GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN
“QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ
TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI”
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
SVTH : NGUYỄN VIỆT PHONG
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 3
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN 14
CHUƠNG IV : KẾT LUẬN 25
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khá quan trọng trong sự phát triển của xã hội là
“vấn đề về trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào
đường lối, chiến lược trị quốc. Quan điểm của các nhà triết học qua các thời kỳ
khác nhau (cổ đại, trung đại và hiện đại) cũng khác nhau. Các quan điểm được
phát triển trên từ đơn giản đến phức tạp, từ bức tranh duy vật đến duy tâm. Mỗi
tư tưởng triết học đều có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ quan, nhận
thức luận, đạo đức, chính trị, xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của
các nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các
tư tưởng triết học, nhưng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chương trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học
cổ đại của cả phương Tây lẫn phương Đông và là một vấn đề mang tính chất thực
tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lược về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài được chia ra thành hai
mảng chính. Ở triết học phương Đông, nội dung trị quốc được phân tích thông
qua các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Pháp gia. Còn đối với triết học phương Tây, khía cạnh này lại được mổ xẻ thông
qua tư tưởng Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp.
2
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Trung Quốc là một nước có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo dài,
chiến tranh diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong
các thời kỳ cổ đại, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự
ra đời các hệ thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn
liền với lịch sử của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những nhà
triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương triều
đình.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu – Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền đến
đời sau.
2. Triết học Nho Gia
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.
‘
Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn
lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Do đó, sau này ông được xem là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội
có hiệu quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng
này gọi là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người quân tử, con người ta
trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận phải "hành đạo". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia
đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống
nhất thiên hạ).
3
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ
đức để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cương và
ngũ thường là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là
chuẩn mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có mọi
người tuân theo tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được trật tự,
thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là
tình người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai trị bằng
tình người. Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”. Chính danh ở
đây có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho được những điều mà danh
đó quy định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu tất cả
mọi người đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình, trật tự, không loạn lạc.
Chính bởi thế mà câu nói "Nếu danh không chính thì lời nói không thuận. Lời nói
không thuận tất việc chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ vẫn thường được mọi
người nhắc lại. Nói một cách ngắn gọn hơn, quan điểm này đã được những người
sáng lập tóm gọn trong 9 chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
3. Triết học Đạo gia
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại,
ra đời sau thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và
sau đó được Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong
bối cảnh tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ
Nam hoa kinh. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được
thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm
biện chứng về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải
quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
4
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can
thiệp đến việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm
một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông,
chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm
việc thì dân đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là
bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt
đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất
phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên).
4. Triết học Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng lập,
phát triển qua 2 giai đoạn: Mặc tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh nguyện vọng
của tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển cùng thời với
Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết học chính
trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc.
Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phương tiện để đạt cho
được cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phương tiện như
Khổng hay Mạnh. Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an
bang tế thế.
Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại thăng
tiến. Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để đánh
giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng nếu
không có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái
'dụng' của sự việc cũng không nên quên đi 'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn việc
không việc gì quý bằng nghĩa' (vạn sự mạc quý ư nghĩa) và 'nghĩa là lợi' (nghĩa,
lợi dã)
5
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử theo
minh ý của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một cách
mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình
chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt
đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lược quốc trị tốt nhất cho dân tộc
là sách lược bác ái bao gồm các chính sách khuyến khích tinh thần bác ái trong
quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù trong xã hội.
