Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

So sánh ảnh hưởng của bột lá sắn và bột lá keo giậu trong khẩu phần đến năng suất và chất lượng trứng của gà đẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 113 trang )

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





NGUYỄN VĂN ĐỨC





“SO SÁNH ẢNH HƢỞNG CỦA BỘT LÁ SẮN VÀ BỘT LÁ KEO GIẬU
TRONG KHẨU PHẦN ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ
CHẤT LƢỢNG TRỨNG CỦA GÀ ĐẺ”





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP



















Thái Nguyên - Năm 2013
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





NGUYỄN VĂN ĐỨC





“SO SÁNH ẢNH HƢỞNG CỦA BỘT LÁ SẮN VÀ BỘT LÁ KEO
GIẬU TRONG KHẨU PHẦN ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ
CHẤT LƢỢNG TRỨNG CỦA GÀ ĐẺ”


Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.40



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP







Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Từ Quang Hiển








Thái Nguyên - Năm 2013
S

ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận
văn này là từ đề tài do bản thân tôi thực hiện, chưa từng được ai công bố dưới
bất kỳ hình thức nào ở trong và ngoài nước. Các thông tin, tài liệu trích dẫn
trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả


Nguyễn Văn Đức



















S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, cùng với sự cố gắng của bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, các cơ quan, các cấp lãnh
đạo trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo hướng
dẫn GS.TS Từ Quang Hiển người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn: các thầy cô giáo phòng sau đại học, khoa
chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Viện Khoa học
sự sống, ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên Trung tâm Nghiên cứu và phát
triển Chăn nuôi miền núi, thuộc Viện Chăn nuôi (đóng tại Thái Nguyên) cùng
gia đình bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình
hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Tác giả


Nguyễn Văn Đức
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1

2. Mục đích của đề tài 2
3. Ý nghĩa của đề tài 2
3.1. Ý nghĩa khoa học 2
3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Giới thiệu về cây sắn và cây keo giậu 3
1.1.1. Giới thiệu về cây sắn 3
1.1.1.1. Tên khoa học 3
1.1.1.2. Nguồn gốc, phân bố 3
1.1.1.3. Năng suất chất xanh 3
1.1.1.4. Thành phần hóa học của lá sắn 5
1.1.1.5. Độc tố HCN trong sắn và phương pháp khử độc tố HCN 7
1.1.1.6. Phương pháp chế biến bột lá sắn
11
1.1.2. Giới thiệu về cây keo giậu 12
1.1.2.1. Tên gọi 12
1.1.2.2. Nguồn gốc phân bố 12
1.1.2.3. Năng suất chất xanh 13
1.1.2.4. Thành phần hóa học của bột lá keo giậu 15
1.1.2.5. Độc tố của keo giậu và phương pháp loại bỏ, hạn chế độc tính của
độc tố 18
1.1.2.6. Phương pháp chế biến bột lá keo giậu 21
1.2. Sắc tố trong thức ăn chăn nuôi 22
1.2.1. Giới thiệu chung về sắc tố 22
1.2.1.1. Nguồn gốc của sắc tố 22
1.2.1.2. Sắc tố trong thực vật 23
1.2.1.3. Sắc tố trong thức ăn chăn nuôi 25
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu


1.2.2. Vai trò của sắc tố đối với vật nuôi 26
1.3. Kết quả nghiên cứu sử dụng bột lá sắn và bột lá keo giậu trong chăn nuôi
gà sinh sản 30
1.3.1. Kết quả nghiên cứa sử dụng bột lá sắn trong chăn nuôi gà sinh sản 30
1.3.2. Kết quả nghiên cứu sử dụng bột lá keo giậu nuôi gà sinh sản 32
Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu 36
2.1.1. Đối tượng: 36
2.1.2. Địa điểm: 36
2.1.3. Thời gian: 36
2.2. Nội dung nghiên cứu 36
2.3. Phương pháp nghiên cứu 36
2.3.1. Nội dung 1: Xác định ảnh hưởng của BLS và BLKG đến năng suất
trứng 36
2.3.2. Nội dung 2: Xác định ảnh hưởng của BLS và BLKG đến một số chỉ
tiêu lý học và hóa học của trứng 39
2.3.3. Nội dung 3: Xác định ảnh hưởng của BLS và BLKG đến chất lượng
trứng giống 40
2.3.4. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu 40
2.3.5. Phương pháp xử lý các số liệu 44
Chƣơng 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 45
3.1. Tỷ lệ nuôi sống và khả năng sản xuất trứng của gà thí nghiệm 45
3.2. Kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu lý hóa học của trứng 51
3.4. Tiêu tốn thức ăn và chi phí thức ăn cho sản xuất trứng và gà con loại I 66
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 70
1. Kết luận 70
2. Đề nghị 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
I. Tài liệu tiếng Việt 72
II. Tài liệu tham khảo tiếng nước ngoài 76

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

CÁC TỪ VIẾT TẮT

BL : Bột lá
BLKG : Bột lá keo giậu
BLS : Bột lá sắn
BCSL : Bột cỏ stylo
CPTĂ : Chi phí thức ăn
Cs : Cộng sự
DXKN : Dẫn xuất không chứa nito
ĐC : Đối chứng
FAO : Tổ chức Nông Lương thế giới
G : gam
IFPRI : Viện Nghiên cứu Chính sách lương thực thế giới
Kg : kilogam
KPCS : Khẩu phần cơ sở
ME : Năng lượng trao đổi
TB : Trung bình
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
TN1 : Thí nghiệm 1
TN2 : Thí nghiệm 2
TTTĂ : Tiêu tốn thức ăn
VCK : Vật chất khô

