên Xô sẽ chiếm
đóng miền Bắc Triều Tiên, quân đội Mỹ sẽ chiếm đóng miền Nam Triều Tiên,
lấy vĩ tuyến 38
0
làm ranh giới. Liên quân sẽ lập chính phủ quân sự tạm thời dưới
sự điều hành thống nhất, và sẽ chuyển giao quyền lực của chính phủ quân sự cho
chính phủ dân sự Triều Tiên vào thời điểm thích hợp. Các nước tham dự hội nghị
cũng nhất trí về việc Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc sẽ bảo trợ cho Triều Tiên trong
khoảng thời gian từ 20- 30 năm. Sau đó ít lâu, tại Hội nghị ngoại trưởng 5 cường
quốc họp ở Maxcơva (từ 16 – 26/12/1945), vấn đề Triều Tiên lại được đem ra
thảo luận. Hội nghị đã thống nhất sẽ xây dựng một nước Triều Tiên độc lập,
5
thành lập một chính phủ dân chủ lâm thời ở Triều Tiên. Hội nghị cũng nhất trí
thiết lập nên 1 ủy ban Liên hợp quốc (gồm đại biểu chỉ huy của Liên Xô và Mỹ)
để xúc tiến thành lập chính phủ lâm thời ở Triều Tiên. Sau thời gian ủy trị (không
quá 5 năm), quyền độc lập sẽ được trao cho Triều Tiên…
Tuy nhiên, tình hình quốc tế sau Thế chiến hai lại có những biến chuyển
lớn. Sau Chiến tranh thế giới II, ảnh hưởng của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản
ngày càng rộng lớn. Hàng loạt các nước Đông Âu sau khi giành được độc lập đã
tiến hành những cải cách dân chủ và định hướng đi lên CNXH. Phong trào đấu
tranh do Đảng cộng sản lãnh đạo cũng dâng lên mạnh mẽ ở các nước châu Âu. Ở
các nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh
mẽ, nhất là ở các nước như Trung Quốc, Việt Nam do Đảng cộng sản lãnh đạo…

Tình hình này đã không khỏi làm Mỹ và các nước Tây Âu phải lo ngại. Bối cảnh
này đã thôi thúc Mỹ và các đồng minh phương Tây phải có những biện pháp để
“ngăn chặn”. Và trên thực tế ta thấy, từ những năm 1947-1949, Mỹ đã thực thi
“Chính sách ngăn chặn”, nhằm “ngăn chặn” sự bành trướng của chủ nghĩa cộng
sản, sự mở rộng ảnh hưởng ngày càng lớn của Liên Xô, rồi tiến tới tiêu diệt nó.
Theo đó, bên cạnh việc tiến hành các biện pháp để chia cắt nước Đức, Mỹ và các
đồng minh phương Tây cũng gấp rút thực hiện việc chia cắt Triều Tiên, coi đó là
một bộ phận quan trọng trong “chính sách ngăn chặn” của mình.
Theo tinh thần đã thỏa thuận, Liên Xô đã tiến hành những cải cách dân chủ
ở phần lãnh thổ phía Bắc Triều Tiên do mình kiểm soát, thường xuyên thúc giục
Mỹ thực hiện những điều khoản đã cam kết về vấn đề Triều Tiên. Tuy nhiên, Mỹ
đã phớt lờ và cố tình đưa con đường thống nhất bán đảo Triều Tiên rẽ sang một
hướng khác. Tháng 3- 1947, Mỹ đã tổ chức ra một “Nghị viện lập pháp lâm thời”
với đa số là những nghị viên thân Mỹ. Ngày 10-5-1948, Mỹ và đồng minh
phương Tây đã đơn phương tổ chức tuyển cử riêng rẽ để bầu “các đại biểu Quốc
hội Nam Triều Tiên ”. Ngày 30-5-1948, Quốc hội này đã họp ở Seoul và bầu Lý
Thừa Vãn làm Chủ tịch. Đến ngày 12-7-1948, Quốc hội Nam Triều Tiên thông
6
qua Hiến pháp đưa Lý Thừa Vãn lên làm tổng thống, và đến ngày 15-8-1948 thì
tuyên bố thành lập nước Đại Hàn Dân quốc (Hàn Quốc). Ngay sau đó, Mỹ và
nước đồng minh phương Tây đã công nhận chính phủ của Lý Thừa Vãn.
Trước tình hình trên, vào tháng 2-1947, Liên Xô đã thành lập ra “Hội nghị
nhân dân tối cao” và “Ủy ban nhân dân trung ương”. Đến tháng 2-1948, quân đội
nhân dân Triều Tiên ra đời. Và đến tháng 9-1948 nhà nước CHDCND Triều Tiên
chính thức được thành lập, do Kim Nhật Thành đứng đầu.
Từ cuối năm 1948 đến giữa năm 1949, quân đội của Liên Xô và của Mỹ
lần lượt rút khỏi Triều Tiên. Kể từ đây, việc thống nhất bán đảo Triều Tiên về
hình thức chỉ còn là công việc nội bộ của người dân Triều Tiên. Tuy nhiên trên
thực tế, di sản mà Mỹ và Liên Xô đã kiến tạo ở mỗi vùng quân quản, thực chất đã
biến Triều Tiên bị phân thành hai nửa ngay từ bên trong. Lúc này, mỗi miền