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết
trọng dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa
ra quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương
thời và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc
qua cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan
trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh
đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
5. Triết học Pháp gia
Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với
nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đứng trong hàng ngũ bốn nước
cổ đại có nền văn minh rực rỡ và lâu đời, là cái nôi sớm nhất của văn minh nhân
loại. Về tư tưởng, lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều
nhất: Xuân Thu (770 – 403 TCN) là thời kỳ sinh sống của Lão Tử và Khổng Tử
và Chiến Quốc (403 – 221 TCN) là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử, đã hội tụ
những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao. Học thuyết pháp trị của phái pháp
gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản
Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi
Tử Tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt
6
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu -
Chiến Quốc
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách
rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong
chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo
nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung
chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng
muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì
nhà vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương:
1- Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua;
2- Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách
mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất
trung. 3- Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương
tiện hiệu nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng
thưởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là
chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật
lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư
tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh
công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành,
thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo
Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia,
là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính
như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ
7
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với
Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải
trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều
lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong
việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp
luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi,
“Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng
quan lại; Tâm thuật tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ
ra.Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại
những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được…
Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ
gian và dùng người.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi
hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về
"Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau
trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử
đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật
làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông
dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ
trương dùng phép trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần
Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống
nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
8
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá.
Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay
bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, xứng đáng là chiếc nôi của nền văn
minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng
tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa
học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi
thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời
sống thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng
bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã
hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất
yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
9
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức
sản xuất thứ hai ở phương Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ
bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con
người, mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô
cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù
vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở
khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy
nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư
tưởng biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của
phép biện chứng.
2. Quan điểm Đêmocrit
Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy
Lạp cổ đại, sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở xứ
Tơraxia, ven bờ phía Bắc của biển Êgiê.
Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là
học trò của Lơxíp và là người kế tục tư tưởng của Lơxip về nguyên tử và phát
triển nó thành một học thuyết gắn liền với tư tưởng của ông.
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái
niệm nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không
tồn tại”. Trái với quan niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định
được, cái đa dạng, cái có ngoại hình…
10
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái trống rỗng
là cái không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì
các vật thể nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động được trong cái trống rỗng,
cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự trống
rỗng nào được gọi là nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm nhận
được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa
dạng, tự thân không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể.
Đêmôcrít cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và
khoảng không. Sự xuất hiện, tồn tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết
hợp của các nguyên tử hay phân tâm của các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo
Đêmôcrít là một khoảng không vô tận trong đó chứa đựng vô số thế giới khác
nhau được cấu tạo từ vô vàn các loại nguyên tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt
động tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh.
Theo ông, linh hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc
biệt có cấu hình, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh
ra nhiệt làm cơ thể hưng phấn và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện cùng
với sự tồn tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự vận
động và tồn tại của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt động
nhận thức của con người theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm giác
và nhận thức lý tính. Sự khác nhau giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở tính
chất, trình độ giữa chúng, tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân biệt được sự khác nhau
cơ bản giữa hai dạng nhận thức, mà chỉ thấy sự khác nhau đơn thuần về lượng,
cũng chưa thấy được sự chuyển hóa giữa chúng, mà thực chất coi tư duy chỉ là sự
hỗn hợp cái nguyên tử trong cơ thể con người.
11
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp
dân chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là
hợp đạo lý, nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan
điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói
mà ở việc làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh
phúc, nhưng hạnh phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn
được tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận nghiêng về
lập trường vô thần.
3. Quan điểm Platon
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi quý
tộc tại Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một người đệ tử,
một người bạn trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác động
mạnh mẽ tới tâm thức Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù ghét
quần chúng và cả giai cấp quý tộc của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị
cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị. Trong những tác phẩm của ông, nổi
tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà (Republic). Có thể nói đó là một
cuốn bách khoa toàn thư vô cùng giá trị trong lịch sử nhân loại.
Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong
mô hình “Quốc gia lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời.
Trong mô hình quốc gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề
của đời sống mà xã hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy
nghĩ. Đó là một quốc gia trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc,
đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo ra.
Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp
rõ rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh
đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người
12
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
tham gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người
buôn bán và sản xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia
cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất
cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác
hơn là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc này không được sở hữu bất
cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không
được có sự quá chênh lệch giữa mọi người.