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 2.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm 37
Bảng 2.2: Công thức và giá trị dinh dưỡng của thức ăn thí nghiệm 38
Bảng 3.1: Tỷ lệ nuôi sống của gà qua 10 tuần thí nghiệm 45
Bảng 3.2: Tỷ lệ đẻ của gà ở các tuần thí nghiệm 47
Bảng 3.3: Năng suất và sản lượng trứng của gà thí nghiệm 49
Bảng 3.4: Một số chỉ tiêu lý học của trứng 52
Bảng 3.5: Thành phần hóa học của lòng đỏ trứng 54
Bảng 3.6: Thành phần hóa học của lòng trắng trứng 56
Bảng 3.7: Hàm lượng carotenoid và điểm số quạt của lòng đỏ trứng 58
Bảng 3.8: Tỷ lệ trứng có phôi ở các giai đoạn thí nghiệm 61
Bảng 3.9: Tỷ lệ trứng nở/trứng có phôi ở các giai đoạn thí nghiệm 63
Bảng 3.10: Tỷ lệ gà con loại 1/số gà con ra nở ở các giai đoạn thí nghiệm 64
Bảng 3.11: Tiêu tốn thức ăn cho 10 trứng và 10 trứng giống 67
Bảng 3.12: Chi phí thức ăn cho 10 trứng, 10 trứng giống và 1 gà con loại I . 68


S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

DANH MỤC CÁC HÌNH

Trang
Hình 1.1: Sơ đồ carotenoid tổng số trong thức ăn chăn nuôi 26
Hình 3.1: Đồ thị tỷ lệ đẻ của gà ở các tuần thí nghiệm 49
Hình 3.2: Biểu đồ sản lượng trứng và trứng giống của các lô thí nghiệm 51
Hình 3.3: Đồ thị carotenoid trong lòng đỏ trứng theo thời gian thí nghiệm 60
Hình 3.4: Biểu đồ tỷ lệ gà con loại I/trứng ấp của các lô thí nghiệm 66
1


S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Bên cạnh việc chọn lọc và cải tạo giống, thức ăn và nuôi dưỡng là yếu tố
tác động lớn trong việc cải thiện năng suất và chất lượng vật nuôi. Bột cỏ, bột
lá thực vật là một loại thức ăn đặc biệt, phối hợp chúng vào thức ăn hỗn hợp
của gia súc, gia cầm không những nâng cao khả năng sản xuất của vật nuôi, mà
còn hạ giá thành sản phẩm. Hơn thế nữa, nhiều nhà khoa học đã chứng minh
rằng khi cho vật nuôi ăn thức ăn có chứa bột lá thực vật thì khả năng sản xuất
và mức độ an toàn thực phẩm cao hơn so với sử dụng sắc tố tổng hợp.
Một số loại bột lá như bột lá sắn (BLS), bột lá keo giậu (BLKG), bột cỏ
stylo (BCSL) rất giàu protein và đặc biệt là giàu sắc tố. Hàm lượng protein
trong bột lá chiếm khoảng 23 - 32 % đối với BLS, 25 - 30 % đối với BLKG
và 15 - 18 % đối với BC stylo. Hàm lượng caroten trong vật chất khô (VCK)
của BLS từ 476 - 625 mg/kg VCK (Trần Thị Hoan, 2012) [12]; của BLKG từ
227 - 248 mg/kg VCK (dẫn theo Từ Quang Hiển và CS, 2008) [11]; còn của
BC stylo từ 228 - 259 mg/kg VCK (Hồ Thị Bích Ngọc, 2012) [25].
Các nghiên cứu khẳng định, sắc tố làm tăng tỷ lệ đậu thai ở gia súc, tỷ
lệ sống sau sinh, tăng sinh trưởng, giảm tiêu tốn thức ăn, làm tăng sản lượng
trứng, tỷ lệ trứng có phôi và ấp nở ở gia cầm. Đặc biệt sắc tố làm tăng độ đậm
màu của lòng đỏ trứng gà và độ vàng của da gà, đáp ứng được thị hiếu của
người tiêu dùng. Đối với cá sắc tố làm tăng sản lượng và chất lượng trứng của
cá (Wantanabe, 2003) [112].
Chính vì những ưu điểm trên mà đã có nhiều nghiên cứu về ảnh
hưởng của bột lá sắn (BLS) và bột lá keo giậu (BLKG) trong khẩu phần đến
năng suất và chất lượng trứng. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào so sánh
ảnh hưởng của chúng trên cùng một giống gà đẻ để biết được loại bột lá nào

tốt hơn, cũng chưa có các nghiên cứu về ảnh hưởng của BLS và BLKG theo
thời gian gà được ăn bột lá đến chất lượng của trứng (tỷ lệ trứng có phôi, ấp
2

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

nở, gà con loại I). Xác định được điều đó rất có ích cho sản xuất, vì ứng
dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất sẽ nâng cao năng suất và chất
lượng sản phẩm chăn nuôi.
Để giải quyết vấn đề nêu trên và nhằm đáp ứng yêu cầu của sản xuất,
chúng tôi thực hiện đề tài “So sánh ảnh hưởng của bột lá sắn và bột lá keo
giậu trong khẩu phần đến năng suất và chất lượng trứng của gà đẻ”.
2. Mục đích của đề tài
Xác định ảnh hưởng của bột lá sắn và bột lá keo giậu đến khả năng sản
xuất trứng và chất lượng trứng của gà đẻ Lương Phượng.
Xác định được bột lá sắn hay bột lá keo giậu trong khẩu phần ăn có ảnh
hưởng tốt hơn đến năng suất và chất lượng trứng. Các kết quả thu được sẽ làm
cơ sở để khuyến cáo việc sử dụng BLS và BLKG trong chăn nuôi gà sinh sản
nói riêng và gia cầm nói chung.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Từ những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp cho ngành khoa
học thức ăn và dinh dưỡng, chế biến thức ăn gia cầm những thông tin cơ bản
về việc sử dụng bột lá sắn và bột lá keo giậu trong chăn nuôi gà đẻ trứng.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
, bột lá keo gi
nâng cao khả năng sản xuất trứng và chất lượng trứng của gà đẻ.
Biết được ảnh hưởng của hai loại bột lá đến khả năng sản xuất trứng và
chất lượng trứng của gà đẻ, trên cơ sở đó người chăn nuôi có thể sản xuất và

sử dụng từng loại bột lá cho phù hợp.