Triều Tiên đã định hình rõ con đường phát triển, chế độ chính trị riêng, và chính
quyền ở cả Bắc lẫn Nam Triều Tiên đều muốn thống nhất bán đảo dưới hệ thống
chính trị của mình. Đã có những nỗ lực nhất định nhằm thống nhất hai miền
Triều Tiên bằng con đường hòa bình, nhưng đều không đem lại kết quả gì. Và
trên thực tế, kể từ khi quân đội Mỹ và Liên Xô rút khỏi bán đảo Triều Tiên, thì ở
cả hai miền đều diễn ra quá trình “vũ trang hóa” một cách khẩn trương. Trong
năm 1949 và đầu năm 1950, đã bắt đầu có những cuộc va chạm quân sự nhỏ. Cả
bán đảo Triều Tiên trở nên căng thẳng và tiến sát đến miệng hố chiến tranh. Lúc
này, chiến tranh nổ ra chỉ là vấn đề bên nào khơi mào trước mà thôi.
Như vậy có thể thấy, nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến tranh Triều Tiên
chính là từ sự phân chia vùng ảnh hưởng của các cường quốc lớn trong và sau
Thế chiến II. Sự phân chia này đã dẫn tới những khác biệt ngày càng sâu sắc, dần
hình thành nên những lực lượng đối địch nhau đến mức không thể điều hòa được.
Và chiến tranh chính là con đường tất yếu để giải quyết cuộc xung đột ở Triều
Tiên hồi đầu những năm 50 của thế kỷ XX.
7
2. Sơ lược diễn biến cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953).
Sau một thời gian chuẩn bị gấp rút, sáng sớm ngày 25 tháng 6 năm 1950,
quân Bắc Triều Tiên đã vượt vĩ tuyến 38
0
tấn công sang phía Nam Triều Tiên,
cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Nhờ có phương tiện, vũ khí mạnh hơn, nên
chỉ sau 24 giờ, chiến xa của Bắc Triều Tiên đã tiến đến thủ đô Seoul của Nam
Triều Tiên. Đến giữa tháng 9- 1950, “quân đội Bắc Triều Tiên đã giải phóng
được tới 95% đất đai và 97% dân số”
1
.
Trong khi đó, chỉ vài giờ sau khi chiến tranh nổ ra, Mỹ đã đưa vấn đề chiến
tranh Triều Tiên ra bàn hội nghị của Liên hợp quốc. Lợi dụng sự vắng mặt của
Liên Xô, Mỹ và các nước trong Hội đồng Bảo an đã thông qua nghị quyết đưa