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ
riêng theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ
và xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có
chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là
những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ
không được tham nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người dân
làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá
nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào
trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công
nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều
có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang
nhau. Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền
con nối, nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo
“chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội
lực bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
13
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN
I.Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Trung Quốc
Trung Hoa cổ đại là một trong những trung tâm văn hóa, khoa học và triết học cổ
xưa, phong phú và rực rỡ nhất không chỉ của nền văn minh phương Đông mà của
cả nhân loại.
Trung Hoa cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thế kỷ III TCN kéo dài đến thế kỷ II
TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền và bạo
lực, mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong khoảng 2000 năm lịch sử ấy,
lịch sử Trung Hoa được chia thành 2 thời kỳ lớn:
• Thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu)
• Thời Xuân Thu-Chiến Quốc
Chính sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong các thời kỳ này, đặc biệt là
thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự ra đời hàng loạt các hệ thống
triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn liền với lịch sử của
nhân loại.
1.Tư tưởng trị quốc Nho gia:
Quan điểm về chính trị- đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư tưởng
chủ yếu sau:
Thứ nhất: Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã hội giữa con người với con
người nhưng Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ
nền tảng của xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những quan
hệ này vào ba rường mối chủ đạo (gọi là tam cương). Trong đó quan trọng nhất
là quan hệ vua- tôi, cha- con và chồng- vợ. Nếu xếp theo “tôn ty trên- dưới” thì
vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua- cha-
chồng xếp ở hàng làm chủ. ” Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền
và phụ quyền của Nho gia.
Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội, mà trước hết là mối quan hệ “tam
cương”, Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để thực hiện chính danh,
Khổng Tử đặc biệt coi trọng “Nhân trị” chức không phải “pháp trị
Thứ hai: Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã
hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh. Lý tưởng của Nho gia là xây
14
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có vua sáng-
tôi hiền, cha từ- con thảo, trong ấm- ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân phận của
mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân.Có thể nói đó là lý tưởng của
tầng lớp quý tộc, thị tộc cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn
lên.
Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống
và chủ trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân của người ấy.
Trong việc chính trị vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng
lượng với những kẻ cộng sự ”.
2. Những phê bình về Nho gia và những nét mới của tư tưởng trị quốc Mặc
Tử:
Mặc Tử cảm thấy Khổng giáo không thể an định quốc gia bởi vì lễ nghi phiền
phức trói buộc con người vào vòng nghèo đói và tệ nạn 'giả nhân giả nghĩa'.
Ông phê bình Nho học như sau:
'Ðạo Nho có bốn điều đủ làm mất thiên hạ: Nho sinh cho trời
không minh, cho quỷ không thiên, trời quỷ không bằng lòng,
cái đó đủ mất thiên hạ. Lại chôn cất hậu, để trở lâu, làm ra quan
quách thật nặng, chế ra áo khâm thật nhiều, đưa ma như thể dọn
nhà, ba năm khóc lóc, phải nâng mới dậy, phải gậy mới đi, tai
không nghe gì, mắt không thấy gì, cái đó đủ mất thiên hạ. Lại
đàn hát, trống múa, tập làm âm nhạc, cái đó đủ mất thiên hạ. Lại
cho số mạng là có, nghèo giàu, thọ yểu, trị loạn, yên nguy, đều
có khuôn sẵn, không thể thêm bớt, người trên làm theo ý ấy, ắt
không nghe đến chính trị, người dưới làm theo ý ấy, ắt không
thiết gì làm việc, cái đó đủ mất thiên hạ.'
Mặc Tử lại phê phán Lão giáo là sách lược bất động không đem đến
thực lợi cho nhân dân. Ông quan niệm rằng 'trời yêu cả thiên hạ, làm lợi cho
vạn vật, tỉ mỉ như cái múp sợi lông' khác với chủ trương của Lão, Trang là 'thiên
địa bất nhân (không thương thiên hạ).' Ông suy luận rằng việc quốc trị không thể
không làm (vô vi) như Lão hay Trang chủ trương, và khi làm thì phải chú trọng
vào phương tiện để đạt cho được cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà
quên đi phương tiện như Khổng hay Mạnh.