3

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Giới thiệu về cây sắn và cây keo giậu
1.1.1. Giới thiệu về cây sắn
1.1.1.1. Tên khoa học
Cây sắn có tên khoa học là Manihot Esculenta Crantz, thuộc giới
Plantae, bộ malpighiales, họ cây thầu dầu Euphorbiaceae, phân họ
Crtonoideae, chi Malihot, loài M. Esculenta. Ở một số nước, cây sắn còn có
tên gọi khác là Casava, Manioc, Tapioca Plant, Maniva Casava, Manlioke,
Yeueca Brava, Ở Việt Nam cây sắn còn có các tên gọi khác như khoai mì,
cây củ mì, sắn tầu,
1.1.1.2. Nguồn gốc, phân bố
Cây sắn có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới thấp. Theo Jalaludin, 1977 [71]
cây sắn được bắt nguồn từ 4 trung tâm lớn, đó là: (1) Guatemala, (2) Mexico,
(3) Đông Brazil và Bolivia, (4) Tây Bắc Argentina và dọc theo bờ biển vùng
Sarana của miền Tây Bắc thuộc Nam Mỹ. Dựa trên nghiên cứu tài liệu khảo
cổ học của Colombia, Venezuala, người ta chứng minh rằng cây sắn đã được
trồng cách đây khoảng 3000 - 7000 năm (Trần Ngọc Ngoạn, 1990) [23].
Cây sắn được du nhập vào Việt Nam khoảng giữa thế kỷ 18, (Phạm
Văn Biên, Hoàng Kim, 1991) [2]. Hiện chưa có tài liệu chắc chắn về nơi
trồng và năm trồng đầu tiên.

1.1.1.3. Năng suất chất xanh
Ở Việt Nam, sắn là một cây trồng có tiềm năng cho việc sản xuất bột lá
thực vật. Diện tích trồng sắn ở nước ta vào khoảng 600.000 ha, chỉ riêng tận
thu ngọn, lá khi thu củ sắn cũng có thể sản xuất được gần 1 triệu tấn bột lá.
Việc trồng sắn thu lá cũng có nhiều hứa hẹn, có thể thu được 30 tấn lá tươi và
sản xuất được trên dưới 8 tấn bột lá/ha/năm.
4

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

Wanapat (1997) [110] cho biết trồng sắn lấy lá với mật độ dầy và thu
hoạch lần đầu sau khi trồng 3 tháng, còn thu các lần tiếp theo là 2 tháng/lần thì
sản lượng vật chất khô có thể đạt 12,6 tấn/ha/năm.
Wanapat (2002) [111] khi thử nghiệm trồng 16 dòng sắn với mật độ
27.788 cây/ha để thu cắt lấy lá đã thấy: Sản lượng vật chất khô (VCK) qua
3 lứa cắt từ 4,043 đến 7,768 tấn/ha/năm, còn khi trồng 25 dòng sắn khác
với mật độ 111.111 cây/ha thì cho sản lượng VCK dao động từ 2,651 đến
8,239 tấn/ha/năm.
Atchara và cs (2002) [50] tổng hợp các kết quả nghiên cứu về trồng
sắn thu lá từ năm 1977 đến năm 1979 về dòng sắn Rayong 1, tác giả cho biết
người ta có thể trồng sắn với nhiều mật độ khác nhau. Các kết quả nghiên
cứu đều cho thấy sản lượng đạt từ 6,94 đến 8,85 tấn lá tươi/ha/năm và không
có sự sai khác thống kê có ý nghĩa giữa sản lượng lá tươi được trồng với mật
độ khác nhau.
Theo Wargiono (2002) [113] thì năng suất lá phụ thuộc vào số lần thu
hoạch lá. Theo ông trồng sắn với mật độ 8000 cây/ha thu hoạch lá hàng tuần
từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 7 (4 tầng lá/lần thu) sẽ cho năng suất cao nhất.
Li Kaimian và cs (2002) [77] cho biết, sản lượng VCK đạt cao nhất ở
mật độ trồng 15.625 cây/ha là 3,04 tấn/ha.

Theo Cadavid (2002) [54] thì trồng sắn CMC 92 lấy lá tại Colombia
có mật độ từ 20.000 đến 62.000 cây/ha thì sản lượng chất khô thu được
khoảng trên dưới 24 tấn/ha/năm. Cũng theo ông, giống CM 4843 - 1 với mật
độ 11.200 cây/ha ở vùng đất xám pha cát có thể thu 24.45 tấn VCK/ha/năm
(91,4 tấn tươi): giống sắn CM 2758 với mật độ 11.200 cây/ha trong 2 năm
có thể thu 83,01 tấn chất tươi/ha; Giống CM 523 - 7 86,81 tấn chất tươi/ha;
giống Mcol 2737 102,9 tấn/ha, trồng dòng HMC 1 với mật độ 31.250 đến
112.000 cây/ha với khoảng cách cắt là 3 tháng/lần, sản lượng lá thu được
trên dưới 80 tấn/ha. Cần lưu ý là sản lượng chất tươi nói trên bao gồm cả
5

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

thân, cành, lá sắn. Ở các thông báo khác sản lượng lá sắn thấp hơn nhiều so
với thông báo nêu trên là vì sản lượng này chỉ có riêng lá, không bao gồm
thân, cành, ngọn và cuống lá sắn.
Ở Việt Nam, theo dõi năng suất lá sắn trong hai năm (2009 - 2010) ở
những khoảng cách trồng khác nhau; (1,0 m x 0,4 m), (0,8 m x 0,4 m) và
(0,6 m x 0,4 m). Mỗi năm thu hoạch được 3 lứa, năng suất lá sắn tươi đạt
trung bình 41,11 - 52,66 tạ/ha/lứa. Còn theo dõi năng suất lá sắn khi bón
các mức phân đạm khác nhau, mỗi năm thu hoạch 3 lứa, năng suất trung
bình/lứa/2 năm (tính chung cho cả 3 lứa cắt trong 2 năm) đạt từ 34,55 đến
54,95 tạ/ha/lứa (Trần Thị Hoan 2012) [12].
1.1.1.4. Thành phần hóa học của lá sắn
Sắn là loại cây thức ăn gia súc có giá trị; ngoài sản phẩm khai thác
chính là
củ