quân đội của Liên hợp quốc can thiệp vào cuộc chiến tranh Triều Tiên. Với danh
nghĩa “quân đội Liên hợp quốc”, một liên quân đứng đầu là Mỹ và nước đồng
minh (Canada, Úc, New Zealand, Anh, Pháp, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan,
Hy Lạp, Hà Lan, Ethiopia, Colombia, Philippines, Bỉ, Luxembourg) đã ngay lập
tức có mặt. Ngày 15-9-1950, Tư lệnh quân đội Mỹ ở Nhật và Thái Bình Dương,
đồng thời là Tư lệnh quân Liên hợp quốc- tướng Douglas MacArthur đưa quân
đổ bộ lên bán đảo Triều Tiên. Sự tham chiến của Mỹ và các nước đồng minh đã
làm cho cục diện và tính chất của cuộc chiến tranh thay đổi. Lúc này, cuộc chiến
tranh Triều Tiên không còn đơn thuần là một cuộc nội chiến, nó đã phát triển lên
thành một cuộc chiến tranh cục bộ, có sự can thiệp của bên ngoài. Với sức mạnh
vượt trội, liên quân Mỹ- phương Tây- Nam Triều Tiên đã nhanh chóng lật lại thế
trận, đánh quân Nam Triều Tiên bật ngược trở lại. Đầu tháng 10-1950, liên quân
do Mỹ cầm đầu đã tiến đến khu vực vĩ tuyến 38
0
. Lúc này, Mỹ lại đạo diễn cho
Liên hợp quốc “bật đèn xanh” cho mình được danh chính ngôn thuận vượt qua vĩ
tuyến 38
0
. Quân đội Mỹ đã nhanh chóng vượt qua vĩ tuyến 38
0
tiến vào Bắc
Triều Tiên, và đến khoảng cuối tháng 10-1950 thì tiến đến tận sông Áp Lục- giáp
ranh với biên giới Trung Quốc. Tướng MacArthur còn cho oanh tạc vùng biên


1
Vũ Dương Ninh (Chủ biên): Một số chuyên đề lịch sử thế giới. Nxb ĐHQG Hà Nội, 2002, tr 25.
8
giới Trung Quốc- Triều Tiên, và đã không ít lần vi phạm không phận và ném
bom xuống các vùng đất thuộc Đông Bắc Trung Quốc.

Sự lấn bước trên của Mỹ đã đe dọa nền an ninh của Trung Quốc. Sau nhiều
lần cảnh báo những hành động của phe Mỹ, ngày 16-10-1950, quân đội Trung
Quốc- được gọi là “chí nguyện quân” bắt đầu vượt sông Áp Lục sang chi viện
cho quân đội Bắc Triều Tiên đang ngày càng bị sa vào bước đường cùng. Ngày
25-10, quân đội Trung Quốc trực tiếp tham chiến và liên quân Triều- Trung đã
chặn được bước tiến của quân Mỹ. Đến đầu năm 1951, liên quân Triều- Trung đã
vượt qua vĩ tuyến 38
0
, bao vây các thành phố ở Nam Triều Tiên. Trước tình hình
đó, Mỹ đã tăng viện cho chiến trường Triều Tiên và đã đẩy lùi quân Trung Quốc-
Bắc Triều Tiên đến vĩ tuyến 38
0
thì dừng lại.
Trong suốt hơn 2 năm sau đó, cả hai bên liên tục giằng co nhau ở khu vực
quanh vĩ tuyến 38
0
, song không bên nào giành được ưu thế đối với bên còn lại và
đều chịu những tổn thất nặng nề. Lúc này, người ta đã nghĩ đến giải pháp đàm
phán, và vĩ tuyến 38
0
lại tiếp tục trở thành một đối tượng để hai bên giằng co
nhau trên bàn thương thuyết. Cuối cùng, vào ngày 27-7-1953, tại Hội nghị quân
sự Bàn Môn Điếm (gần vĩ tuyến 38
0
), một Hiệp định đình chiến trên bán đảo
Triều Tiên đã được ký kết giữa đại diện Bắc Triều Tiên, Trung Quốc và đại diện
Liên hợp quốc (tướng Mỹ W. Clack). Trong đó, hai bên nhất trí lấy giới tuyến và
khu phi quân sự chạy theo trận tuyến đóng quân thực tế của mỗi bên, ngăn cách
quân đội của mỗi bên khoảng 4 km (tức vĩ tuyến 38
0

