Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN Đề tài SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.22 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 10
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA TRIẾT
HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ HY LẠP CỒ ĐẠI
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Trần Ngọc Vũ
STT: 140
NHĨM: Nhóm 8
LỚP: Cao học đêm 1-K20


Tp. Hồ Chí Minh, 2011

MỤC LỤC
1
1
Lời mở đầu ………………………………………………………………………….4
Chương 1: Tổng quan về triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ cổ đại ……….5
I. khái quát triết học Hy Lạp cổ đại………………………………………………….5
1. Điều kiện lịch sử ra đời……………………………………………………………5
2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại…………………………………………5
3. Những đặc điểm cơ bản ………………………………………………………… 5
4. Các tư tưởng, trường phái triết học ……………………………………………….6
4.1 Chủ nghĩa duy vật…………………………………………………………… 6
4.2 Chủ nghĩa duy tâm…………………………………………………………….6
II. khái quát triết học Ấn Độ cổ đại………………………………………………….8


1. Điều kiện ra đời…………………………………………………………… 8
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội…………………………………………………… 8
1.2 Điều kiện về khoa học và văn hóa……………………………………………8
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ………………… 8
3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại…………………………………………….8
4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại………………………………………….9
4.1. Tư tưởng triết học trong Upanisát……………………………………………9
4.2 Trường phái triết học chính thống……………………………………………9
4.3 Hệ thống triết học không chính thống……………………………………… 9
Chương 2: So sánh triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ cổ đại………… 11
A. Sự tương đồng của triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ cổ đại……… 11
B. Sự khác biệt của triết học Hy Lạp cổ đại và triết học Ấn Độ cổ đại………… 14
Kết luận……………………………………………………………………………22
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………… 23
2
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Khi nhắc đến khởi nguyên tiềm tàng của nền triết học nhân loại chúng ta
không thể không nói đến hai nền triết học lớn của thế giới, đó chính là triết học Hy
Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Có thể nói Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại là những cái
nôi của triết học thế giới, là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp
xướng của triết học, làm nền tảng cho toàn bộ hệ thống triết học thế giới sau này.
Nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề cơ bản của
triết học mà sau này các học thuyết triết học khác từng bước giải quyết theo nội
dung của thời đại mình Trong khi đó, triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và giải quyết
những vấn đề của tư duy triết học. Việc tìm hiểu sự tương đồng và khác nhau của
triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại giúp chúng ta có khái niệm gần như hoàn
chỉnh về triết học phương Tây và triết học phương Đông, những ảnh hưởng của nó
đến thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, từ đó chúng ta biết cách vận dụng

3
3
những tinh hoa của hai nền triết học này, nâng cao khả năng tư duy, nhận thức thế
giới, con người và xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu:
Bài viết không chỉ nêu lên hoàn cảnh ra đời, đặc điểm, những tư tưởng cùng những
trường phái của hai nền triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại, mà mục đích chính
của bài viết là làm rõ nét được những tương đồng và khác biệt giữa hai nền triết học
cổ đại này.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết hình thành trên cơ sở phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân
tích tổng hợp và so sánh các nguồn tư liệu tham khảo với nhau để có được kết quả
chính xác nhất, tránh cách nhìn phiến diện.

CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP
CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
I. KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Điều kiện lịch sử ra đời
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong
lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo ra cơ sở cho sự
phân hóa lao động và đề cao lao động trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều này
thúc đẩy sự hình thành tầng lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý
luận để nghiên cứu triết học và khoa học. Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của
triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu - đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc,
một thời đại.
2. Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại trải qua 3 giai đọan: Giai đoạn hình thành, giai đọan
cực thịnh và giai đọan suy tàn. Trong đó sự đấu tranh giữa hai khuynh hướng nhất
4

4
nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm của giai đọan cực thịnh đã để lại dấu ấn sâu
đậm nhất trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
3. Những đặc điểm cơ bản
Thứ nhất: thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp
chủ nô thống trị.
Thứ hai: Có sự phân chia và sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái
duy vật - duy tâm, vô thần - hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh chính trị - tư
tưởng
Thứ ba: đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác.Các nhà triết học Hy
Lạp cổ là “những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử dụng phép biện
chứng để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý
Thứ tư: gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về
các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh
chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện lại xảy ra trong nó.
Thứ năm: coi trọng vấn đề về con người. Dù còn có nhiều bất đồng, song
nhìn chung, các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo
hóa
4. Các tư tưởng, trường phái triết học
4.1 Chủ nghĩa duy vật:
4.1.1 Trường phái Milet: Đóng góp chính quan trọng nhất của trường phái Milet
này là đã được đặt nền móng cho sự hình thành các khái niệm đó như khái niệm triết
học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú thêm những khái
niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
4.1.2 Trường phái Héraclite: Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phán đoán
thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sau này Marx
đã đề cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học
Héraclite vào tư tưởng của nhân loại.
4.1.3 Trường phái đa nguyên Empédocle – Anaxago: Để giải thích tính đa
dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật, Empédocle và Anaxago cố