sắn

thì phụ phẩm ngọn, lá sắn cũng là nguồn thức ăn thô xanh
giàu dinh dưỡng cho gia súc và có sản lượng khá lớn. Thành phần hóa học
của lá sắn tươi giống như một số loại rau xanh giàu dinh dưỡng khác, đặc
biệt là hàm lượng protein và caroten chiếm tỷ lệ khá cao.
Theo Dương Thanh Liêm (1999) [16], Nguyễn Thị Hoa Lý (2008)
[19], hàm lượng protein thô trong VCK của lá sắn tương đối cao, dao động từ
20 - 34,7 %. Theo Alhasan và cs (1982) (trích Nguyễn Nghi và cs, 1984 [26])
thì lá sắn giàu protein hơn củ sắn, hàm lượng protein trong lá sắn từ 23 - 32
% trong VCK. Từ Quang Hiển và Phạm Sỹ Tiệp (1998) [10] cho biết: protein
trong lá của các giống sắn bản địa của Việt Nam dao động từ 24,06 - 29,80 %
trong VCK. Lá của các giống sắn có hàm lượng protein cao trong nước ta là
sắn Xanh Vĩnh Phú, sắn Dù, Sắn Chuối Trắng, KM 60, Chuối đỏ. Liu và
Zhuang (2000) [78] cho biết bột lá sắn có hàm lượng protein là 25,0 %, còn
chế biến sắn cả cuống thì hàm lượng protein giảm xuống còn 20,30 % VCK.
Lá sắn vào thời điểm thu khác nhau thì hàm lượng protein cũng khác nhau.
Tác giả còn cho biết protein trong lá sắn cao hơn các loại cây thức ăn khác
6

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

(protein trong VCK của hòa thảo là 12,60 %: ngô 11,90 %) nhưng thấp hơn
đỗ tương (45,70 %).
Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [32], Chavez và cs (2000) [55] thì hàm
lượng axit amin trong lá sắn cao hơn củ sắn và cân đối so với trứng gà, tuy
nhiên hàm lượng methionin và histidin trong lá sắn thấp, tương ứng là 1,99
và 1,14 %. Hàm lượng lysin trong protein của lá sắn tương đối cao (5,68 %)
đáp ứng đầy đủ nhu cầu lysin của gia súc, gia cầm. Hoài Vũ (1980) [36] nhận
định: về mặt chất lượng, trong protein của lá sắn có đầy đủ các axit amin
thiết yếu, so với các loại rau tươi khác thì chất lượng protein của lá sắn hơn

hẳn. Ví dụ: Hàm lượng lysin, methionin, triptophan của lá sắn tươi là 0,3;
0,4; 0,11 (g/100g). Trong khi đó, rau muống là 0,14; 0,07; 0,04 (g/100g); rau
ngót
là 0,16; 0,13; 0,05 (g/100g); rau cải là 0,07; 0,03; 0,02 (g/100g).
Adrian và cs (1970) (trích theo Nguyễn Nghi, 1984 [26]), Eruvbetine
và cs (2003) [64] cho biết methionin là yếu tố hạn chế của bột lá sắn, trong
khi đó hàm lượng lysin và arginin trong protein của lá sắn lại tương đối cao,
tương ứng 4,45 và 4,35 g/100g, nếu được bổ sung methionin sẽ làm cân đối
hàm lượng axit amin và làm tăng tỷ lệ tiêu hóa của thức ăn.
Thành phần khoáng đa lượng và vi lượng trong bột lá sắn tương đối
cao, đặc biệt hàm lượng Fe và Mn rất cao, tương ứng là 344,0 - 655,2 mg
trong 1kg chất khô (Nguyễn Khắc Khôi, 1982 [14]; Nguyễn Nghi, 1984
[26]; Muchnick, 1984 [82]; Ravindran, 1984 [92]). Theo Phạm Sỹ Tiệp
(1999) [32] thì hàm lượng khoáng tổng số của các loại sắn Xanh Vĩnh Phú,
Dù, Chuối Trắng, KM 60, Chuối đỏ, 205 dao động từ 6,60 - 7,80 %. Còn
các giống H34, 202 hàm lượng khoáng lần lượt là 5,62 % và 5,80 %. Trong
đó
h
à
m
lượ
ng
canxi dao động từ 0,74 - 1,13 %; photpho từ 0,25 - 0,38 %;
kali từ 1,52 - 1,71 %.
Ngoài ra, trong vật chất khô của lá sắn có chứa đường + tinh bột là
24,2 %, chất béo 6 %, xơ 11 %,, xanhthophyll 350 ppm.
7

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu


Hàm lượng vitamin trong lá sắn cũng cao. Theo Hoài Vũ (1980) [36]
thì hàm lượng vitamin B1 là 0,25 mg/100g, B2 là 0,66 mg/100g. Đặc biệt,
vitamin C trong lá sắn có tới 2,95 mg/100g.
Bột lá sắn giàu carotenoid, xanthophyll, là nguồn bổ sung sắc chất cho
gia súc, gia cầm. Theo Từ Quang Hiển (1983) [8], trong bột lá sắn khô có
chứa tới 66,7 mg caroten/100g VCK. Còn theo Hoài Vũ (1980) [36] thì hàm
lượng caroten trong lá sắn nói chung cao hơn so với củ. Dương Thanh Liêm
và cs (1999) [16] cho biết tỷ lệ caroten trong bột lá sắn phụ thuộc vào quá
trình chế biến, sấy ở nhiệt độ 100
0
C giữ được caroten cao nhất là 351 mg/kg.
1.1.1.5. Độc tố HCN trong sắn và phương pháp khử độc tố HCN
* Độc tố HCN
Ngoài các giá trị dinh dưỡng, thì yếu tố hạn chế sử dụng các sản phẩm
từ sắn như củ, lá làm lương thực cho con người và thức ăn cho gia súc là
trong sắn có chứa một lượng độc tố HCN đáng kể.
Giống sắn khác nhau thì lượng độc tố trong nó không giống nhau.
Lượng HCN ở lá non nhiều hơn lá già; phần củ thì cao nhất ở phần vỏ thịt,
sau đó là 2 phần đầu củ và lõi sắn: ở thân thì thân già nhiều hơn thân non. Ở
mỗi phần thân, lá, củ của cây sắn thì hàm lượng HCN có tỷ lệ rất khác nhau,
nhưng HCN tập chung chủ yếu ở phần củ, căn cứ vào đây mà phân chia làm
2 loại sắn: sắn ngọt và sắn đắng. Giống sắn ngọt có từ 30 - 80 ppm HCN
trong chất tươi, giống sắn đắng có từ 80 - 400 ppm HCN trong chất tươi
(Trần Ngọc Ngoạn (2007) [24]. Theo Shinha và Nair (1968) (Trích Silvestre
và Arraudeau, 1990 [27]) thì sắn ngọt là những giống sắn có tỷ lệ HCN nhỏ
hơn 80 ppm trong chất tươi, nhóm sắn đắng là những giống sắn có tỷ lệ
HCN lớn hơn 80 ppm.
Trong cây sắn, lượng độc tố phân bố không đều, chủ yếu tập chung ở
bộ phận dưới mặt đất. Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [32] thì sự phân bố HCN