). Sau đó, ngày 26-4-1954,
một Hội nghị quốc tế bàn về vấn đề Triều Tiên đã diễn ra tại Giơnevơ. Các bên
liên quan đã không tìm ra được một giải pháp thích hợp nào. Chính vì vậy, đến
ngày 15-6-1954, Hội nghị Giơnevơ kết thúc mà không đạt được kết quả cụ thể
nào. Hiệp định ký tại Bàn Môn Điếm ngày 27-7-1953 theo đó vẫn là sự thỏa
thuận có hiệu lực cao nhất của cả hai bên. Chiến tranh Triều Tiên kết thúc trong
sự giải quyết nửa vời của các nước lớn, vấn đề thống nhất Triều Tiên bị bỏ ngỏ
không có lời giải đáp.
9
3. Vai trò của Mỹ và Liên Xô trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)
Như chúng ta biết, bán đảo Triều Tiên nằm ở một vị trí chiến lược về nhiều
mặt, nhất là từ sau Chiến tranh thế giới II, nó đã trở thành một trong những nơi
giao thoa quan trọng của hai hệ thống thế giới, đứng đầu là Mỹ và Liên Xô.
Chính vì vậy, dù muốn hay không thì các cường quốc hàng đầu của thế giới sau
Thế chiến II đều phải đặt cho được ảnh hưởng của mình ở bán đảo nhỏ bé này.
Cả Mỹ và Liên Xô đều không muốn để đối thủ của mình nắm trọn vẹn bán đảo
này. Chính vì thế, ngay từ khi Chiến tranh thế giới II chưa kết thúc thì Triều Tiên
đã được các nước lớn đưa lên bàn cân. Bằng chứng là việc giải phóng Triều Tiên
khỏi phát xít Nhật do cả Mỹ và Liên Xô tiến hành, mỗi cường quốc giải quyết
một nửa, lấy vĩ tuyến 38
0
làm ranh giới phân chia.
Sau khi Chiến tranh thế giới II kết thúc, cả Mỹ và Liên Xô đều có những
hoạt động để biến bán đảo Triều Tiên đi theo một quỹ đạo do mình đạo diễn; nếu
không được, thì ít nhất cũng phải biến vùng lãnh thổ do mình kiểm soát không
thể phát triển theo chiều hướng ngược lại. Và chúng ta thấy, với những hoạt động
của Mỹ và Liên Xô, một chế độ theo định hướng TBCN đã dần được xác lập ở
phần Nam Triều Tiên và một chế độ theo định hướng XHCN đã dần được xác lập
ở phần Bắc Triều Tiên. Theo đó, từ một nước Triều Tiên thống nhất, dưới bàn tay
kiến tạo của Mỹ và Liên Xô, đã hình thành nên ở đây hai chế độ chính trị đối lập