vượt qua quan niệm đơn nguyên sự phát minh của các trường phái Milet, trường
phái Héraclite, xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa
dạng. Tuy nhiên quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, còn hạn chế.
4.1.4 Trường phái nguyên tử luận Leucippe – Démocrite: là một hệ thống
quan điểm duy vật đầy đủ, nhất quán, trường phái nguyên tử làm cho chủ nghĩa duy
vật đạt được đỉnh cao. Nó xung đột mạnh với chủ nghĩa duy tâm của Xocrat Platong
5
5
sau này.
 Quan điểm về nhận thức- đạo đức:
 Quy nạp là phương pháp nhận thức đúng đắn
 Hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống có đạo đức là sống đúng mực,
ôn hoà, không hại mình, không hại người.
 Quan điểm về chính trị - xã hội:
 XH tốt nhất được cai trị bởi nhà nước dân chủ chủ nô
 Quản lý nhà nước là một nghệ thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang, tự do &
dân chủ cho con người.
4.2 Chủ nghĩa duy tâm:
4.2.1 Trường phái Pytago: Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là
bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Chính trường phái Pytago đã đặc
nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
4.2.2 Trường phái Êle: Do Xenophan thành lập trên tinh thần duy vật, nhưng sau
đó được Pacmenit phát triển theo hướng duy lý ngả về duy tâm
4.2.3 Trường phái duy tâm khách quan của Xocrat – Platong: do Xocrat đặt
nền móng và Platong, học trò của ông hoàn thiện
 Xocrat: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở của
điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; chỉ có cái thiện mới là cơ sở của
đạo đức, tiêu chuẩn của đức hạnh.
 Platong: xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là
“thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và

nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội.Quan điểm chính trị
- xã hội của Platong đầy mâu thuẫn và bảo thủ. Ông vừa đòi hỏi xóa bỏ tư
hữu, lại vừa đòi bảo vệ chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa
kêu gọi xây dựng nhà nước cộng hòa lý tưởng, lại vừa bảo vệ địa vị và lợi ích
của chủ nô quý tộc.
4.2.4 Triết học nhị nguyên của Arixtốt: Arixtốt là người tổng kết Triết học Hy
Lạp cổ đại, người đặt nền móng vững chắc cho chủ nghĩa duy lý, góp phần thúc đẩy
lý trí Hy Lạp nẩy nở, khoa học, văn minh phương Tây phát triển.
 Quan niệm về sinh thể, con người, linh hồn & nhận thức:
 Sinh thể (cả con người) đều có thể xác & linh hồn
 Con người là sinh thể có lý trí, luôn khát vọng nhận thức, bản chất con người
sinh ra là để nhận thức.
6
6
 Nhận thức là hoạt động bản tính của linh hồn, nhưng khi con người mới sinh
ra, linh hồn như một tấm bảng trắng.
 Quan điểm về đạo đức, chính trị - xã hội:
 XH tốt nhất phải dựa trên chế độ cộng hoà quý tộc, do chủ nô trung lưu lãnh
đạo.
 Công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng XH & bình
đẳng giữa các cá nhân…
 Lý trí, lẽ phải là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Điều kiện ra đời
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội:
Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông thôn, toàn bộ
ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, sự phân chia đẳng cấp hết sức khắc
nghiệt. Xã hội có 4 đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Bà la môn), Đẳng cấp quý tộc, Đẳng cấp
bình dân tự do, Đẳng cấp nô lệ. Xã hội Ấn Độ có nhiều tôn giáo: Đạo Ấn (Thờ bò)
(HinDu), Đạo Hồi (không ăn thịt heo), Đạo Thiên chúa, Đạo Cơ Đốc

1.2 Điều kiện về khoa học và văn hóa:
Về tri thức khoa học, người Ấn Độ đã có những tri thức rất sớm và phong
phú về nhiều lĩnh vực như: thiên văn, lịch pháp, toàn học, y học, nông nghiệp, kiến
trúc…
Nền văn hóa Ấn Độ mang đậm nét tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh có pha trộn
sự thần bí.
2. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ
Triết học thời kỳ Véđa (khoảng thế kỷ XV đến VIII TCN): thời kỳ này tập
trung phản ánh ước vọng của người dân thường như mong mưa thuận gió hòa, mong
có thức ăn, có gia súc ; đồng thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần
giáo, chưa có những khái quát triết học. Tuy nhiên qua các tập Véđa đã thể hiện sự
phát triển của tư duy trừu tượng trong đó người ta đã thừa nhận một nguyên lý vũ
trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh thần và các nghi
lễ.
Triết học thời kỳ cổ điển hay thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (khoảng thế kỷ VI
TCN đến thế kỷ VI): được hình thành và phát triển trong truyền thống Vêđa nhưng
các trường phái triết học Ấn Độ lại sung đột lẫn nhau
7
7
3. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
Thứ nhất, triết học ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không mang
tính cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học
có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống triết học mới.
Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội ấn độ cổ đại.
Thứ hai, triết học ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín
ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
Thứ ba: các hệ thống triết học - tôn giáo ở ấn độ cổ đại đều quan tâm tới vấn
đề nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
4. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại
4.1. Tư tưởng triết học trong Upanisát

