Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

TIỂU LUẬN Đề tài SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.8 KB, 31 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
HVTH : PHAN NGUYÊN VIỆT
STT : 138
NHÓM : NHÓM 8
LỚP : CAO HỌC ĐÊM 1 - K20
GV : TS. BÙI VĂN MƯA
HCM, Tháng 5/2011
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
MỤC LỤC
Lời mở đầu 01
Chương 1: Tổng quan về triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ cổ đại 02
I. Khái quát triết học Hy Lạp cổ đại 02
1. Điều kiện ra đời 02
2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại 02
3. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại 02
4. Các tư tưởng, trường phái triết học Hy lạp cổ đại 03
4.1. Chủ nghĩa duy vật 03
4.2. Chủ nghĩa duy tâm 04
II. Khái quát triết học Ấn Độ cổ đại 05
1. Điều kiện ra đời 05
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại 05
3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại 05
4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại 06
Chương 2: So sánh triết học Hy Lạp cổ đại và Ai Cập cổ đại 08


A. Sự tương đồng của triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ cổ đại 08
1. Triết học chịu sự tác động từ điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội 08
2. Quan điểm xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên, sự ra đời của vạn vật 09
3. Cách nhận thức thế giới quan duy vật có tính biện chứng sâu sắc, xây
dựng nhũng phương pháp nhận thức logic

10
4. Triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ cổ đại có cả hai trường phái
duy vật và duy tâm
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại

11
5. Vấn đề con người trong triết học

11
B. Sự khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ cổ đại

11
1. Triết học Hy Lạp cổ đại

11
1.1Triết học gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên

11
1.2Triết học có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vậy – duy tâm, vô thần – hữu thần

12
1.3Triết học Hy Lạp cổ đại đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể
luận… từ đó xây dựng nhân sinh quan con người


13
1.4Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tách chủ thể với khách thể để nhận
xét khách quan

14
1.5Triết học Hy Lạp cổ đại ngã về tư duy duy lý

15
1.6Triết học Hy Lạp cổ đại có sự đấu tranh giữa các trường phái mang
tính chất quyết liệt, triệt để, có sự phát triển về chất khá rõ rệt
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại

16
2. Triết học Ấn Độ cổ đại

17
2.1 Triết học chịu sử ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng tôn giáo

17
2.2 Triết học có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình

18
2.3 Triết học Ấn Độ cổ đại lấy nhân sinh quan làm gốc, đặc biệt là vấn
đề luân hồi, nghiệp báo, sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận

20
2.4 Triết học Ấn Độ cổ đại nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan
hệ giữa con người và vũ trị theo nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”


21
2.5 Triết học Ấn Độ cổ đại ngã về cách tư duy trực giác

22
2.6 Triết học Ấn Độ cổ đại thường tôn trọng và có khuynh hướng phục
cổ, không có những bước nhảy vọt về chất

22
Kết luận

24
Tài liệu tham khảo
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại

26
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Khi nhắc đến khởi nguyên tiềm tàng của nền triết học nhân loại chúng ta
không thể không nói đến hai nền triết học lớn của thế giới, đó chính là triết học
Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Có thể nói Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại là
những cái nôi của triết học thế giới, là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao
hưởng, bản hợp xướng của triết học, làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống triết học
thế giới sau này. Nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các
vấn đề cơ bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác từng bước
giải quyết theo nội dung của thời đại mình Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại
đã đặt ra và giải quyết những vấn đề của tư duy triết học. Việc tìm hiểu sự tương
đồng và khác nhau của triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại giúp chúng ta có
khái niệm gần như hoàn chỉnh về triết học phương Tây và triết học phương

Đông, những ảnh hưởng của nó đến thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, từ
đó chúng ta biết cách vận dụng những tinh hoa của hai nền triết học này, nâng
cao khả năng tư duy, nhận thức thế giới, con người và xã hội. Vì vậy, việc tìm
hiểu sự tương đồng và khác biệt của hai nền triết học này là vấn đề cần thiết, rất
cấp bách trong điều kiện thế giới đổi thay nhanh chóng như hiện nay. Đó cũng
chính là lý do chúng tôi chọn đề tài này làm đề tài tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu::
Bài viết không chỉ nêu lên hoàn cảnh ra đời, đặc điểm, những tư tưởng
cùng những trường phái của hai nền triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại, mà
mục đích chính của bài viết là làm rõ nét được những tương đồng và khác biệt
giữa hai nền triết học cổ đại này.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết hình thành trên cơ sở phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương
pháp phân tích tổng hợp và so sánh các nguồn tư liệu tham khảo với nhau để có
được kết quả chính xác nhất, tránh cách nhìn phiến diện.
1
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ
ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Điều kiện ra đời:
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu
dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo ra cơ sở
cho sự phân hóa lao động và đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân
tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành tầng lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng
hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học và khoa học. Như vậy, có thể thấy
rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu - đó là kết quả nội sinh
của cả một dân tộc, một thời đại.
2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại

Triết học Hy Lạp cổ đại trải qua 3 giai đọan: Giai đoạn hình thành, giai
đoạn cực thịnh và giai đoạn suy tàn. Trong đó sự đấu tranh giữa hai khuynh
hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm của giai đoạn cực thịnh đã
để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
3. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
 Thứ nhất: thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của
giaicấp chủ nô thống trị.
 Thứ hai: Có sự phân chia và sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường
phái duy vật - duy tâm, vô thần - hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính
trị - tư tưởng.
 Thứ ba: đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác.Các nhà triết học Hy
Lạp cổ là “những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép
biện chứng để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý.
 Thứ tư: gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết
về các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một
2
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tại xảy ra trong nó.
 Thứ năm: coi trọng vấn đề về con người. Dù còn có nhiều bất đồng, song
nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của
tạo hóa.
4. Các tư tưởng, trường phái triết học Hy lạp cổ đại
4.1. Chủ nghĩa duy vật:
4.1.1 Trường phái Milet: Đóng góp chính quan trọng nhất của trường
phái Milet này là đã được đặt nền móng cho sự hình thành các khái niệm đó như
khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú
thêm những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập
4.1.2. Trường phái Héraclite: Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các
phán đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà

sau này Marx đã đề cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng
góp của triết học Héraclite vào tư tưởng của nhân loại.
4.1.3 Trường phái đa nguyên Empédocle – Anaxago: Để giải thích tính
đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật, Empédocle và Anaxago
cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sự phát minh của các trường phái Milet,
trường phái Héraclite, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới
vật chất đa dạng. Tuy nhiên quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, còn
hạn chế.
4.1.4 Trường phái nguyên tử luận Leucippe – Démocrite: là một hệ
thống quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán, trường phái nguyên tử làm cho chủ
nghĩa duy vật đạt được đỉnh cao. Nó xung đột mạnh với chủ nghĩa duy tâm của
Xocrat Platong sau này.
 Quan điểm về nhận thức- đạo đức:
Quy nạp là phương pháp nhận thức đúng đắn. Hiểu biết là cơ sở của hành
vi đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình, không
hại người.
3
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
 Quan điểm về chính trị - xã hội:
Xã hội tốt nhất được cai trị bởi nhà nước dân chủ chủ nô. Quản lý nhà
nước là một nghệ thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang, tự do và dân chủ cho
con người.
4.2 Chủ nghĩa duy tâm:
4.2.1 Trường phái Pytago: Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng
“con số” là bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Chính trường phái
Pytago đã đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học
Hy Lạp.
4.2.2 Trường phái Êle: Do Xenophan thành lập trên tinh thần duy vật,
nhưng sau đó được Pacmenit phát triển theo hướng duy lý ngã về duy tâm.
4.2.3 Trường phái duy tâm khách quan của Xocrat – Platong: do

Xocrat đặt nền móng và Platong, học trò của ông hoàn thiện.
Xocrat: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở
của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; chỉ có cái thiện mới là cơ sở của
đạo đức, tiêu chuẩn của đức hạnh.
Platong: xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là
“thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều
tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.Quan điểm chính trị - xã hội
của Platong đầy mâu thuẫn và bảo thủ. Ông vừa đòi hỏi xóa bỏ tư hữu, lại vừa
đòi bảo vệ chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi xây
dựng nhà nước cộng hòa lý tưởng, lại vừa bảo vệ địa vị và lợi ích của chủ nô quý
tộc.
4.2.4 Triết học nhị nguyên của Arixtốt: Arixtốt là người tổng kết Triết
học Hy Lạp cổ đại, người đặt nền móng vững chắc cho chủ nghĩa duy lý, góp
phần thúc đẩy lý trí Hy Lạp nảy nở, khoa học và văn minh phương Tây phát
triển.
 Quan niệm về sinh thể, con người, linh hồn và nhận thức:
Sinh thể (cả con người) đều có thể xác và linh hồn. Con người là sinh thể có
4
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
lý trí, luôn khát vọng nhận thức, bản chất con người sinh ra là để nhận thức.
Nhận thức là hoạt động bản tính của linh hồn, nhưng khi con người mới sinh
ra, linh hồn như một tấm bảng trắng.
 Quan điểm về đạo đức, chính trị - xã hội:
Xã hội tốt nhất phải dựa trên chế độ cộng hòa quý tộc, do chủ nô trung lưu
lãnh đạo.Công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng xã hội và
bình đẳng giữa các cá nhân…
Lý trí, lẽ phải là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh.
II. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Điều kiện ra đời
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội:

Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông thôn, toàn bộ
ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, sự phân chia đẳng cấp hết sức khắc
nghiệt. Xã hội có 4 đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Bà la môn), đẳng cấp quý tộc, đẳng
cấp bình dân tự do, đẳng cấp nô lệ. Xã hội Ấn Độ có nhiều tôn giáo: Đạo Ấn
(Thờ bò) (HinDu), Đạo Hồi (không ăn thịt heo), Đạo Thiên chúa, Đạo Cơ Đốc.
1.2. Điều kiện về khoa học và văn hóa:
Về tri thức khoa học, người Ấn Độ đã có những tri thức rất sớm và phong
phú về nhiều lĩnh vực như: thiên văn, lịch pháp, toàn học, y học, nông nghiệp,
kiến trúc…
Nền văn hóa Ấn Độ mang đậm nét tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh có pha
trộn sự thần bí.
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học thời kỳ Véđa (khoảng thế kỷ XV đến VIII TCN): thời kỳ này tập
trung phản ánh ước vọng của người dân thường như mong mưa thuận gió hòa,
mong có thức ăn, có gia súc ; đồng thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và
đa thần giáo, chưa có những khái quát triết học. Tuy nhiên qua các tập Véđa đã
thể hiện sự phát triển của tư duy trừu tượng trong đó người ta đã thừa nhận một
nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh
5
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
thần và các nghi lễ.
Triết học thời kỳ cổ điển hay thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (khoảng thế kỷ
VI TCN đến thế kỷ VI): được hình thành và phát triển trong truyền thống Vêđa
nhưng các trường phái triết học Ấn Độ lại sung đột lẫn nhau
3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
 Thứ nhất: triết học Ấn Độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không
mang tính cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống
triết học có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống
triết học mới. Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội Ấn Độ cổ đại.
 Thứ hai: triết học Ấn Độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở

tín ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
 Thứ ba: các hệ thống triết học - tôn giáo ở Ấn Độ cổ đại đều quan tâm tới
vấn đề nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại
4.1. Tư tưởng triết học trong Upanisát: Sự xuất hiện của Upanishad đánh
dấu bước chuyển tiếp từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học.
Tư tưởng đó được thể hiện trong các vấn đề chủ yếu sau: Brátman (đại ngã),
Átman (tiểu ngã), giải thoát và thực trạng giải thoát.
4.2. Trường phái triết học chính thống: Trường phái Vêđanta. Samkhya,
Yoga, Mimansa, Nyaya, Vaisêsika:
Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt
nơi mỗi người thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi
vào vòng ám muội của thế giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không
giữ được bản lai thanh tịnh của mình.
Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ bái, tích lũy khổ
hạnh hay tin tưởng vào sự cứu rỗi của đấng tối cao. Đối với họ, phương pháp đưa
đến sự giải thoát là phải chế dục theo pháp Yoga, diệt trừ nghiệp lực và phải thấu
triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ. Nếu thực hiện được như thế thì linh hồn cá
biệt mới đạt đến sự giải thoát hoàn toàn.
6
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
4.3. Hệ thống triết học không chính thống
4.3.1 Triết phái Jaina (Kỳ na giáo): Trường phái này mang đượm màu
sắc tôn giáo, ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.
4.3.2 Triết phái Lokayata (hay còn gọi là Carvaka): Triết học Lokayata
mang tính chủ nghĩa duy vật và vô thần tương đối triệt để, nhưng chỉ tồn tại trong
một thời gian tương đối ngắn.Nó được trình bày trong chính kinh Veda, trong các
sử thi và cả trong kinh sách của Phật giáo. Thuyết ấy tuyên bố rằng chỉ có thể
biết là hiện hữu những gì ta tri giác được. Không có thế giới bên kia: chết là hết.
Niềm tin vào những cái như thế bị xem là tưởng tượng kỳ quái. Không có bằng

chứng hợp lý luận cho tính khả thi của cái không thể thấy; không thể dùng sự suy
ra như một nguồn có giá trị của tri thức mới vì không thể chứng minh nó một
cách vô điều kiện.
4.3.3 Triết phái Budđhsam (Phật giáo): Là một trường phái triết học tôn
giáo lớn của Ấn Độ cổ đại. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo Ấn độ
cổ đại được thể hiện: thế giới quan (phản ánh trong ba pham trù: vô ngã, vô
thường, duyên khởi ) và nhân sinh quan tập trung vào tứ diệu (4 chân lý tuyệt
diệu): khổ đế, nhân đế, diệt đế, đạo đế.
7
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
CHƯƠNG 2: SO SÁNH TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
VÀ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
A. SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT
HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Triết học chịu sự tác động từ điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội
Triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại cùng ra đời dựa trên những
thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực văn hóa, khoa học tự nhiên và chịu sự chi phối
của các yếu tố điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội hết sức sâu sắc. Tuy Hy Lạp và
Ấn Độ cổ đại có điều kiện tự nhiên và lịch sử không giống nhau nhưng tất cả
điều ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và sự phát triển của Triết học.
Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại đều là những quốc gia có điều kiện tự
nhiên phong phú, đa dạng. Yếu tố này đã góp phần hình thành nền văn minh lớn
với những nét đặc trưng về văn hóa, khoa học và lịch sử, xã hội.
Nếu như Hy Lạp là một quốc gia được hình thành trên cở sở điều kiện khí
hậu ôn hòa, diện tích rộng lớn bao gồm miền Nam bán đảo Bancăng, miền ven
biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở Êgiê, chính nhờ điều kiện tự nhiên
thuận lợi mà Hy Lạp cổ đại đã sớm hình thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có
một nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú thì
Ấn Độ cổ đại là một quốc gia rộng lớn thuộc bán đảo Nam Á có điều kiện tự
nhiên và dân cư rất đa dạng, Ấn Độ có hai con sông lớn chảy qua, đó là sông Ấn