nhau đến mức không thể dung hòa được. Triều Tiên đã trở thành một chủ thể
hàm chứa khối mâu thuẫn lớn của thời đại (mâu thuẫn giữa hai cực Xô- Mỹ).
Chính vì vậy, việc nổ ra cuộc chiến ở đây là điều người ta hoàn toàn có thể dự
liệu được.
Mỹ không muốn có một Triều Tiên thống nhất, bởi nếu Triều Tiên thống
nhất thì ở bên cạnh hai “gã khổng lồ” của hệ thống XHCN là Liên Xô và Trung
Quốc thì sớm muộn cả bán đảo Triều Tiên cũng sẽ bị cuốn vào quỹ đạo của chủ
nghĩa cộng sản. Mỹ cũng xác định rằng Đông Bắc Á có nhiều lợi ích trong chiến
lược toàn cầu của mình, mà điểm then chốt là Nam Triều Tiên. Mỹ coi Nam
10
Triều Tiên như là chiếc neo chiến lược đối với sự có mặt của mình trên lục địa
châu Á nói chung và khu vực Đông Á nói riêng. Bởi ngoài sự đề phòng Liên Xô,
Mỹ còn sợ nếu mất Nam Triều Tiên, thì không chỉ Liên Xô và Trung Quốc , Nhật
Bản cũng sẽ là một đối trọng với Mỹ. Nam Triều Tiên sẽ là một điểm dừng chân
của Mỹ ở Đông Á, giúp Mỹ khống chế Liên Xô, Trung Quốc và Nhật Bản. Còn
về phía Liên Xô, cũng coi bán đảo Triều Tiên có tầm chiến lược quan trọng. Nếu
Nam Triều Tiên được giải phóng thì phạm vi thế lực của Liên Xô sẽ được mở
rộng tới sát Nhật Bản, đối thủ kỳ cựu đáng gờm nhất của nước Nga từ cuối thế kỷ
XIX. Hơn nữa cường quốc này cũng không muốn có một “biên giới mềm” của
Mỹ ở ngay sát cạnh mình và khống chế cả khu vực vốn nằm trong vùng ảnh
hưởng truyền thống của mình. Chính vì thế, Liên Xô xem Nam Triều Tiên thân
Mỹ là một cái gai trong mắt và luôn muốn nhổ bỏ nó đi. Và như vậy, việc chiến
tranh nổ ra trên địa bàn chiến lực Triều Tiên không phải là toan tính của riêng
phía Liên Xô hay phía Mỹ, mà nó xuất phát từ động cơ chính trị, kinh tế của cả
hai bên, nằm trong một không gian chung- đó là cuộc Chiến tranh lạnh.
Bên cạnh đó chúng ta thấy, tại điểm nóng Triều Tiên cũng như tại các điểm
xung đột khác trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, cả Mỹ và Liên Xô đều ý thức được
rằng: việc đụng đầu nhau trực tiếp là một điều tối kỵ phải hết sức tránh. Chính vì
thế, những hành động của mỗi phía ở cuộc chiến tranh này đều có sự dò xét, thận
trọng, với phương châm làm sao tránh đẩy cuộc chiến tranh tiến triển đến mức có

thể cuốn cả Liên Xô và Mỹ vào vòng chiến. Và ta thấy, Mỹ muốn đưa quân tham
chiến ở Triều Tiên cũng không phải bằng con đường thông thường. Bằng chứng
là Truman đã không hề thông qua Quốc hội để được đưa quân vào Triều Tiên, mà
lại đưa thẳng vấn đề này ra Liên hợp quốc. Ý đồ của chính quyền Truman là
muốn mượn “tấm áo” Liên hợp quốc để hợp thức hóa việc mình đưa quân vào
Triều Tiên, khiến cho Liên Xô không thể có những hành động đáp trả trực tiếp
(bởi nếu vậy thì đồng nghĩa với việc Liên Xô đang chống lại Liên hợp quốc). Rồi
như khi lực lượng quân đội “Liên hợp quốc” do Mỹ cầm đầu đã đánh bại quân
11
Bắc Triều Tiên, chiếm lại được toàn bộ lãnh thổ Nam Triều Tiên và tiến sát đến
vĩ tuyến 38
0
hồi đầu tháng 10 năm 1950 thì Mỹ lại một lần nữa thể hiện sự dè
chừng của mình. Vấn đề lúc này là có nên vượt qua vĩ tuyến 38
0
không? Bởi vượt
qua giới tuyến đã được xác lập từ Hội nghị Ianta này, sẽ tạo cớ cho Trung Quốc
và rất có thể là cả Liên Xô sẽ tham chiến. Và trên thực tế, Mỹ lại một lần nữa
phải lợi dụng con bài Đại hội đồng của Liên hợp quốc – mà theo quy định của
Hiến chương thì không có quyền hạn gì trong vấn đề này, để loại bỏ Liên Xô,
biểu quyết thông qua Quyết nghị cho phép liên quân của “Liên hợp quốc” có thể
vượt qua vĩ tuyến 38
0
để tấn công Bắc Triều Tiên. Nhận được sự ủng hộ của các
đồng minh phương Tây và các quốc gia Nam Mỹ, quyết nghị trên đã được thông
qua. Hay từ giữa năm 1951, khi đã phản kích lực lượng liên quân Triều – Trung,
chiếm lại được phần lãnh thổ Nam Triều Tiên, tiến sát đến vĩ tuyến 38
0
, thì Mỹ
đã có những hành động dùng dằng, không muốn tiến thêm nữa…