trong các bộ phận của cây sắn được chia ra như sau: Các bộ phận trên mặt đất
8

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

gồm thân lá có 29,3 %, trong đó độc tố chủ yếu nắm ở thân là 27,2 % còn lại
ở lá chỉ có 2,1 %. Lượng HCN ở các bộ phận dưới mặt đất chiếm tới 70,7 %
tổng lượng độc tố trong cây. Trong đó gốc già dưới đất có 8,9 % và rễ củ
chiếm 61,8 %, tập chung chủ yếu ở vỏ và hai đầu củ sắn.
Khi gia súc thu nhận hàm lượng HCN quá cao thì sẽ làm cho con vật bị
trúng độc. Thường thấy gia súc bị ngộ độc HCN ở hai thể cấp tính và mãn
tính, ngộ độc cấp tính làm cho con vật chết rất nhanh và ngộ độc mãn tính
thường không có biểu hiện rõ ràng (Theo Oke, 1969 [86]). Theo Lê Đức
Ngoan và cs (2005) [22], gia súc thường xuất hiện dấu hiệu ngộ độc khi được
cho ăn liên tiếp những lượng nhỏ HCN và thường xuyên, nhưng gan vẫn có
khả năng giải độc HCN nhờ vào lưu huỳnh trong axit amin để tạo ra chất
thiociannat ít độc hơn HCN. Silvestre và Araudeau (1990) [27] đã cho biết;
Lượng độc tố HCN có thể gây chết động vật khoảng 2,5 mg/kg khối lượng cơ
thể. Theo Humphreys (1988) (dẫn theo Lê Đức Ngoan và cs (2005) [22]) thì
liều ngộ độc tối thiểu là 2 - 2,3 mg/khối lượng cơ thể, nhưng theo Du Thanh
Hang và Preston (2005) [59] thì ở mức 6 - 15 mg/kg khối lượng cơ thể vẫn
không thấy ngộ độc. Tuy nhiên theo các tác giả trên thì mức độ gây ngộ độc
còn tùy thuộc vào dạng glucosid có trong thức ăn.
Ngộ độc HCN có thể giải thích trên cơ sở của mối liên hệ giữa axit
cyanhydric với các ion kim loại như Cu
+2
và Fe
+2
. Gốc Cyanua (CN) sẽ liên

kết chặt chẽ với hemoglobin của hồng cầu để tạo thành phức chất
cyanohemoglobin. Chất này không có khả năng vận chuyển oxy trong máu
làm cho cơ thể thiếu oxy dẫn đến con vật ngạt thở, niêm mạc, da tím bầm và
chết nhanh.
Chính vì tác hại của loại độc tố này trong sắn, thì việc nghiên cứu làm
giảm đến mức tối đa HCN trong củ và lá sắn trước khi dùng làm thức ăn gia
súc, gia cầm là không thể thiếu được.
9

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

* Phương pháp khử độc tố HCN trong sắn
Để sử dụng sắn cho gia súc, gia cầm với tỷ lệ cao trong khẩu phần thì
cần phải nghiên cứu để tìm ra các biện pháp làm giảm được tối đa lượng độc
tố trong sắn, nhưng lại bảo tồn được các thành phần dinh dưỡng, tăng khẩu vị,
dễ tiêu hóa, hấp thu, giá thành rẻ, dễ làm và dễ bảo quản.
Theo Gomez (1983) [66] việc loại bỏ độc tố HCN trong củ và lá sắn
thường áp dụng theo nguyên tắc sau:
Loại bỏ trực tiếp cyanogen glucocid bằng cách hòa tan trong nước. Vì
cyanogen glucocid sản sinh ra HCN, chất này bị loại bỏ thì HCN cũng bị loại bỏ.
Làm phân giải cyanogen glucocid thành aceton và HCN, sau đó dùng
nhiệt làm bốc hơi HCN hoặc dùng nước làm rửa trôi HCN.
Làm phá hủy hoặc ức chế enzym linamariaza và glucocidaza. Các
enzym này không hoạt động thì cyanogen glucocid không thể phân hủy thành
aceton và HCN.
Cơ chế thứ nhất chắc chắn dễ thực hiện và có hiệu quả vì glucosid dễ
hòa tan trong nước. Nguyên tắc này được sử dụng nhiều trong các phương
pháp như ngâm sắn: Sắn cả củ, hoặc thái lát được ngâm 5 - 7 ngày trong
nước chảy hoặc nước đọng, sau đó lọc lấy tinh bột. Như vậy, một phần lớn

glucosid bị loại bỏ theo dòng nước.
Cơ chế thứ hai được áp dụng vào các phương pháp chế biến như: Thái
lát phơi khô, băm nhỏ (lá sắn) phơi khô, thái lát xử lý bề mặt lát cắt bằng
ngâm nước (nước lã, nước vôi, nước muối, axit HCl, axit axetic, ) sắn sợi
(nạo), làm sắn hạt, làm bột sắn thô, chế biến tinh bột sắn, ủ chua (lá sắn), ủ
tươi củ sắn

lên men vi sinh vật cho bột sắn.
Sự phân hủy các glucosid nhờ tác động của enzym được dễ dàng
thêm khi người ta nghiền tế bào hoặc để cho tế bào tự tiêu do đó glucosid
và enzym tiếp xúc với nhau. Nghiền hay nói đúng hơn mài sát củ sắn được
thực hiện không những phổ biến trong nhân dân mà còn được thực hiện với
10