ở phía Tây và sông Hằng ở phía Đông, chúng tạo nên hai đồng bằng màu mỡ -
cái nôi của nền văn minh cổ Ấn Độ. Từ trong nền văn minh sông Ấn của người
bản địa Đraviđa xa xưa, nhà nước Ấn Độ cổ đã xuất hiện, nông nghiệp, thủ công,
thương nghiệp đã hình thành.
Bên cạnh đó, cả hai nền triết học này cùng ra đời và trong bối cảnh xã hội
có sự phân chia giai cấp hết sức khắc nghiệt và dai dẳng và chịu ảnh hưởng rất
lớn bởi các tiến trình xã hội.
Tại Hy Lạp cổ đại, chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo cơ sở cho sự phân hóa
lao động và đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều này thúc
8
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
đẩy sự hình thành tầng lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng hiểu quả tư duy lý
luận để nghiên cứu triết học và khoa học, vì vậy triết học đã ra đời và phát triển
hết sức mạnh mẽ.
Trong khi đó, Ấn độ trải qua nhiều thời kỳ bị xung đột, chia cắt bởi nhiều
quốc gia và các dân tộc, tạo nên sự da dạng của đủ loại hình tôn giáo, từ mê tín
sâu sắc, với những lý thuyết trái ngược nhau và các vị thánh, khất sĩ, ẩn sĩ, hiền
giả và người vô tín ngưỡng. Vào khoảng thế kỷ XV TCN, các bộ lạc du mục
Arya ở Trung Á đã xâm nhập vào Ấn Độ. Họ định canh, định cư và tiến hành quá
trình nô dịch, đồng hóa, hỗn chủng. Kinh tế tiểu nông nghiệp kết hợp với thủ
công nghiệp mang tính tự cung tự cấp đã tạo nền tảng vững chắc cho các công xã
nông thôn ra đời và sớm được khẳng định. Mô hình công xã nông thôn đã hình
thành bốn đẳng cấp: tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và tiện nô hết sức khắc
nghiệt và dai dẳng. Sự phân biệt về đẳng cấp đã tạo ra những xung đột ngấm
ngầm trong xã hội, tôn giáo bao trùm mọi mặt đời sống xã hội, con người sống
nặng về tâm linh và khao khát được giải thoát. Chính từ yếu tố này, triết học Ấn
Độ cổ đại đã ra đời với những ý tưởng triết học khởi nguyên thấm đẫm tính thần
thoại, phát triển từ tư tưởng đa thần đến đơn thần, được thể hiện trong các kinh
sách cổ và giáo lý tôn giáo.
2. Quan điểm xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên, sự ra đời của vạn vật

Triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại nghiên cứu về con người, đạo
đức nhân sinh quan, đặt vai trò của con người lên hàng đầu nhưng vẫn chưa tách
rời được yếu tố thần linh ra khỏi ý thức của con người.
Hai nền triết học đều có những trường phái chịu ảnh hưởng của tư tưởng
thần thánh, tôn giáo. Quan điểm là linh hồn con người tồn tại và trải qua luân hồi.
Thế giới tự nhiên là do thần thánh sáng tạo, sắp xếp, có nguồn gốc thần bí.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, trường phái duy tâm của Pytago ủng hộ
quan điểm duy tâm – tôn giáo của phương đông, coi linh hồn tồn tại bất tử, độc
lập với thể xác và chịu luân hồi. Trường phái Xôcrát-Platông cho rằng hiện tượng
tự nhiên do thần thánh sáng tạo và an bài. Ý niệm của Platông là lý tính, tồn tại
9
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
trên trời, chân thực tuyệt đối. Thế giới sự vật là sự sao chép của ý niệm, sinh ra từ
ý niệm, do thần tạo hóa mô phỏng từ ý niệm. Linh hồn vũ trụ là thần linh, tồn tại
dưới dạng các tinh tú, và chỉ được nhận thức bằng linh hồn vũ trụ của con người.
Con người bao gồm thể xác khả tử và linh hồn bất tử.
Trường phái Upanisat của nền triết học Ấn Độ cổ đại với khái niệm đại
ngã, tiểu ngã dựa trên ý niệm thần thánh hóa căn nguyên vạn vật, xem đại ngã là
linh hồn vũ trụ, sinh ra vạn vật, tiểu ngã là linh hồn con người, biểu hiện cụ thể
của đại ngã, chịu luân hồi báo ứng. Đến trường phái Vêđanta tiếp tục thừa nhận
sự tồn tại của đại ngã và tiểu ngã, khuyến khích giải thoát tiểu ngã khỏi vây hãm
thể xác, quay về với đại ngã.
Hai nền triết học đều có những trường phái cho rằng thế giới tạo thành từ
vật chất, không tồn tại thần thánh.Đó là những trường phái của Hy Lạp cổ đại
như: Trường phái duy vật cho rằng khởi nguyên vũ trụ hình thành bởi các yếu tố
vật chất. Talet cho rằng nước là khởi nguyên của sự vật. Heraclit cho rằng lửa tạo
ra van vật. Êmpêđốc nhận định vạn vật tạo bởi đất nước, không khí, kết hợp với
lực tình yêu và hận thù.Thuyết nguyên tử luận của Lơxíp – Đêmôcrit nhận định
vũ trụ được cấu thành từ nguyên tử và chân không. Nguyên tử tụ lại hình thành
sự vật, tan rã thì sự vật mất. Không có thần thánh sáng tạo ra sự vật.

Hay những trường phái triết học khác của Ấn Độ cổ đại cũng quan niệm
trên: Trường phái Nyaga với thuyết nguyên tử luận, cho rằng thế giới vật chất
được cấu thành từ các nguyên tử kết hợp lại; trường phái Vaisêsika cũng ủng hộ
thuyết nguyên tử luận; phái Lokayata xem sự vật kết thành bởi tứ đại bao gồm
đất, nước, gió, lửa.
3. Cách nhận thức thế giới quan duy vật có tính biện chứng sâu sắc,
xâydựng những phương pháp nhận thức logic:
Trường phái nguyên tử luận Lơxíp – Đêmôcrít của triết học Hy Lạp cổ đại
đã củng cố, bảo vệ học thuyết nguyên tử với những nhận thực về thế giới quan
hết sức sâu sắc và tiến bộ mặc dù còn nhiều hạn chế. Theo Đêmôcrít thì vũ trụ
được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử và chân không. Đêmôcrit
10
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
cũng tiến hành xây dựng những phương pháp nhận thức logic học như quy nạp,
so sánh, giả thuyết, định nghĩa.
Bên cạnh đó thì trường phái Nyaga và Vaisêsika của triết học Ấn Độ cổ
đại cũng cho rằng nguyên tử là bản nguyên duy nhất tạo nên vạn vật trong thế
giới và cũng xây dựng phương thực logic học cho trường phái của mình.
4. Triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ cổ đại có cả hai trường
phái duy vật và duy tâm :
Triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn độ cổ đại đều có cả hai trường phái
duy vật và duy tâm với những đại diện tiêu biểu của mình.
Triết học Hy Lạp cổ đại: Duy vật : Talet,Anaximen,Hecraclit,Democrit,…
còn duy tâm : Pitago,Pacmenic,Xocrat ,Platong,…
Triết học Ấn độ cổ đại: Duy vật: Gaimini,Gotama,Kanada, còn duy tâm:
Upanisad(bratman,atman).
5. Vấn đề con người trong triết học:
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển cả hai nền triết học đều thể hiện mối
quan tâm đến con người.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về