15
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
lý tưởng chính trị thì Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an
bang tế thế. Ðối với ông, phương tiện cũng không kém cứu cánh; nếu chỉ bàn
mông lung về lý tưởng mà không có chương trình hành động cụ thể thì cũng khó
đạt được lý tưởng.
'Mặc Tử hỏi một nhà Nho: ''Sao lại làm nhạc?'' Người ấy đáp:
''Nhạc để làm nhạc.''
Mặc Tử bảo: ''Ông chưa trả lời đúng câu hỏi của tôi. Nay tôi lại
xin hỏi rằng ''Sao lại làm buồng?'' Ông sẽ đáp là ''Mùa đông làm
buồng để tránh rét, mùa hạ tránh nắng, làm buồng để phân biệt
trai, gái.'' Như thế là ông đã trả lời câu hỏi của tôi rồi.'
Ngoài việc tìm kiếm cách thức để đạt được mục đích (cách nào?), Mặc
Tử còn muốn biết nguyên nhân của hành động (tại sao?). Ông muốn tìm ra cái
'gốc' đã làm xáo trộn xã hội để biết được cái 'dụng' rồi mới tìm cách giải quyết
các vấn đề khó khăn. 'Thầy thuốc chữa bệnh người ta, phải biết bệnh ở đâu ra thì
mới chữa được. Những kẻ chữa loạn sao lại không thế? Thánh nhân làm việc cai
trị thiên hạ, không thể không xét loạn ở đâu ra.' Không biết được lý do xích hóa
thiên hạ thì khó áp dụng đúng phương pháp khai phóng thiên hạ. (Khi cội nguồn
của vấn đề là kinh tế thì phải giải quyết bằng phương pháp kinh tế; nhưng nếu cội
nguồn của vấn đề là chính trị thì phương pháp kinh tế không bao giờ có thể giải
quyết ổn thỏa vấn đề chính trị.)
'Thánh vương cũng đã thu thuế nhiều của muôn dân để cất
thuyền và xe. Lúc đã cất xong rồi liền hỏi: 'Ta sẽ dùng nó làm
gì?' Ðáp rằng: 'Thuyền dùng ở nước, xe dùng ở cạn, quân tử
được nghỉ chân, tiểu nhân được nghỉ vai, lưng. Cho nên muôn
dân xuất của đem lại cho mà không oán hận. Tại sao? Bởi vì nó
trúng vào chỗ lợi của dân. Vậy thì những thứ nhạc khí, nếu
trúng vào chỗ lợi của dân như thế ta cũng không dám công kích.
Nhưng dân có ba điều lo là đói không được ăn, rét không được
mặc, mỏi không được nghỉ, ba điều đó là sự lo lớn của dân.
Song nếu vì dân mà gõ chuông lớn, đánh trống kêu, gảy đàn
cầm đàn sắt, thổi ống vu ống sinh và múa cái can cái thích, thì
cái của ăn mặc của dân có được gì đâu.'
16
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Thuế má 'dụng' được cho nên là việc 'phải,' và vì 'phải' nên 'dụng' được. Trong
khi đó, theo Mặc Tử, nhạc không 'dụng' được cho nên không 'phải;' và vì không
'phải' do đó không nên 'dụng'. Mọi việc vì vậy có ba 'biểu' tức là 'gốc,' 'nguyện'
(nguồn) và 'dụng.'
'Thế nào gọi là ba (3) biểu? Nghĩa là có cái làm gốc, có cái làm
nguyện, có cái để dụng. Gốc ở chỗ nào? Trên thì gốc ở việc của
Thánh vương đời xưa. Nguyện (nguồn) ở chỗ nào? Dưới thì dò
xét sự thật ở trước tai mắt trăm họ. Dụng ở chỗ nào? Ðưa ra là
việc hình chính xem có lợi cho nhà nước trăm họ hay không.'