Sự xuất hiện của Upanishad đánh dấu bước chuyển tiếp từ thế giới quan thần
thoại tôn giáo sang tư duy triết học. Tư tưởng đó được thể hiện trong các vấn đề chủ
yếu sau: Brátman (đại ngã), Átman (tiểu ngã), Giải thoát và thực trạng giải thoát.
4.2 Trường phái triết học chính thống: Trường phái Vêđanta. Samkhya,
Yoga, Mimansa, Nyaya, Vaisêsika
Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt nơi
mỗi người thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi vào vòng
ám muội của thế giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không giữ được bản
lai thanh tịnh của mình.
Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ bái, tích lũy khổ
hạnh hay tin tưởng vào sự cứu rõi của đấng tối cao. Đối với họ, phương pháp đưa
đến sự giải thoát là phải chế dục theo pháp Yoga, diệt trừ nghiệp lực và phải thấu
triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ. Nếu thực hiện được như thế thì linh hồn cá biệt
mới đạt đến sự giải thoát hoàn toàn
4.3 Hệ thống triết học không chính thống
 Triết phái Jaina (Kỳ na giáo): Trường phái này mang đượm màu sắc tôn
giáo, ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.
 Triết phái Lokayata (hay còn gọi là Carvaka): Triết học Lokayata mang tính
duy vật chủ nghĩa và vô thần tương đối triệt để, nhưng chỉ tồn tại trong một
thời gian tương đối ngắn Nó được trình bày trong chính kinh Veda, trong
các sử thi và cả trong kinh sách của Phật giáo. Thuyết ấy tuyên bố rằng chỉ có
thể biết là hiện hữu những gì ta tri giác được. Không có thế giới bên kia: chết
là hết. Niềm tin vào những cái như thế bị xem là tưởng tượng kỳ quái. Không
có bằng chứng hợp lý luận cho tính khả thi của cái không thể thấy; không thể
8
8
dùng sự suy ra như một nguồn có giá trị của tri thức mới vì không thể chứng
minh nó một cách vô điều kiện.
 Triết phái Budđhsam (Phật giáo): Là một trường phái triết học tôn giáo lớn
của Ấn Độ cố đại. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo Ấn độ cổ

đại được thể hiện: thế giới quan (phản ánh trong ba pham trù : vô ngã, vô
thường, duyên khởi ) & nhân sinh quan tập trung vào tứ diệu ( 4 chân lý tuyệt
diệu): khổ đế, nhân đế, diệt đế, đạo đế.
CHƯƠNG 2: SO SÁNH TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
9
9
VÀ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
A. SỰ TƯƠNG ĐỒNG CỦA TH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TH HY LẠP CỔ
ĐẠI
1. Tư tưởng triết học chịu sự tác động từ điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội
Triết học Hy Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại cùng ra đời dựa trên những thành
tựu rực rỡ của các lĩnh vực văn hóa và khoa học tự nhiên, gắn bó mật thiết với khoa
học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau, nhằm xây dựng
một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất. Tuy Ấn Độ và Hy
Lạp cổ đại có điều kiện tự nhiên và lịch sử không giống nhau nhưng tất cả điều ảnh
hưởng sâu sắc đến tư tưởng và sự phát triển của Triết học.
 Tại Ấn, không có một tôn giáo thuần nhất, cũng chẳng có một nền triết học
độc nhất; đúng hơn, với nhiều cách thức am hiểu và liên hệ với thế giới, triết học Ấn
Ðộ cũng như Ấn giáo, là một kho tàng chứa đựng các ý tưởng được bảo lưu một
cách rộng rãi, trong đó một số ý tưởng này cổ đại hơn một số ý tưởng khác tới cả
ngàn năm.
 Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học
tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới việc xây
dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa học".
Bên cạnh đó, cả hai nền Triết học này cùng ra đời trong bối cảnh xã hội có sự
phân chia giai cấp rất khắc nghiệt, đặc biệt là sự đàn áp tàn khốc đối với tầng lớp nô
lệ.
 Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc
gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế độ nô lệ thì
không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh Hy Lạp và đế quốc