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

quy mô công nghiệp. Theo Serrs và Tillon, 1973 (trích P.Silvestre, 1990 [27])
trường hợp này không chỉ có sự phân hủy các glucosid và loại bỏ HCN bằng
nước rửa, mà nước còn cuốn theo các glucosid chưa bị phân hủy.
Phương pháp chế biến đơn giản dễ làm và cổ điển nhất đó là thái lát
phơi khô. Việc phơi sắn củ đã thái lát hoặc phơi héo lá cùng với những sự
thay đổi tế bào (về hình thái, cấu trúc và sinh hóa) đồng thời cũng chính là
quá trình thực hiện sự tiếp xúc giữa glucosid và enzym và kết quả là HCN tự
do được giải phóng và bay hơi (Đinh Văn Lữ, 1972 [18]; Nguyễn Phước
Tương và cs, 1996 [33]).
Phương pháp luộc lá sắn làm giảm đáng kể hàm lượng HCN, trong lá
sắn luộc hàm lượng HCN chỉ còn khoảng 1 - 5 mg.
Từ Quang Hiển (1983) [8], Bùi Văn Chính (1995) [4], đã thí nghiệm
muối dưa lá sắn kết quả cho thấy trong lá sắn đã muối dưa chỉ còn 1 - 2 mg

% HCN. Tuy nhiên theo các tác giả trên thì biện pháp phơi khô lá sắn và
nghiền thành bột là tốt nhất. Trong lá sắn phơi khô, chỉ còn chứa 1 - 2 mg %
HCN. Sau khi nghiền thành bột thì hàm lượng HCN lại giảm đi rất nhiều và
nếu cất giữ cẩn thận sau
4
- 5 tháng vẫn còn chất lượng tốt. Lượng bột lá sắn
gia súc, gia cầm ăn được gấp 3 - 4 lần so với số
lượng

chúng
ăn được ở dạng
lá tươi, luộc hoặc muối dưa.
Ngoài các phương pháp chế biến trên còn có một số phương pháp tích
cực để khử độc tố HCN như sấy khô bằng lò sấy điện 70 - 80
o
C, hoặc sấy
bằng lò sấy thủ công, trong quá trình sấy glucosid bị thủy phân thành dạng
HCN tự do, sau đó bị bốc hơi cùng với nước trong sản phẩm.
Theo Bùi Văn Chính, 1995 [4]; Gomez, 1983 [66] thì cũng có thể làm
giảm HCN trong sắn bằng cách muối dưa (lá sắn) và ủ xilo (củ sắn). Nhờ tác
động của men sẵn có có trong sắn mà glucosid được phân hủy giải phóng
HCN tự do. Khi cho gia súc
ăn
lá sắn ủ chua hay ủ xilô các sản phẩm nên rửa
qua bằng nước lã rồi vắt bỏ nước.
11

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu


1.1.1.6. Phương pháp chế biến bột lá sắn
Có nhiều phương pháp chế biến bột lá sắn như phơi khô dưới ánh
nắng mặt trời và phương pháp sấy khô rồi nghiền thành bột.
Phương pháp phơi khô dưới ánh nắng mặt trời:
Theo Dương Thanh Liêm và cs (1999) [16] thì phương pháp chế biến
bột lá sắn bằng phương pháp này như sau: Lá sắn đến tuổi thu hoạch thích
hợp được thu gom, cắt, hái và loại bỏ hết cuống lá, phơi dưới ánh nắng mặt
trời cho đến khi khô giòn. Sau khi phơi khô giòn thì lá sắn được đưa vào
nghiền nhỏ thành bột, trải mỏng bột lá cho bay hơi nước và HCN. Cho bột
lá sắn vào bao nhưng để hở miệng túi sau 2 tuần mới đóng gói để trong thời
gian này HCN tiếp tục thoát ra ngoài.
Phương pháp sấy khô bằng nhiệt độ của hệ thống sấy nhiệt:
Cũng theo Dương Thanh Liêm và cs (1999) [16] thì chế biến bột lá
sắn bằng phương pháp này như sau: thu gom lá sắn và loại bỏ hết cuống,
phơi héo một ngày tại ruộng cho giảm bớt nước, sau đó đưa vào hệ thống
sấy ở nhiệt độ 60 - 100
0
C cho khô giòn, sau đó nghiền nhỏ thành bột. Đưa
vào bảo quản và đóng gói như phương pháp trên.
Sau khi chế biến, bột lá sắn được bổ sung vào khẩu phần ăn cho gia
súc, gia cầm hoặc lưu trữ trong các túi nilon để côn trùng và nấm, mối sẽ
không tấn công được.
Trước khi đưa bột lá sắn vào sử dụng cần kiểm tra đánh giá chất
lượng, bằng phương pháp trực quan qua mầu sắc của bột lá sắn: Bột lá có
màu xanh nhạt, giống với màu xanh của lá sắn và không có mùi mốc,
không lẫn cành, cuống lá và tạp chất, tỷ lệ nước trong bột lá sắn nhỏ hơn
hoặc bằng 10 %.
Đối với từng loại vật nuôi khác nhau mà bổ sung các chế phẩm từ
cây sắn vào thức ăn hỗn hợp với tỷ lệ khác nhau.
12