Về phần mình, Liên Xô bề ngoài tỏ ra không đếm xỉa gì đến vấn đề Triều
Tiên, coi đó là công việc nội bộ của Triều Tiên. Song trên thực tế Liên Xô luôn
tìm mọi cách để xác lập vị thế của mình trên bán đảo Triều Tiên. Biểu hiện trước
hết là, cuối năm 1948, khi cho rút hết quân đội của mình về nước, thì Liên Xô
vẫn để lại rất nhiều xe tăng và vũ khí đạn dược cho quân đội Bắc Triều Tiên.
Đồng thời Liên Xô tích cực xây dựng một lực lượng quân đội mạnh cho Bắc
Triều Tiên để đề phòng nguy có tấn công từ phía Nam Triều Tiên. Tới tháng
9.1949, quân đội Bắc Triều Tiên đã có khoảng 90.000 người, trang bị đầy đủ các
loại vũ khí nặng nhẹ. Liên Xô cũng không ngừng “bật đèn xanh” cho Kim Nhật
Thành tấn công Nam Triều Tiên khi thời cơ thuận lợi. Và, ngày 5 và 12 tháng
1.1950, Tổng thống Mỹ Truman tuyên bố vành đai an toàn của Mỹ không bao
gồm Nam Triều Tiên và Đài Loan, Mỹ sẽ không dùng hành động quân sự trực
tiếp bảo vệ khu vực này, thì Liên Xô đã coi đây là điều kiện thuận lợi để thống
nhất Triều Tiên. Liên Xô đã tăng nguồn viện trợ quân sự cho Triều Tiên lên tới
300 triệu rúp và đánh động Bắc Triều Tiên chuẩn bị tiến hành thống nhất lãnh thổ.
12
Tuy thế, Xtalin vẫn thận trọng nhắc Kim Nhật Thành chỉ được dùng hình thức
phản công khi Nam Triều Tiên tấn công trước. Đến đầu năm 1950, trước khi
chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Liên Xô đã viện trợ thêm vũ khí và cử hơn 3000 cố
vấn quân sự sang giúp Bắc Triều Tiên ( tính ra trung bình cứ 45 lính Bắc Triều
Tiên có 1 cố vấn quân sự Liên Xô). Trung tướng Vaxilev dẫn đầu đoàn cố vấn
quân sự Liên Xô đã lập kế hoạch tác chiến, trong đó dự định trong vòng từ 22-
27/6/1950 sẽ chiếm xong Nam Triều Tiên. Trong các bức điện ngày 1 và 6 tháng
7, Xtalin viết: Liên Xô sẽ “hoàn toàn thoả mãn yêu cầu của Bắc Triều Tiên về
vận chuyển vũ khí và các trang bị quân sự khác”, “sẽ cung cấp toàn diện các
loại vũ khí, xe tăng v.v…”. Viện trợ quân sự của Liên Xô trong năm 1950 lên tới
kỷ lục 870 triệu rúp. Nhờ vậy quân đội Bắc Triều Tiên nhanh chóng chiếm gần
hết Nam Triều Tiên, trừ khi tới mỏm Pusan tận cùng phía Nam mới gặp chống cự
đáng kể
2