La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
 Trong khi Ấn độ cũng trải qua rất nhiều thời kỳ bị xâm lăng bởi nhiều quốc
gia và các dân tộc, tạo nên sự da dạng của đủ loại hình tôn giáo, từ mê tín sâu sắc,
với những lý thuyết trái ngược nhau và các vị thánh, khất sĩ, ẩn sĩ, hiền giả và người
vô tín ngưỡng. Theo thống kê năm 2001, người Ấn theo Ấn giáo 80.5%, Hồi giáo
13.4 %, Kitô giáo 2.3%, Sikh 1.9%, các tôn giáo khác 1.8%, không xác định 0.1%.
2. Tương đồng trong xem xét nguồn gốc thế giới tự nhiên, sự ra đời của vạn vật
Nghiên cứu về con người, đạo đức nhân sinh quan, đặt vai trò của con người
lên hàng đầu. Tuy nhiên, triết học vẫn chưa tách rời được yếu tố thần linh ra khỏi ý
thức của con người
10
10
Hai nền triết học đều có những trường phái chịu ảnh hưởng của thần thánh,
tôn giáo. Quan điểm là linh hồn con người tồn tại và trải qua luân hồi. Thế giới tự
nhiên là do thần thánh sáng tạo, sắp xếp, có nguồn gốc thần bí.
 Ấn Độ: Trường phái Upanisat với khái niệm đại ngã, tiểu ngã dựa trên ý niệm
thần thánh hóa căn nguyên vạn vật, xem đại ngã là linh hồn vũ trụ, sinh ra vạn vật,
tiểu ngã là linh hồn con người, biểu hiện cụ thể của đại ngã, chịu luân hồi báo ứng.
Đến trường phái Vêđanta tiếp tục thừa nhận sự tồn tại của đại ngã và tiểu ngã,
khuyến khích giải thoát tiểu ngã khỏi vây hãm thể xác, quay về với đại ngã.
 Hy Lạp: Trường phái duy tâm của Pytago ủng hộ quan điểm duy tâm – tôn
giáo của phương đông, coi linh hồn tồn tại bất tử, độc lập với thể xác và chịu luân
hồi. Trường phái Xôcrát-Platông cho rằng hiện tượng tự nhiên do thần thánh sáng
tạo và an bài. Ý niệm của Platông là lý tính, tồn tại trên trời, chân thực tuyệt đối.
Thế giới sự vật là sự sao chép của ý niệm, sinh ra từ ý niệm, do thần Tạo hóa mô
phỏng từ ý niệm. Linh hồn vũ trụ là thần linh, tồn tại dưới dạng các tinh tú, và chỉ
được nhận thức bằng linh hồn vũ trụ của con người. Con người bao gồm thể xác khả
tử và linh hồn bất tử.
Hai nền triết học đều có những trường phái cho rằng thế giới tạo thành từ vật
chất, không tồn tại thần thánh.

 Ấn Độ:
 Trường phái Nyaga với thuyết nguyên tử luận, cho rằng thế giới vật chất
được cấu thành từ các nguyên tử kết hợp lại.
 Trường phái Vaisêsika cũng ủng hộ thuyết nguyên tử luận.
 Phái Lokayata xem sự vật kết thành bởi tứ đại bao gồm đất, nước, gió, lửa
 Hy Lạp:
 Trường phái duy vật cho rằng khởi nguyên vũ trụ hình thành bởi các yếu tố
vật chất. Talet cho rằng nước là khởi nguyên của sự vật. Heraclit cho rằng lửa
tạo ra van vật. Êmpêđốc nhận định vạn vật tạo bởi đất nước, không khí, kết hợp
với lực tình yêu và hận thù.
 Thuyết nguyên tử luận của Lơxíp – Đêmôcrit nhận định vũ trụ được cấu
thành từ nguyên tử và chân không. Nguyên tử tụ lại hình thành sự vật, tan rã thì
sự vật mất. Không có thần thánh sáng tạo ra sự vật.
3. Tương đồng trong nhận thức, thế giới quan duy vật và vô thần có tính biện
chứng sâu sắc.
 Ấn Độ :
11
11
 Nhận thức luận của Nyaga thừa nhận đối tượng nhận thức tồn tại khách
quan cần phải tìm tòi thông qua bốn phương thức là cảm giác, kết luận, tương tự
và bằng chứng.
 Phái Nyaga và Vaisêsika đều xây dựng những phương thức logic học.
 Hy Lạp:
 Đêmôcrit đề cao nhận thức lí tính, xuất phát từ nhận thức cảm tính, để tìm
ra nhận thức lí tính
 Đêmôcrit cũng tiến hành xây dựng những phương pháp nhận thức logic học
như quy nạp, so sánh, giả thuyết, định nghĩa.
4. Ấn độ và Hy Lạp cổ đại có cả hai trường phái duy vật và duy tâm :
 Ấn Độ:
 Duy vật : Gaimini,Gotama,Kanada,