S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

1.1.2. Giới thiệu về cây keo giậu
1.1.2.1. Tên gọi
Keo giậu là một cây thuộc bộ đậu, sống ở vùng nhiệt đới, có tên khoa
học là Leucaena leucocephala (Lam) de - Wit. Tên gọi “Leucaena” là danh
pháp quốc tế gọi chung cho loài cây này. Ngoài ra, keo giậu còn có các tên
khác như: Leucaena Glauca (Wind) Benth, Mimosa leucocephala Lam,
Mimosa glauca L, Acacia glauca (L.) Moenth. Ở các quốc gia khác nhau,
keo giậu còn có các tên khác nhau. Ở Trung Mỹ, keo giậu có tên là Huakin;
Mexico và Tây Ban Nha gọi là Guaje; Philippin gọi là Ipil - ipil; Ấn Độ
gọi là Kubabul hoặc Subabul; Indonesia gọi là Lamtoro; Hawaii gọi là
Kaohaole; Trung Quốc gọi là Yin huehuan và Quần đảo Thái Bình Dương
gọi là Tanggantangan….
Ở Việt Nam, keo giậu được phân bố rộng từ Bắc vào Nam, tỉnh nào
cũng có keo giậu và keo giậu đã trở thành cây mọc tự nhiên ở một số địa
phương (Nguyễn Đăng Khôi, 1979) [15]. Ở các địa phương khác nhau, keo
giậu cũng có các tên khác nhau. Miền Bắc gọi là Keo giậu; Miền Trung gọi là
Táo nhơn; Miền Nam gọi là Bình linh. Giống keo giậu mọc hoang ở nước ta
thuộc kiểu Hawaii (Dương Hữu Thời và cs, 1982) [31], năng suất không cao
(Ngô Văn Mận, 1977) [20].
1.1.2.2. Nguồn gốc phân bố
Keo giậu được xác định có nguồn gốc từ Trung Mỹ và Mexico (NAS,
1984) [84]. Phần lớn các vùng đất này có độ cao trung bình dưới 1500 m so
với mực biển, đất nửa khô hạn, hơi kiềm hay axit nhẹ.
Năm 1965, người Tây Ban Nha đưa keo giậu từ Mexico vào Philippin
để trồng làm thức ăn cho đàn dê của họ (Brewbaker, 1979 [52]; Oakes, 1968
[85]). Cuối thế kỷ VXII và đầu thế kỷ XIX, keo giậu đã được đưa tới các

nước nhiệt đới ven bờ biển Thái Bình Dương: Indonesia, Malaysia, Paypua
New Guinea, Tây và Nam Phi (NAS, 1984) [84]. Keo giậu được nhập vào
13

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

Hawaii, Fijii, bắc Austrailia, Ấn Độ, Đông Phi, vùng biển Caribbean. Đông
Nam Á là vùng phát triển keo giậu tương đối sớm và nhiều. Trong những năm
70 của thế kỷ XX, các nước Ấn Độ, Indonesia, Philippin, Thái Lan đã trồng
nhiều keo giậu và sử dụng chúng như một nguồn thức ăn trong chăn nuôi.
Ở Việt nam một số địa phương đã chú ý trồng keo giậu với mục đích
khai thác những tiềm năng đa dạng của nó đặc biệt là cải tạo đất, chống xói
mòn, phủ xanh.
1.1.2.3. Năng suất chất xanh
Keo giậu có khả năng sinh trưởng rất nhanh và có khả năng sản sinh ra
một khối lượng lớn cành, lá, hoa, quả và hạt mà động vật đều có thể sử dụng
làm thức ăn. Người ta còn sử dụng những phần non và lá của keo giậu để chế
biến thành bột khô để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, nhất là vào mùa khô
khan hiếm thức ăn xanh. Bởi bột này, chứa nhiều vitamin tự nhiên, đặc biệt là
caroten và sắc tố vàng cung cấp cho vật nuôi. Trong bột keo giậu còn có
vitamin E, C và caroten là những chất chống oxy hóa, ngăn cản tích tụ
cholesterol trong máu, ngoài ra còn chứa các chất chống viêm nhiễm và bài
tiết chất độc cho động vật như quinol và phenol. Chính vì vậy, bột cỏ nói
chung và bột keo giậu nói riêng được nhiều nước trên thế giới quan tâm sử
dụng làm thức ăn chăn nuôi.
NAS (1984) [84] cho biết, những cánh đồng keo giậu có lợi ích hơn bất
cứ một cánh đồng cỏ nào, nó có thể trở thành một nguồn cung cấp chất xanh
to lớn. Trong điều kiện chăm sóc, quản lý tốt những cánh đồng keo giậu có
thể duy trì một năng suất chất xanh cao và chịu đựng được cường độ chăn thả

lớn. Những cánh đồng keo giậu được quản lý theo phương pháp luân phiên có
thể tồn tại trong thời gian trên 20 năm mà không cần phải trồng lại (Jones và
Harrison, 1980) [73] Năng suất chất khô của keo giậu hàng năm dao động từ
2 đến 20 tấn/ha (Jones, 1979) [72]. Những giống keo giậu tốt, được trồng trên
đất có độ phì cao có thể cho năng suất vật chất khô hàng năm lên tới 12 - 20
14

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

tấn/ha, tương đương với 2,4 đến 6,4 tấn protein/ha/năm (NAS, 1984) [84].
NAS (1984) [84] cũng cho biết, năng suất và chất lượng keo giậu tươi
đạt mức tối ưu ở chế độ gieo trồng và thu hoạch như sau: mật độ gieo trồng là
100.000 - 140.000 cây/ha; độ cao thu hoạch của cây là 60 - 70 cm; chu kỳ thu
hoạch là 50 - 60 ngày, trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, năng suất
keo giậu đạt 12 - 14 tấn chất khô/ha/năm. Trong những vùng nhiệt đới khô
hạn năng suất keo giậu giảm ở mùa khô. Ngoài ảnh hưởng của thời tiết, khí
hậu, năng suất keo giậu còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố giống, mật độ cây trồng,
tần số khai thác và chiều cao thu hoạch của cây.
Ở Việt Nam, keo giậu là loài cây dễ trồng và dễ thích nghi, năng suất
chất xanh và vật chất khô khá cao, phù hợp với nhiều loài động vật nên được
nhiều nhà khoa học trong nước quan tâm nghiên cứu để đưa vào thực tiễn sản
xuất chăn nuôi. Bùi Xuân An và Ngô Văn Mận (1981) [1] cho biết, khi được
bón lót 10 tấn phân chuồng/ha và bón thúc bằng 30 kg N, 60 kg P
2
O
5
, 40 kg
K
2