con người, cố lý giải mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức –
chính trị - xã hội của họ và khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo
hóa.
Trong khi đó triết học Ấn Độ rất quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề
nhân sinh (bản chất, ý nghĩa cua đời sống, nguồn gốc nỗi khổ của con người)
nhằm tìm kiếm phương tiện, con đường, cách thức giải thoát chúng sinh ra khỏi
điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội khắc nghiệt.
B. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀTRIẾT HỌC
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Triết học Hy Lạp cổ đại
1.1. Triết học gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên:
11
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng
hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới
như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó.
Do trình độ tư duy lý luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ
mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó nghiên cứu tự
nhiên trong tổng thể để dựng nên bức tranh tổng quát về thế giới. Vì vậy, các nhà
triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện
tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học.
Sự xuất hiện của những trí thức khoa học và triết học trong thời kỳ này đã
tạo nên một bước ngoặc lớn về nhận thức của con người, phá vỡ ý thức hệ thần
thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất,
những tri thức về khoa học tự nhiên phát triển mạnh, được trình bày trong hệ
thống triết học - tự nhiên của các nhà triết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học thời
bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà Toán
học, nhà Vật lý học như Talét, Pytago, Ácximét, Ơclít, Từ các yếu tố đó có thể
khẳng định rằng, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với
nhu cầu thực tiễn và gắn với khoa học.

Hy Lạp cho rằng triết học là sự ham hiểu biết, yêu thích sự thông thái
(philosophia). Triết học được coi như “người mẹ” của các ngành khoa học, “triết
học là khoa học của mọi khoa học”. Triết học mang lại cho chúng ta năng lực
hiểu biết, “người mẹ” đó nuôi “con” bằng tư duy lý luận, vì nếu không có tư duy
lý luận nhà khoa học không thể trở thành nhà khoa học đúng nghĩa.
1.2. Triết học có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường
phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần
Triết học Hy Lạp cổ đại đã giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học và
chia ra thành các trường phái khác nhau: trường phái nhất nguyên (duy vật, duy
tâm) và trường phái nhị nguyên, thậm chí còn chia ra những nhà vô thần và hữu
thần, gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng, trong đó điển hình là cuộc
đấu tranh giữa trào lưu triết học duy vật của Đêmôcrit và trào lưu triết học duy
12
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
tâm của Platông. Hai học thuyết đó ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống phương
Tây. Có thể nói triết học Hy Lạp cổ đại rất nhất quán, kiên định một quan điểm,
một lập trường.
Ba nhà triết học duy vật thuộc trường phái Mi-lê (tên một đô thị cổ Hy
Lạp) là Talét, Anaximăngđrơ và Anaximen cho rằng có những thực thể vật chất
đầu tiên, vĩnh viễn vận động tạo ra mọi vật trên thế giới. Theo Talét đó là nước,
theo Anaximăngđrơ đó là một thực thể vô định và vô hạn, theo Anaximen đó là
không khí. Hêraclít không thuộc trường phái nói trên, ông cũng cho rằng bản
nguyên của vũ trụ là lửa, lửa thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sinh
ra vạn vật.
Ngược lại, một số nhà triết học thuộc trường phái Êlê (tên một đô thị cổ ở
miền nam nước Ý) như Xênôphan, Pácmênít, Dênông và trường phái Pitago lại
có những quan điểm duy tâm, siêu hình về nguồn gốc vũ trụ. Họ cho rằng, thế
giới là một tồn tại bất động và bất biến (trường phái Êlê), con số là bản nguyên
của vũ trụ (trường phái Pitago).
Đối lập lại chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy tâm khách quan của Platôn.