 Duy tâm : Upanisad(bratman,atman)
 Hy Lạp:
 Duy vật : Talet,Anaximen,Hecraclit,Democrit,…
 Duy tâm : Pitago,Pacmenic,Xocrat ,Platong,…
5. Tương đồng trong mối quan tâm về con người và đều tìm cách đem lại cho
con người cuộc sống hạnh phúc:
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển, tất cả đều nghiên cứu về vai trò của con
người và tự nhiên, mỗi thời kỳ có một sự quan tâm khác biệt nhưng cùng tô màu vẽ
sắc cho các nền triết ấy. Vì vậy, đây chính là nền tảng, tiền đề cho sự phát triển của 2
nền triết học này trong các giai đoạn sau:
 Ấn Độ: giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực nhân sinh (bản chất, ý nghĩa
cuộc sống, nguồn gốc nỗi khổ)
 Hy Lạp: tìm hiểu, lí giải quan hệ linh hồn – thể xác, đời sống đạo đức, chính
trị, xã hội của con người.
6. Bên cạnh những ưu điểm, hai nền triết học đều chưa rõ ràng, chưa hệ thống
hóa và giải thích được nguồn gốc, tính chất vai trò của phạm trù đối với nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
7. Cả hai nền triết học đều đề cao lao động trí óc đã thúc đẩy hình thành tầng
lớp tri thức, họ đã sử dụng tư duy lý luận để nghiên cứu thế giới và xây dựng
nền triết học và khoa học đồ sộ, sâu sắc.
12
12
8. Trong quá trình nhận thức, suy tư triết lý, đôi khi đã đạt tới ý tưởng siêu
thực, vượt qua tầm suy nghĩ, nhận thức giác quan đạt tới những phán đoán
siêu hình về sự tồn tại.
B. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TH HY LẠP CỔ ĐẠI
Triết học Ấn Độ cổ đại Triết học Hy Lap cổ đại
Triết học có sự đan xen với tôn giáo:
Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ
đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín ngưỡng

tôn giáo. Do đó, triết học Ấn Độ cổ đại là
một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của
những tư tưởng tôn giáo. Giữa triết học và
tôn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết
học ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí, chân
lý thể hiện qua các bộ kinh Vêđa,
Upanisát.
Ấn Độ cổ đại phát triển qua 3 thời
kỳ với hai hệ thống triết học, là hệ thống
chính thống và hệ thống không chính
thống dựa trên cơ sở thái độ đối với kinh
Vêđa. Thực tế kinh Vêđa không phải là
thiên khải, cũng không do một nhân vật
nào đó sáng tác. Nó là một bộ sách thâu
lượm tất cả các câu ca dao, vịnh phú về sự
giàu đẹp, hùng vĩ của thiên nhiên Ấn Độ,
về những tập tục nghi lễ, quan điểm tư
tưởng và những bài thánh ca cầu nguyện
các đấng thần linh của người Arya.
Người Ấn Độ cổ tin và giải thích
rằng trong vũ trụ tồn tại đồng thời 3 thế
lực liên quan nhau là thần linh, con người
và quỹ ác ứng với 3 cõi vũ trụ bao la là
thiên giới, trần thế và địa ngục. Họ đã
phân tích các hiện tượng tự nhiên và lý
Triết học gắn bó mật thiết với khoa học tự
nhiên:
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật
thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi
hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm

xây dựng bức tranh về thế giới như một hình
ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện
tượng xảy ra trong nó. Do trình độ tư duy lý
luận còn thấp, nên khoa học tự nhiên chưa
đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để
đi sâu vào bản chất sự vật, mà nó nghiên cứu
tự nhiên trong tổng thể để dựng nên bức
tranh tổng quát về thế giới. Vì vậy, các nhà
triết học đồng thời là các nhà khoa học tự
nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện tượng tự
nhiên để rút ra những kết luận triết học.
Sự xuất hiện của những trí thức khoa
học và triết học trong thời kỳ này đã tạo nên
một bước ngoặc lớn về nhận thức của con
người, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn
giáo nguyên thuỷ. Xuất phát từ nhu cầu thực
tiễn của nền sản xuất, những tri thức về khoa
học tự nhiên phát triển mạnh, được trình bày
trong hệ thống triết học - tự nhiên của các
nhà triết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học
thời bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà
triết học đồng thời cũng là các nhà Toán học,
nhà Vật lý học như Talét, Pytago, Ácximét,
Ơclít, Từ các yếu tố đó có thể khẳng định
13
13
giải chúng qua biểu tượng của thế giới
thần linh phong phú, chia nhau chi phối sự
biến hóa của vũ trụ vạn vật theo sự điều
khiển của nguyên lý rita ( chân xác, thích