O/ha đã đưa năng suất chất khô đạt 4 tấn/ha/năm, trong đó, số lượng lá
chiếm tới 46 %.
Nguyễn Bách Việt (1994) [35] đã cho biết, năng suất chất khô của keo
giậu Peru trồng tại Trại thực tập trường Đại học Nông Nghiệp I ở năm đầu là
10,12 tấn/ha; năm thứ hai là 12,46 tấn/ha.
Lê Thị Hòa Bình và cộng sự (1990) [3] đã khảo sát năng suất của các
giống keo giậu Ipil - ipil, Đồng Mô, Ba Vì hạt lớn, Ba Vì hạt nhỏ, Peru và Ấn
Độ. Kết quả khảo sát cho thấy, các giống Ba Vì hạt lớn, Ipil - ipil và Ấn Độ
cho năng suất chất xanh cao, lần lượt là 45,05; 43,35 và 40,20 tấn/ha/năm,
tương đương khoảng 10.000 đơn vị thức ăn. Tuy nhiên, về mùa khô, keo giậu
sinh trưởng kém, chỉ đạt gần 50 % so với mùa mưa. Riêng giống Ba Vì hạt
lớn, sinh trưởng ở mùa đông có ưu thế hơn các giống khác.
Nguyễn Ngọc Hà (1996) [6] đã thử nghiệm trồng khảo sát tốc độ sinh
trưởng của keo giậu trên các loại đất khác nhau cho biết, trong số 12 loài được
15

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

khảo sát thì loài keo giậu Leucaena leucocephala có nhiều ưu điểm hơn cả.
Tốc độ sinh trưởng đạt 1,26 cm/ngày, cao hơn 2 lần tốc độ sinh trưởng trung
bình của 12 loài khảo sát. Tác giả cũng cho biết, năng suất chất khô trung
bình của keo giậu là 11,5 tấn/ha/năm. Giống Peru - Cunnigham có năng suất
chất khô là 13,36 tấn/ha/năm, cao hơn giống Salvador - Mỹ là 3,62 tấn. Tuy
nhiên, năng suất chất khô của keo giậu còn phụ thuộc khá nhiều vào độ chua
của đất, vì ở đất chua khả năng cộng sinh của vi khuẩn Rhyzobium với keo
giậu kém, làm cho keo giậu thiếu đạm, năng suất thấp.
Từ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy, keo giậu là một loại cây có
khả năng sinh trưởng nhanh, cho năng suất chất xanh cao, giầu protein,
vitamin, sắc tố và các khoáng vi lượng rất phù hợp trong chăn nuôi. Tuy

nhiên, năng suất của keo giậu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: pH, độ phì
của đất, lượng mưa, cường độ bức xạ mặt trời, nhiệt độ…và các đặc tính của
từng loài, giống keo giậu.
1.1.2.4. Thành phần hóa học của bột lá keo giậu
Thành phần các chất dinh dưỡng có trong keo giậu vừa phong phú vừa
rất biến động và phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhìn chung các kết quả phân
tích cho thấy, keo giậu là một loại cây giàu protein, khoáng, vitamin và các
chất sắc tố.
* Protein
Hàm lượng protein thô trung bình trong bột lá keo giậu biến động từ
24,0 - 34,4 %, trong hỗn hợp cành và lá từ 10 - 30 % VCK. Như vậy, hàm
lượng protein trong BLKG là khá cao và có thể so sánh với bột cỏ Medi (là
một cây họ đậu có hàm lượng protein cao (Garcia và cs, 1996) [65]. Hàm
lượng protein cũng biến động giữa các phần của cây. Lá non của keo giậu
chứa nhiều protein và có khả năng tiêu hóa cao, lá ở đỉnh ngọn có hàm lượng
protein cao nhất từ 28,4 - 30,0 % VCK (Desmukh và cs, 1987) [57]. Ronia và
16

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

cs (1979) [95] cho biết, hàm lượng protein trong lá non cao gấp 1,5 lần so với
lá già, các phần lá phân bố ở giữa có hàm lượng protein là 23,8 - 28,2 %
VCK, phần lá bên dưới có hàm lượng protein là 17,4 - 24,1 % VCK.
Người ta nhận thấy, protein của lá và hạt keo giậu khá giầu các
axit amin không thay thế như isoleucin, leucin, phenylalanin và histidin,
còn hàm lượng lysin và methionin ở mức tương đối thấp so với một số
loại thức ăn có nguồn gốc động vật. Dhamothiran và cs (1991) [58] cho
biết, hàm lượng protein thô trong hạt keo giậu là 21,3 % VCK, còn
Shejav và Prasad (1995) [97] cho rằng, hàm lượng protein thô trong hạt

đạt 32,3 % VCK.
Keo giậu trồng tại Việt Nam có hàm lượng protein thô khá cao. Lê
Thị Hòa Bình và cs (1990) [3] cho biết, hàm lượng protein thô trong lá
keo giậu trồng tại Việt Nam dao động từ 20,8 - 26,6 % VCK.
* Chất xơ
Keo giậu có hàm lượng chất xơ khá cao so với các loại thức ăn ngũ cốc
khác nhưng lại thấp hơn nhiều so với các loại thức ăn xanh khác. Do hàm
lượng chất xơ cao nên đã hạn chế tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng có trong
keo giậu, đặc biệt là đối với động vật dạ dày đơn và gia cầm. Hàm lượng chất
xơ trong keo giậu cũng thay đổi theo giống và các phần khác nhau của cây,
ngay trong cùng một loài, hàm lượng chất xơ cũng khác nhau. Garcia và cs
(1996) [65] cho biết, hàm lượng chất xơ thô trong hỗn hợp cành, lá keo giậu
trung bình là 35 % (biến động từ 32 - 38 % VCK), trong bột lá keo giậu là
19,2 % VCK (biến động từ 18,0 - 20,4 % VCK). Hàm lượng chất xơ cũng
thay đổi theo giống và các phần khác của cây.
Ở Việt Nam, Nguyễn Ngọc Hà (1996) [6] cho biết, bột lá keo giậu có
hàm lượng xơ trung bình từ 8,41 - 10,37 % VCK, còn theo Từ Quang Hiển và
cs (2008) [11] thì tỷ lệ này dao động từ 8,97 - 9,25 % VCK.

×