Khi biết rõ được hai biểu ban đầu (gốc và nguồn) của vấn đề thì sau đó
ứng dụng (hành động) vào thực tế để đánh giá thực lợi; chỗ 'dụng' của vạn vật sẽ
đem đến ích lợi thực sự cho nhân dân. Ðây là chủ trương ứng dụng hay thực lợi
của Mặc Tử; những phù phiếm bề ngoài không đem lại lợi lộc thực sự cho nên
không cần đến. Chủ nghĩa ứng dụng của Mặc Tử được diễn tả như sau:
'Lời nói đủ để cải cách hành vi thì tôn trọng. Không đủ tăng tiến
hành vi thì không nên tôn trọng. Không đủ để tăng tiến hành vi
mà tôn trọng, đó là miệng phóng túng vậy.'
Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại
thăng tiến, và nếu không đưa đến kết quả này thì trở nên vô dụng và không được
tôn trọng. Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để
đánh giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng
nếu không có lợi cho nhân dân (chứ chưa nói đến việc có hại) thì không làm.
Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái 'dụng' của sự việc cũng không nên quên đi
'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn việc không việc gì quý bằng nghĩa' (vạn sự mạc
quý ư nghĩa) và 'nghĩa là lợi' (nghĩa, lợi dã).
'Nay bảo một người nào rằng: 'Cho anh cái mũ cái dép mà chặt
tay chân của anh, anh có lấy không?' Chắc chắn không lấy. Tại
sao? Bởi vì mũ dép không quý bằng chân tay.
Lại bảo: 'Cho anh cả thiên hạ mà giết thân anh, anh có lấy
không?' Chắc chắn không lấy. Tại sao? Bởi vì thiên hạ không
quý bằng thân.
17
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
(Nhưng lại có cảnh) tranh một lời nói mà đến giết nhau, đó là
nghĩa quý hơn thân.'
'Dùng mà không được (không có lợi) thì tôi cũng phản đối. Vả lại có khi
nào có điều hữu thiện mà lại không dùng (lợi) được.' Mặc Tử quan niệm 'nghĩa là
lợi' (nghĩa, lợi dã) cho nên khi biết vai trò chính yếu của nhân nghĩa thì bậc lãnh
đạo phải áp dụng nhân nghĩa trong mọi lãnh vực để kiềm chế tư tưởng hay hành
động bất nhân. Ở đời có kẻ tự xem là quân tử nhưng chỉ biết bàn suông về nhân
nghĩa mà không thi hành việc nhân nghĩa; họ chỉ là loại quân tử mồm mép biết
dùng đại ngôn mà không có thực tài. Loại quân tử mồm mép không khác gì kẻ
mù lòa không biết phân biệt trắng đen cho nên khi gặp việc thì cũng không biết
chọn lựa giữa việc nghĩa và việc bất nhân.
'Nay có kẻ mù lòa nói: 'Bạch nghĩa là trắng, thâm nghĩa là đen'
thì dẫu kẻ sáng mắt cũng không cãi lại được. Nếu đen trắng lẫn
lộn mà sai kẻ mù chọn lấy thì hắn không thể biết được. Cho nên
ta nói kẻ mù không biết đen trắng, không phải vì sự gọi tên
(nói), mà là vì sự chọn lựa (làm).
Nay người quân tử trong thiên hạ nói việc nhân, dẫu có đến vua
Vũ hay vua Thang cũng không cãi lại được. Nhưng để việc
nhân và bất nhân lẫn lộn mà bảo những người quân tử trong
thiên hạ chọn lấy, thì họ không thể biết được (việc nhân hay
việc bất nhân). Cho nên ta bảo người quân tử trong thiên hạ
không biết việc nhân, không phải vì sự gọi tên (nói), mà là vì sự
chọn lựa (làm).'