Ông là đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại Hy Lạp. Ông đã xây
dựng học thuyết về ý niệm để chống lại chủ nghĩa duy vật. Theo ông, giới tự
nhiên bắt nguồn từ ý niệm.
Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của
Platôn là Arixtốt. Ông là một nhà triết học lớn, bộ óc bách khoa thời cổ đại Hy
Lạp - La Mã, nhưng là một nhà triết học không triệt để. Một mặt, ông bác bỏ
thuyết ý niệm của Platôn; mặt khác ông lại chủ trương hình thức là bản chất của
mọi sự vật, mà hình thức của mọi hình thức là tư duy (hình thức thuần tuý).
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử
triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng tỏ rằng, ngay từ đầu, lịch sử triết học là lịch
sử đấu tranh giữa hai thế giới quan, hai phương pháp luận đối lập nhau. Cuộc đấu
tranh ấy phản ánh lợi ích của những tầng lớp, những giai cấp khác nhau trong xã
hội có giai cấp đối kháng.
13
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
1.3. Triết học Hy Lạp cổ đại đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể
luận…từ đó xây dựng nhân sinh quan con người
Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có khuynh hướng chung là suy tư về
bản chất và khởi thuỷ của thế giới. Họ lấy một thực thể bản nguyên tượng trưng
làm nguồn gốc của tất cả mọi vật. Chẳng hạn đối với Talet đó là nước, đối với
Anaximăngđrơ đó là cái vô hạn bất định, đối với Anaxago đó là tinh thần. Pytago
tìm cái chìa khoá phổ quát của hiện thực trong các con số, Pacmênic cho rằng
bản chất của thực thể nằm trong tồn tại; Lơxip và Đêmôcrit phỏng đoán mọi sự
vật đều được tạo thành từ những nguyên tử, là những phần tử nhỏ nhất, không
thể phân chia được nữa và số lượng của chúng là vô hạn. Hêraclit đưa ra quan
niệm mọi sự vật của thế giới luôn thay đổi, sự kết hợp của các yếu tố vật chất là
vô hạn, vì vậy cái bất biến trong thế giới chỉ có thể được thừa nhận chính là sự
biến đổi, chuyển hoá vĩnh hằng đó.
Từ thế giới quan, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại mới đi đến vấn đề nhân
sinh quan, đạo đức, xã hội. Các nhà ngụy biện thì thiên về cá nhân hơn, đã nhiệt

thành với việc giáo dục các nhà lãnh đạo, những người sẽ gây ảnh hưởng xã hội
và sử dụng xã hội như là phương tiện để đạt các mục đích riêng của mình. Mỗi
con người là thước đo sự vật cho mình, không phải chỉ sự vật được nhận thức,
mà cả sự vật thuộc thiện, ác trong xã hội. Platông và Xôcrat chống lại "chủ nghĩa
cá nhân" và "chủ nghĩa tương đối" cực đoan này của các nhà ngụy biện. Con
người, thước đo sự vật, không phải là cá nhân riêng biệt mà là phổ quát. Cấu trúc
xã hội và cấu trúc linh hồn (hay tự ngã) của con người phản ảnh lẫn nhau và phụ
thuộc lẫn nhau. Bản chất của con người là lý trí và được tìm thấy trong một xã
hội được xếp đặt theo trật tự duy lý. Cái tư tưởng hiện đại cho rằng cá nhân
không thể tách khỏi xã hội và "nhân tính" là hình thành do xã hội và phát triển
trong xã hội, tư tưởng đó không lớn mạnh trong tư tưởng Hy Lạp Xôcrat và
Platông thì chỉ rõ xã hội là sự phóng rọi của bản chất con người trên tấm vải thô
lớn, hay là sự phản ánh được khuếch đại của bản chất con người. Con người chỉ
thực sự sống trong xã hội, không thể sống ngoài xã hội Arixtốt, một nhà duy
14
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
lý, chấp nhận các nguyên lý chính yếu của Platông “Con người không thể là con
người nếu không có xã hội "
1.4. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tách chủ thể với khách thể để nhận
xét khách quan
Các nhà triết học Hy Lạp đã nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi
con người là chủ thể để nghiên cứu, chinh phục vũ trụ - thế giới khách quan. Đặt
trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người
chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên triết học Hy Lạp cổ
đại thể hiện đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Platông đã chia thế giới thành thế giới ý niệm (lý tính, tồn tại trên trời,
mang tính phổ biến, chân thực tuyệt đối, bất biến, vĩnh hằng, duy nhất…) và thế
giới sự vật (cảm tính, tồn tại dưới đất, mang tính cá biệt, ảo giả, tương đối, khả
biến, thoáng qua, đa tạp…). Bằng thuyết ý niệm này, ông đã lý giải sự sinh thành
của thế giới sự vật, con người và hoạt động của linh hồn…

1.5. Triết học Hy Lạpcổđại ngã về tư duy duy lý
Triết học Hy Lạp ngã về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ. Thế mạnh của
Hy Lạp là khoa học, kỹ thuật và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân
lý vô hạn cùng. mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm, quy
luật của Triết học Hy Lạp, đi gần toàn thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất
thấp đến mức độ bản chất cao hơn cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hóa,
cách ly hoá, làm mất đi tính tổng thể.
Triết học Hy Lạp có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức
cho khách quan. Phương tiện nhận thức của triết học Hy Lạp là khái niệm, mệnh
đề, biểu thức lôgíc để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn.
Triết học Hy Lạp nghiêng về sự đấu tranh và vận động, phát triển theo
hướng đi lên. Một nét nữa của triết học Hy Lạp thiên về hướng ngoại, chủ động,
tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu chiến, cạnh tranh, bành trướng, cá thể,
phân tích, tri thức suy luận, khoa học, tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể
15
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
Các nhà triết học Hy Lạp đều đề cao tư duy lý tính. Chẳng hạn, Xênôphan
cho rằng nhận thức cảm tính nếu không sai lầm thì cũng không đầy đủ. Bằng cảm
tính chúng ta không thể nhận thức được bản chất sự vật. Muốn nhận thức được
bản chất sự vật phải dựa vào tư duy, lý tính. Và quan điểm duy lý này đã được
Pácmênít phát triển thành chủ nghĩa duy lý. Pácmênít cho rằng bản chất của sự
tồn tại là bất biến, vĩnh hằng, đơn nhất và tồn tại – bản chất của vạn vật chỉ có thể
được nhận thức bởi tư duy lý tính.
1.6. Triết học Hy Lạp cổ đại có sự đấu tranh giữa các trường phái mang
tính chất quyết liệt, triệt để, có sự phát triển về chất khá rõ rệt
Triết học Hy Lạp thay đổi theo hướng nhảy vọt về chất, nên càng tiến hoá
càng phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau phủ định
hoàn toàn cái ở giai đoạn trước.
Mặc dù là học trò của Platông, nhưng Arixtốt đứng trên quan điểm duy vật
tiến bộ phê phán thuyết ý niệm của Platông. Về mặt bản thể luận, ông cho rằng