. Tuy vậy, Xtalin không muốn công khai việc Liên Xô giúp Bắc Triều
Tiên về quân sự. Ông cấm các cố vấn quân sự Liên Xô vượt vĩ tuyến 38 với lý do
“không muốn để lại chứng cớ để người ta tố cáo Liên Xô tham dự cuộc chiến
tranh này, đây là việc của Kim Nhật Thành”
3
. Vì vậy, khi quân Bắc Triều Tiên bị
sa lầy ở Nam Triều Tiên (tháng 7-1950) cần sự cố vấn của chuyên gia quân sự
Liên Xô, thì một số cố vấn Liên Xô đã phải cải trang thành các phóng viên để
vượt vĩ tuyến 38
0
xuống giúp Bộ tham mưu mặt trận quân Bắc Triều Tiên. Sang
năm 1951, trước việc quân đội Triều- Trung gặp khó khăn khi phải chống đỡ với
không quân Mỹ, Liên Xô đã tiến thêm một bước bằng việc chi viện không quân
cho Bắc Triều Tiên. Tuy vậy, Matxcơva vẫn tìm mọi cách tránh nảy sinh xung
đột công khai với Oasinhtơn. Liên Xô đã cử những phi công ưu tú giả làm khách
du lịch và đi tàu sang Trung Quốc. Các phi công Liên Xô được chọn đều mang
một tấm thẻ, bên trên in tên Trung Quốc của mình cũng như những từ ngữ


2
Nguyên Hải (tổng hợp theo tài liệu TQ): Vai trò của Liên Xô và Xtalin trong chiến tranh Triều Tiên- Nguồn:

3
Sdd: như 1
13
chuyên dùng khi bay bằng tiếng Hán và tiếng Triều Tiên. Ngoài ra, nhằm tránh bị
lộ chân tướng, trong quá trình tác chiến, khi liên lạc qua vô tuyến điện, các phi
công Liên Xô phải dùng bằng tiếng Hán hoặc tiếng Triều Tiên. Không quân Liên
Xô dưới vỏ bọc không quân Trung Quốc đã gây nhiều tổn thất cho không quân
Mỹ ở Triều Tiên. Đặc biệt là trận giao chiến ngày 12/4/1951 đã trở thành ngày

“Thứ 5 đen tối” trong lịch sử không quân Mỹ. Một vấn đề đặt ra là người Mỹ có
biết quân đội Liên Xô đã tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên? Câu trả lời là có.
Ngay từ cuối năm 1950, qua các nguồn tin tình báo, Lầu Năm Góc đã kết luận
quân Liên Xô đã tham chiến. Các đài chặn thu sóng vô tuyến điện của Mỹ đã ghi
lại được nhiều đoạn đối thoại bằng tiếng Nga của các phi công Liên Xô khi tác
chiến trên chiến trường Triều Tiên. Phi công Mỹ cũng nhiều lần nhìn thấy những
khuôn mặt da trắng trong buồng lái của máy bay quân chí nguyện. Tuy nhiên,
Oashinhtơn không một lần đề cập tới việc tham chiến của Liên Xô. Bởi Nhà
Trắng biết rằng nếu công bố, nhân dân Mỹ sẽ yêu cầu họ phải có hành động trong
khi họ không muốn đẩy những cuộc đụng độ với Kremlin tới bờ vực nguy hiểm
của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 3.
Như vậy, cuộc chiến tranh Triều Tiên từ khởi điểm ban đầu là cuộc chiến
tranh giữa hai lực lượng trong nội bộ đất nước Triều Tiên, đã phát triển thành
cuộc chiến tranh cục bộ, với sự tham chiến giữa một bên là quân đội Nam Triều
Tiên cùng quân đội Mỹ và các nước đồng minh, với một bên là quân đội Bắc
Triều Tiên, quân chí nguyện Trung Quốc cùng sự hậu thuẫn của Liên Xô. Cuộc
chiến này thể hiện một cách rõ nét sự can thiệp của các cường quốc lớn bấy giờ là
Mỹ và Liên Xô. Sự can thiệp này diễn ra cả trước và trong chiến tranh. Tuy vậy,
nằm trong bối cảnh chung của quan hệ quốc tế lúc bấy giờ là thời kỳ của Chiến
tranh lạnh, nên sự đụng đầu giữa các cường quốc là không trực diện. Vì thế, có
thể khẳng định cuộc chiến tranh Triều Tiên chính là một mảng quan trọng của
Chiến tranh lạnh- nơi mà cả phe Mỹ và phe Liên Xô đã đụng đầu nhau, nhưng về
hình thức thì dường như không.
14
KẾT LUẬN
Bán đảo Triều Tiên là nơi có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Chính vì
thế, từ sau Chiến tranh thế giới II, nơi đây đã trở thành một trong những địa bàn
tranh chấp chủ yếu giữa cực Mỹ và cực Liên Xô. Vĩ tuyến 38
0
đã trở thành bức