hợp, trật tự vận hành vũ trụ), “Toàn thể vũ
trụ được thành lập trên nguyên lý rita và
vận hành trong nó”.
Tôn giáo Ấn Độ cổ đại có xu
hướng “hướng nội”, đi sâu tìm hiểu đời
sống tâm linh, tinh thần để phát hiện ra
sức mạnh của linh hồn cá nhân con người.
Triết học Ấn Độ cổ đại coi linh hồn vũ trụ
là thực tại tinh thần tối cao, là bản chất, là
nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi
phối mọi sự sinh thành và hủy diệt của
mọi cái trong thế giới, còn linh hồn cá
nhân bị vây hãm, rang buộc bởi những
ham muốn nhục dục của thể xác. Con
người phải dốc lòng tu luyện , chiêm
nghiệm tâm linh để nhận ra bản tính thần
thánh của mình mà quay về với linh hồn
vũ trụ. Vì vậy, triết học Ấn Độ cổ đại
mang nặng tính chất duy tâm, chủ quan,
thần bí.
rằng, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra
đời đã có sự gắn bó với nhu cầu thực tiễn và
gắn với khoa học.
Hy Lạp cho rằng triết học là sự ham
hiểu biết, yêu thích sự thông thái
(philosophia). Triết học được coi như “người
mẹ” của các ngành khoa học, “triết học là
khoa học của mọi khoa học”. Triết học mang
lại cho chúng ta năng lực hiểu biết, “người
mẹ” đó nuôi “con” bằng tư duy lý luận, vì

nếu không có tư duy lý luận nhà khoa học
không thể trở thành nhà khoa học đúng
nghĩa.
Triết học có sự đan xen giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa
phép biện chứng và phép siêu hình:
Do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần
Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại không thể
phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm, phép biện chứng và
phép siêu hình mà chủ yếu được chia
thành hệ thống chính thống và hệ thống
Triết học có sự phân chia và đối lập rõ
ràng giữa các trào lưu, trường phái duy
vật – duy tâm, vô thần – hữu thần
Triết học Hy Lạp cổ đại đã giải quyết
các vấn đề cơ bản của triết học và chia ra
thành các trường phái khác nhau: trường
phái nhất nguyên (duy vật, duy tâm) và
trường phái nhị nguyên, thậm chí còn chia ra
những nhà vô thần và hữu thần, gắn liền với
14
14
không chính thống. Trong các trường phái
triết học cụ thể luôn có sự đan xen giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
giữa phép biện chứng và phép siêu hình.
Chẳng hạn như những nhà tư tưởng
của phái Samkhya sơ kỳ bộc lộ những tư
tưởng có tính duy vật chứa ít nhiều biện

chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ đưa ra
học thuyết về sự tồn tại của kết quả trong
nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và
học thuyết về sự chuyển hóa thực tế của
nguyên nhân trong kết quả.
Ngược lại, các nhà tư tưởng của
phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh
hướng nhị nguyên luận khi thừa nhận sự
tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là
vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa).
Yếu tố tinh thần (Purasa) mang tính phổ
quát, vĩnh hằng, bất biến, nó truyền sinh
khí, năng lượng và biến hóa vào yếu tố vật
chất ở con người. Khi tinh thần chiếu rọi
vào Sativa thì sinh ra trí tuệ, khi tinh thần
chiếu rọi vào razas thì sinh ra vận động,
khi tinh thần chiếu rọi vào tamas thì sinh
ra hình thể.
Còn các nhà triết học Mimansa dựa
vào tư tưởng triết học - tôn giáo của Vêđa,
nhưng coi Vêđa như các tập công thức
hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ kỳ
không thừa nhận sự tồn tại của thần. Theo
Sabara thì chúng ta thiếu chứng cứ về sự
tồn tại của thần và cảm giác không nhận
thức được thần. Nhưng cảm giác lại được
coi là nguồn gốc của mọi tri thức khác. Về
nguồn gốc thế giới, phái Mimansa có quan
điểm duy vật cho rằng thế giới được sinh
ra từ các nguyên tử. Khi giải quyết mối

quan hệ giữa tinh thần với thể xác, họ lại
cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng, trong đó
điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu triết
học duy vật của Đêmôcrit và trào lưu triết
học duy tâm của Platông. Hai học thuyết đó
ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống phương
Tây. Có thể nói triết học Hy Lạp cổ đại rất
nhất quán, kiên định một quan điểm, một lập
trường.
Đối lập lại chủ nghĩa duy vật là chủ
nghĩa duy tâm khách quan của Platôn. Ông là
đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm thời
cổ đại Hy Lạp. Ông đã xây dựng học thuyết
về ý niệm để chống lại chủ nghĩa duy vật.
Theo ông, giới tự nhiên bắt nguồn từ ý niệm.
Dao động giữa đường lối duy vật của
Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platôn là
Arixtốt. Ông là một nhà triết học lớn, bộ óc
bách khoa thời cổ đại Hy Lạp - La Mã,
nhưng là một nhà triết học không triệt để.
Một mặt, ông bác bỏ thuyết ý niệm của
Platôn; mặt khác ông lại chủ trương hình
thức là bản chất của mọi sự vật, mà hình
thức của mọi hình thức là tư duy (hình thức
thuần tuý).
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết
học Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng tỏ rằng,
ngay từ đầu, lịch sử triết học là lịch sử đấu
tranh giữa hai thế giới quan, hai phương