việc Platông chia thế giới thành thế giới ý niệm và thế giới sự vật là hoàn toàn
thiếu cơ sở. Về mặt nhận thức luận, ông bác bỏ hoàn toàn quan niệm Platông cho
rằng ý niệm là cái có trước và độc lập so với sự vật, theo Arixtốt điều này là vô
dụng ngược đời. Theo ông, bản chất phải nằm ngay bên trong sự vật và phải
được nhận thức của con người khái quát thành cái chung dưới dạng khái niệm,
quy luật, phạm trù. Khái niệm, quy luật, phạm trù không phải là cái có trước, sinh
ra và quyết định sự tồn tại của sự vật mà ngược lại sự tồn tại sự vật được phản
ánh trong khái niệm, quy luật, phạm trù của nhận thức.
Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các trường phái cũ lại có những
trường phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường
phái Talét, Hêraclit đến Đêmôcrit. Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại có thể chia
làm ba thời kỳ. Xuyên suốt ba thời kỳ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh giữa đường lối duy vật
của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platông.
16
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
Theo khuynh hướng duy vật. Empêđốc cho rằng, bản nguyên của vũ trụ
không phải chỉ là một thực thể riêng biệt (như trường phái Milê) mà gồm 4 thực
thể: đất, nước, lửa, không khí. Anaxago lại cho rằng, mọi vật đều được cấu tạo từ
hạt cực nhỏ nhờ quá trình phân giải và đồng nhất của chúng. Đạt tới đỉnh cao
nhất của chủ nghĩa duy vật thời kì này là học thuyết về nguyên tử của Đêmôcrít.
Theo ông, tất cả mọi vật đều được cấu thành từ những nguyên tử. Nguyên tử là
những phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được, chúng vĩnh viễn vận
động, không có điểm kết thúc.
2. Triết học Ấn Độ cổ đại
2.1. Triết học chịu sự ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng tôn giáo:
Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín
ngưỡng tôn giáo. Do đó, triết học Ấn Độ cổ đại là một nền triết học chịu ảnh
hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo và là một bộ phận lý luận quan trọng tạo
nên giáo lý của các tôn giáo lớn. Giữa triết học và tôn giáo rất khó phân biệt. Tư

tưởng triết học ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua các bộ kinh
Vêđa, Upanisát.
Ấn Độ cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ với hai hệ thống triết học, là hệ
thống chính thống và hệ thống không chính thống dựa trên cơ sở thái độ đối với
kinh Vêđa. Thực tế kinh Vêđa không phải là thiên khải, cũng không do một nhân
vật nào đó sáng tác. Nó là một bộ sách thần thoại diễn ca truyền khẩu được sáng
tác trong một thời gian dài 1000 năm và sau đó được ghi lại thành giáo lý của đạo
Balamon, thâu lượm tất cả các câu ca dao, vịnh phú về sự giàu đẹp, hùng vĩ của
thiên nhiên Ấn Độ, về những tập tục nghi lễ, quan điểm tư tưởng và những bài
thánh ca cầu nguyện các đấng thần linh của người Arya.
Người Ấn Độ cổ tin và giải thích rằng trong vũ trụ tồn tại đồng thời 3 thế
lực liên quan nhau là thần linh, con người và ác quỷ ứng với 3 cõi vũ trụ bao la là
thiên giới, trần thế và địa ngục. Họ đã phân tích các hiện tượng tự nhiên và lý
giải chúng qua biểu tượng của thế giới thần linh phong phú, chia nhau chi phối
sự biến hóa của vũ trụ vạn vật theo sự điều khiển của nguyên lý rita (chân xác,
17
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
thích hợp, trật tự vận hành vũ trụ), “Toàn thể vũ trụ được thành lập trên nguyên
lý rita và vận hành trong nó”.
Do đó, người Ấn Độ cổ đại rất sùng bái, tín ngưỡng, cầu nguyện và hiến
tế. Triết học của họ bênh vực và đề cao tầng lớp tăng lữ “ Vì sự phồn vinh của
thế giới mà từ mồm, tay, đùi và bàn chân mình, Ngài (Bratman) đã tạo ra tăng lữ,
quý tộc, bình dân tự do và nô lệ”, “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của
Bratman, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết Vêđa mà tăng lữ có quyền làm chúa tể
của các tạo vật ấy” (Luật Manu).
Tuy Jaina giáo và Phật giáo thuộc hệ thống không chính thống nhưng
cũng đều thể hiện quan điểm điểm duy tâm, thần bí. Về thế giới tự nhiên, bằng sự
phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không thể tìm ra một nguyên nhân đầu
tiên cho vũ trụ, có nghĩa là phủ nhận đấng tối cao Bratman sáng tạo ra vũ trụ và
phủ nhận luôn atman nghĩa là không có tôi, và quan điểm “vô thường”.