tường giới tuyến vô hình ngăn cách hai lực lượng, hai hệ thống đối địch nhau, và
là một biểu hiện sinh động của sự đối đầu giữa hai cực Xô – Mỹ trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh. Ở mỗi bên vĩ tuyến là sự tập trung lực lượng vật chất và tinh
thần của không chỉ nội bộ người Triều Tiên, mà còn là của cả một hệ thống, một
cực quan hệ. Bên nào dám vượt quá giới tuyến đó đều bị coi là sự xâm phạm tới
bên còn lại, và cũng đồng nghĩa với việc đánh động đến cả một hệ thống còn lại.
Chiến tranh Triều Tiên nổ ra không đơn giản là quá trình thống nhất đất
nước của các lực lượng trong đất nước Triều Tiên. Cuộc chiến này là một biểu
hiện sinh động của sự tranh chấp quốc tế, đứng đầu là Mỹ và Liên Xô. Theo đó,
cuộc chiến này có nguồn gốc sâu xa chính từ sự phân chia lợi ích của các cường
quốc thắng trận. Các nước lớn vì lợi ích dân tộc của mình, đã đem Triều Tiên lên
bàn cân để phân chia, khiến Triều Tiên bị tách thành hai nửa, xung đột nhau về
chế độ chính trị và cuối cùng đã dẫn tới chiến tranh.
Cuộc chiến tranh Triều Tiên có quan hệ mật thiết với quan hệ quốc tế,
phản ánh quan hệ lợi ích của các nước lớn. Tuy nhiên, do đặt trong hoàn cảnh
lịch sử đặc thù, nên các cường quốc đứng đầu là Mỹ và Liên Xô đều không muốn
đối đầu nhau một cách trực diện. Cả hai bên đều sử dựng những biện pháp nhất
định và tham gia ở mức độ thích hợp để nhằm đạt được mục đích của mình, đồng
thời không đẩy nó trở nên quá căng thẳng vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Vì thế
chiến tranh này còn biểu hiện cho “nghệ thuật Chiến tranh lạnh” của Mỹ và Liên
Xô. Nó còn là sản phẩm của trật tự thế giới Hai cực sau Chiến tranh thế giới II ,
và cũng đồng thời là hậu quả của trật tự này. Cuộc chiến tranh này đã không
được giải quyết một cách thấu đáo- mà nguyên nhân vẫn xuất phát từ bất đồng về
lợi ích giữa các bên liên quan. Kết quả là, sau khi chiến tranh kết thúc, hai miền
Triều Tiên vẫn bị phân tách và trở thành hai quốc gia riêng biệt tồn tại đến tận
ngày nay.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adré Fontaine: Lịch sử chiến tranh lạnh. Nxb Trẻ, 1972.
2. Phạm Giảng. Lịch sử quan hệ quốc tế (Từ sau Chiến tranh thế giới II đến

1954). Nxb Sử học, 1962.
3. Nguyên Hải (tổng hợp theo tài liệu TQ): Vai trò của Liên Xô và Xtalin
trong chiến tranh Triều Tiên, nguồn:
4. Lê Đình Năm: Vấn đề triều tiên trong quan hệ quốc tế từ 1945 đến nay
(Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử). Trường ĐHSP Hà Nội, 2004Ngày thứ
5 đen tối của không quân Mỹ

5. Vũ Dương Ninh (Chủ biên): Một số chuyên đề lịch sử thế giới. Nxb
ĐHQG Hà Nội, 2002.
6. Nguyễn Mạnh Quang. Đệ Nhị thế chiến và Chiến tranh lạnh. Nxb Sáng tạo,
1972.
7. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên): Lịch sử thế giới hiện đại. Nxb Giáo dục,
2001.
8.

×