3.Tư tưởng Pháp gia- những khác biệt với tư tưởng trị quốc Nho gia,Đạo
gia, Mặc gia và những hạn chế :
a. Một số nét về tư tưởng trị quốc Pháp gia :
18
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Hàn Phi (khoảng 280 – 233 TCN) là người tập đại thành tư tưởng Pháp gia. Ông
đã tiếp thu điểm ưu trội của ba trường pháp “pháp”, “thuật”, “thế”để xây dựng và
phát triển một hệ thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với
đương thời. Coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và
công bằng, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng dùng luật pháp để trị nước. Ông đưa ra
một số nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp luật, như pháp luật
phải nghiêm minh, không phân biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật Với những tư tưởng đó, học thuyết của Hàn Phi được người xưa gọi
là “học thuyết của đế vương”.
b. Những khác biệt với tư tưởng trị quốc Nho gia,Đạo gia và Mặc gia
Khổng Tử là người đặc biệt nệ cổ, thường coi xưa hơn nay; tâm nguyện của ông
là làm sao để xã hội có thể trở về trạng thái xưa cũ. Mặc Tử, ông tổ phái Mặc gia,
cũng rất đề cao quá khứ. Theo ông, một trong ba tiêu chuẩn của chân lý (phép
“Tam biểu”), là lời nói của thánh nhân đời xưa, hay những gì đã từng được nói
đến trong quá khứ. Hàn Phi đã phê phán một cách hết sức sắc sảo loại quan
điểm này: “Khổng Tử, Mặc Tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng chủ trương
của hai người khác nhau. Họ đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân chính.
Nghiêu, Thuấn không sống lại, vậy ai sẽ quyết định đạo Nho hay đạo Mặc là
đúng với Nghiêu, Thuấn? Đời Ân, đời Chu đã hơn bảy trăm năm, đời Ngu, đời
Hạ trước đấy đã hơn hai ngàn năm mà còn không quyết định được cái đúng của
đạo Nho và đạo Mặc. Nay lại muốn nghiên cứu cái đạo của Nghiêu, Thuấn cách
đây đã ba ngàn năm, chẳng phải là không thể nào làm được sao? Nếu như không
tham nghiệm được mà lại quyết định ngay thì đó là ngu. Nếu không thể quyết
định được mà lại theo ngay thì đó là dối trá. Cho nên chuyện nêu cao các tiên
vương, quyết định theo Nghiêu và Thuấn nếu như không phải là ngu thì cũng là
dối trá vậy. Cái học ngu và dối trá, cái hành động bác tạp và trái pháp luật này vị
vua sáng không theo”(2). Các nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ,
song để pháp luật có được tính phổ quát nhất định, hay nói cách khác, để có được
19
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
một nền pháp trị, Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa
thần thánh mà những kẻ cai trị luôn muốn tự khoác lên mình.
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông
có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời
xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại,
Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt
nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc
chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực
tế: “Trẻ con đùa nghịch với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm
thịt. Nhưng chiều đến, thế nào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể
đùa để chơi, nhưng không thể dùng để ăn. Khen những điều truyền tụng từ
thượng cổ, hùng biện mà không chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa của các tiên
vương mà không biết sửa đổi nước, thì đó cũng đều là những điều có thể dùng để
đùa chơi chứ không dùng để trị nước”
c. Những hạn chế của tư tưởng trị quốc Pháp gia:
Trên thực tế, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị, nhà Tần đã thu phục được các
nước còn lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc Trung
Hoa. Song, sang đến đời Hán, Nho gia đã hưng thịnh trở lại, Pháp gia cùng
hệ thống pháp trị nhanh chóng mất đi chỗ đứng của mình. Về phương diện
này, Ngô Kinh Hùng, nhà triết học pháp luật nổi tiếng người Trung Quốc, đã đưa
ra một nhận xét tương đối xác đáng rằng, sở dĩ Pháp gia thất bại là do bản
thân cách làm của Pháp gia (trong đấy có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá
cực đoan:
1. Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt
nghiêm khắc.
2. Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy
móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp luật.
20
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
3. Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với pháp
luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
4.Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất; thực ra,
luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau.
5. Ở họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch sử,
dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử
II.Tư tưởng triết học Đêmocrit,Platon và nét khác biệt:
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái
niệm nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không
tồn tại”. Trái với quan niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định
được, cái đa dạng, cái có ngoại hình…
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp
dân chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là
hợp đạo lý, nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan
điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói
mà ở việc làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh
phúc, nhưng hạnh phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn
được tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận nghiêng về
lập trường vô thần.
Đối lập với chủ nghĩa duy vật Hi Lạp cổ đại là chủ nghĩa duy tâm trong triết
học mà đại biểu lớn nhất là Platôn.
Platôn là người dầu tiên xây dựng hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên của chủ
nghĩa duy tâm khách quan, đối lập với thế giới quan duy vật. Ông đã tiến hành
đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật đặc biệt là chống lại những đại
biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ như Đêmôcrit.
21
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
Nếu ở Đêmocrit, phép biện chứng được sử dụng để phục vụ khoa học
thì ở Platôn phép biện chứng lệ thuộc vào triết học duy tâm. Đường lối
Platôn chống lại đường lối Đêmôcrit trong triết học Hi Lạp cổ đại, chống lại
thuyết nguyên tử của Đêmôcrit. Các hiện tượng tự nhiên bị ông quy về các
quan hệ toán học. Đạo đức học của ông được xây dựng trên học thuyết về linh
hồn bất tử là một hình thức của lý luận tôn giáo, là bộ phạn quan trọng nhất của ý
thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc.
Là kẻ thù chính trị của chế độ dân chủ chủ nô Aten, Platôn coi “chế độ quý
tộc” tức là chế độ nhà nước của tầng lớp thượng lưu là “nhà nước lý tưởng”.
22
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
KẾT LUẬN
- Sự kế thừa,sự đối lập và những nét mới của các tư tưởng trị quốc là một bức
tranh sinh động nhiều màu sắc, có những gam màu sáng tối khác nhau,có cả
những điểm tích cực và hạn chế Song chính sự đa dạng trong các tư tưởng ấy là
động lực,là hành trang cho sự phát triển, tạo nên sự đấu tranh và ngày càng hoàn
thiện hơn trong đời sống chính trị-xã hội,trong tư tưởng trị quốc đương thời.
-Ngày nay,tuy đã lùi sâu vào quá khứ,nhường chổ cho một xã hội hiện đại biến
đổi không ngừng,nhưng đâu đó những triết lý trị quốc,cách đối nhân xử thế vẫn
len lõi trong tầng lớp nhân dân và các chuẩn mực đạo đức,những tư tưởng trị
quốc trong các tư tưởng triết học ấy vẫn còn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
đời sống xã hội ngày nay.
23
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74
GVHD : TS BÙI VĂN MƯA Đề Tài : QUAN ĐIỂM TRỊ QUỐC CỦA CÁC
NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. - Triết học Mác- Lênin (Đề cương bài giảng & hướng dẫn ôn tập), Nxb
thống kê, 2002
2. - Triết học, phần I, đại cương về lịch sử triết học (dùng cho học viên cao
học & nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), trường đại
học kinh tế Tp. Hcm, 2010
3. . Triết học Phần I Đại cương về Lích sử Triết học - TS. Bùi Văn Mưa
(chủ biên), 2010
4. Triết học và Bức tranh VẬt lý học về Thế giới- TS. Bùi VĂn Mưa - NXB
Đại học Quốc gia TPHCM 2008
5. Dương Thành Lợi: Triết Lý Quốc Trị Ðông Phương
6.
cat=48&id=344&pcat=&vientriet=articles_deltails
7.
8. />24
SVTH : Nguyễn Việt Phong – K20 – ĐÊM 1 - NHÓM 5 – STT 74