Tôn giáo Ấn Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội”, đi sâu tìm hiểu đời sống
tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn cá nhân con người vì
vậy, triết học Ấn Độ cổ đại mang nặng tính chất duy tâm, chủ quan, thần bí.
Triết học Ấn Độ cổ đại coi linh hồn vũ trụ là thực tại tinh thần tối cao, là
bản chất, là nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự sinh thành và
hủy diệt của mọi cái trong thế giới, còn linh hồn cá nhân bị vây hãm, rang buộc
bởi những ham muốn nhục dục của thể xác. Con người phải dốc lòng tu luyện ,
chiêm nghiệm tâm linh để nhận ra bản tính thần thánh của mình mà quay về với
linh hồn vũ trụ. Xuất phát từ những đòi hỏi và hiện thực xã hội, các nhà triết học
Ấn Độ cổ đại là những nhà hiền triết, nhà tôn giáo, nhà giáo dục, đạo đức, chính
trị - xã hội, thiên về cải tạo thế giới, giải thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội khắc nghiệt.
2.2. Triết học có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
giữa phép biện chứng và phép siêu hình:
Do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại không
thể phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép biện
18
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
chứng và phép siêu hình mà chủ yếu được chia thành hệ thống chính thống và hệ
thống không chính thống. Trong các trường phái triết học cụ thể luôn có sự đan
xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép
siêu hình.
Chẳng hạn như những nhà tư tưởng của phái Samkhya sơ kỳ bộc lộ những
tư tưởng có tính duy vật chứa ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ
đưa ra học thuyết về sự tồn tại của kết quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất
hiện và học thuyết về sự chuyển hóa thực tế của nguyên nhân trong kết quả. Họ
cho rằng loại nào có nguyên nhân của loại đó “Trồng Sali được Sali, trồng Vrihi
được Vrihi”. Từ đó mà trong quan niệm về sự hình thành sự vật, họ cho rằng nếu
vạn vật của thế giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật với tính cách là
nguyên nhân cũng là vật chất, đó là “vật chất đầu tiên” (Prakriti) một dạng vật

chất tiềm ẩn, không hình dạng, không giới hạn, không thể nhận biết được bằng
cảm tính. Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sativa (nhẹ nhàng,
thuần khiết), razas (tích cực, năng động), tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên ở
trạng thái cân bằng thì Prakriti ở trạng thái chưa biểu hiện, tức là trạng thái không
thể trực quan được. Nhưng khi sự cân bằng bị phá vỡ thì sự sinh thành vạn vật
của vũ trụ khởi đầu. Ngược lại, các nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có
khuynh hướng nhị nguyên luận khi thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố
đầu tiên là vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa). Yếu tố tinh thần (Purasa)
mang tính phổ quát, vĩnh hằng, bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng và biến
hóa vào yếu tố vật chất ở con người. Khi tinh thần chiếu rọi vào Sativa thì sinh ra
trí tuệ, khi tinh thần chiếu rọi vào razas thì sinh ra vận động, khi tinh thần chiếu
rọi vào tamas thì sinh ra hình thể.
Còn các nhà triết học Mimansa dựa vào tư tưởng triết học - tôn giáo của
Vêđa, nhưng coi Vêđa như các tập công thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa
sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của thần. Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng
cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác không nhận thức được thần. Nhưng cảm
giác lại được coi là nguồn gốc của mọi tri thức khác. Phái Mimansa không phản
19
Nhóm 8: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại
đối việc coi thần linh như cái tên hay âm thanh cần thiết cho các câu thần chú của
nghi lễ. Nghi lễ không phải là hành động khẩn cầu, sùng bái thần linh, mà nghi lễ
tự nó có sức mạnh, có thể đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như một hành động
ma thuật. Tuy nhiên, tinh thần duy vật và vô thần của phái Mimansa không được
tiếp tục phát triển. Những nhà triết học Mimansa hậu kỳ đã thừa nhận sự tồn tại
của thần.
Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế
giới được sinh ra từ các nguyên tử. Khi giải quyết mối quan hệ giữa tinh thần với
thể xác, họ lại đứng trên lập trường duy tâm coi tinh thần tồn tại mãi mãi, còn thể
xác thì mất đi. Hay trường phái Nyaya, Vaisesika với học thuyết nguyên tử luận,
cho rằng nguyên tử là bản nguyên duy nhất tạo nên vạn vật trong thế giới.

Nguyên tử là những hạt vật chất bé nhỏ, không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng,
khác nhau về chất lượng, khối lượng, hình dạng và cách thức kết hợp. Khi kết
hợp lại với nhau chúng tạo thành bốn thực thể vật lý là: đất, nước, gió và lửa. Các
thực thể này tồn tại trong một môi trường ête, trong không gian và thời gian. Khi
phối hợp với nhau thì chúng tạo nên vạn vật đa dạng nhưng nhất thời – thế giới
vật chất. Tuy nhiên, bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của nguyên tử, phái
Nyaya này còn thừa nhận sự tồn tại của linh hồn. Linh hồn thể hiện qua những
ước vọng. ý chí, vui buồn, giận hờn, chúng có thể tồn tại tự do nhưng cũng có thể
tồn tại trong trạng thái gắn kết vào nguyên tử.
Qua đó có thể thấy, trong triết học Ấn Độ cổ đại sự phân chia các trường
phái triết học chỉ có tính đại thể, còn khi đi sâu vào những nội dung cụ thể thì có
mặt duy vật, có mặt duy tâm, sơ kỳ là duy vật thì hậu kỳ là nhị nguyên hay duy
tâm. Điều đó thể hiện rõ sự thiếu nhất quán trong thế giới quan, sự thiếu triệt để
của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội Ấn Độ không mạch lạc như
phương Tây.
2.3. Triết học Ấn Độ cổ đại lấy nhân sinh quan làm gốc, đặc biệt là vấn đề
luân hồi, nghiệp báo, sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận:
20

×