pháp luận đối lập nhau. Cuộc đấu tranh ấy
phản ánh lợi ích của những tầng lớp, những
giai cấp khác nhau trong xã hội có giai cấp
đối kháng.
15
15
đứng trên lập trường duy tâm coi tinh thần
tồn tại mãi mãi, còn thể xác thì mất đi.
Qua đó có thể thấy, trong triết học
Ấn Độ cổ đại sự phân chia các trường
phái triết học chỉ có tính đại thể, còn khi
đi sâu vào những nội dung cụ thể thì có
mặt duy vật, có mặt duy tâm, sơ kỳ là duy
vật thì hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm.
Điều đó thể hiện rõ sự thiếu nhất quán
trong thế giới quan, sự thiếu triệt để của
triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã
hội Ấn Độ không mạch lạc như phương
Tây.
Triết học Ấn Độ cổ đại lấy nhân sinh
quan làm gốc, đặc biệt là vấn đề luân
hồi, nghiệp báo, sau đó mới là vũ trụ
quan, bản thể luận:
Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra
nhiều vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh
(bản chất, ý nghĩa đời sống, nguồn gốc nổi
khổ của con người) nhằm tìm kiếm
phương tiện, con đường, cách thức giải
thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự
nhiên và kinh tế - xã hội khắc nghiệt mà

không thấy mối quan hệ giữa con người
trong lao động sản xuất.
Upanishad bàn tới vấn đề "luân
hồi", "nghiệp báo". Vì Atman "linh hồn"
tồn tại trong thể xác con người trần tục
nên ý thức con người lầm tưởng rằng
"linh hồn" đó khác với "linh hồn vũ trụ"
bất tử. Những cảm giác, ham muốn dục
vọng và hành động của con người nhằm
thỏa mãn những ham muốn đó trong đời
sống trần tục đã gây ra những hậu quả,
gieo đau khổ ở kiếp này và cả kiếp sau,
gọi là "nghiệp báo" (Karma). Do vậy, linh
Triết học Hy Lạp cổ đại đi từ thế giới
quan, vũ trụ quan, bản thể luận…từ đó
xây dựng nhân sinh quan con người
Các nhà triết học Hy Lạp đầu tiên có
khuynh hướng chung là suy tư về bản chất và
khởi thuỷ của thế giới. Họ lấy một thực thể
bản nguyên tượng trưng làm nguồn gốc của
tất cả mọi vật. Chẳng hạn đối với Talet đó là
nước, đối với Anaximăngđrơ đó là cái vô hạn
bất định, đối với Anaxago đó là tinh thần.
Pytago tìm cái chìa khoá phổ quát của hiện
thực trong các con số, Pacmênic cho rằng
bản chất của thực thể nằm trong tồn tại;
Lơxip và Đêmôcrit phỏng đoán mọi sự vật
đều được tạo thành từ những nguyên tử, là
những phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia
được nữa và số lượng của chúng là vô hạn.

Hêraclit đưa ra quan niệm mọi sự vật của thế
giới luôn thay đổi, sự kết hợp của các yếu tố
vật chất là vô hạn, vì vậy cái bất biến trong
thế giới chỉ có thể được thừa nhận chính là
sự biến đổi, chuyển hoá vĩnh hằng đó.
Từ thế giới quan, các nhà triết học Hy
16
16
hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể xác
này đến thể xác khác, bị che lấp, ràng
buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh,
gọi là sự "luân hồi" (Samsara), không
nhận ra và không trở về đồng nhất với
chân bản của mình là Brahman được.
Muốn giải thoát linh hồn bất tử
khỏi vòng vây hãm của luân hồi, nghiệp
báo để đạt tới đồng nhất với "Tinh thần vũ
trụ tối cao" tuyệt đối thì con người phải
dốc lòng toàn tâm tu luyện hành động và
tu luyện tri thức. Bằng nhận thức trực
giác, thực nghiệm tâm linh, con người
mới nhận ra chân bản của mình, khi đó
linh hồn bất tử mới đồng nhất được với
"linh hồn vũ trụ tối cao" và bắt đầu "siêu
thoát" (moksa).
Thừa nhận quan niệm "Luân hồi"
và "Nghiệp báo" trong Upanishad, Phật
giáo đặc biệt chú trọng triết lý nhân sinh,
đặt mục tiêu tìm kiếm sự giải thoát cho
chúng sinh khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo

để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn
(Nirvana). Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi
khổ của con người, Thích Ca Mâu Ni đã
đưa ra thuyết "Tứ diệu đế" và " Thập nhị
nhân duyên" để giải thoát chúng sinh ra
khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân
hồi. Thuyết “tứ diệu đế” là cốt lõi của
quan niệm nhân sinh quan của Phật giáo.
Từ đó cho thấy xu hướng cơ bản
trong triết học Ấn Độ cổ đại là quan tâm
giải quyết các vấn đề nhân sinh dưới gốc
độ tâm linh tôn giáo với xu hướng “hướng
nội”. Có thể nói sự phản tỉnh nhân sinh là
một nét trội và là ưu thế của nhiều học
thuyết triết học Ấn Độ cổ đại.
Lạp cổ đại mới đi đến vấn đề nhân sinh
quan, đạo đức, xã hội. Các nhà ngụy biện thì
thiên về cá nhân hơn, đã nhiệt thành với việc
giáo dục các nhà lãnh đạo, những người sẽ
gây ảnh hưởng xã hội và sử dụng xã hội như
là phương tiện để đạt các mục đích riêng của
mình Mỗi con người là thước đo sự vật cho
mình, không phải chỉ sự vật được nhận thức,
mà cả sự vật thuộc thiện, ác trong xã hội.
Platông và Xôcrat chống lại "chủ nghĩa cá
nhân" và "chủ nghĩa tương đối" cực đoan
này của các nhà ngụy biện. Con người, thước
đo sự vật, không phải là cá nhân riêng biệt
mà là phổ quát. Cấu trúc xã hội và cấu trúc
linh hồn (hay tự ngã) của con người phản

ảnh lẫn nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Bản
chất của con người là lý trí và được tìm thấy
trong một xã hội được xếp đặt theo trật tự
duy lý. Cái tư tưởng hiện đại cho rằng cá
nhân không thể tách khỏi xã hội và "nhân
tính" là hình thành do xã hội và phát triển
trong xã hội, tư tưởng đó không lớn mạnh
trong tư tưởng Hy Lạp Xôcrat và Platông
thì chỉ rõ xã hội là sự phóng rọi của bản chất
con người trên tấm vải thô lớn, hay là sự
phản ánh được khuếch đại của bản chất con
người. Con người chỉ thực sự sống trong xã
hội, không thể sống ngoài xã hội Arixtốt,
một nhà duy lý, chấp nhận các nguyên lý
chính yếu của Platông “Con người không thể
là con người nếu không có xã hội "
17
17
Triết học Ấn Độ cổ đại nhấn mạnh sự
thống nhất trong mối quan hệ giữa con
người và vũ trụ theo nguyên tắc “thiên
nhân hợp nhất”:
Các nhà triết học Ấn Độ cổ đại cho
rằng muốn nhận thức tốt thì phải hòa hợp
giữa chủ thể và khách thể với nhau.
Upanisát cho rằng “tinh thần vũ trụ tối
cao” Brátman là thực thể cao nhất, có
trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là
cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và
nhập về với nó sau khi chết, là khách thể.

Còn Atman là tinh thần con người, là tiểu
ngã, là cái có thể mô hình hóa, là chủ thể,
và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú
trong con người mà thôi. Linh hồn con
người “Átman” chỉ là sự biểu hiện, là một
bộ phận của “Brátman”.
Từ thế giới quan triết học “thiên
nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định nhiều
đặc điểm khác của triết học Ấn Độ cổ đại
như: lấy con người làm đối tượng nghiên
cứu chủ yếu – tính chất hướng nội, hay
nghiên cứu thế giới cũng để làm rõ con
người và vấn đề bản thể luận trong triết
học Ấn Độ trong triết học Ấn Độ cổ đại bị
mờ nhạt.
Về vấn đề con người, triết học Ấn
Độ cổ đại đặt trọng tâm nghiên cứu mối
quan hệ giữa người với đời sống tâm linh
ít quan tâm tới mặt sinh vật của con
người, chỉ quan tâm giải quyết các vấn đề
thuộc về lĩnh vực nhân sinh quan (bản
chất, ý nghĩa, đời sống, nguồn gốc, nổi
khổ của con người” gắn liền với quan
điểm tôn giáo nhằm tìm kiếm con đường,
phương tiện, cách thức giải thoát con
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tách chủ
thể với khách thể để nhận xét khách quan
Các nhà triết học Hy Lạp đã nhấn
mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con
người là chủ thể để nghiên cứu, chinh phục

vũ trụ - thế giới khách quan. Đặt trọng tâm
nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng
ngoại; còn vấn đề con người chỉ được nghiên
cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên
triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện đậm nét về
bản thể luận của vũ trụ.
Platông đã chia thế giới thành thế giới
ý niệm (lý tính, tồn tại trên trời, mang tính
phổ biến, chân thực tuyệt đối, bất biến, vĩnh
hằng, duy nhất…) và thế giới sự vật (cảm
tính, tồn tại dưới đất, mang tính cá biệt, ảo
giả, tương đối, khả biến, thoáng qua, đa
tạp…). Bằng thuyết ý niệm này, ông đã lý
giải sự sinh thành của thế giới sự vật, con
người và hoạt động của linh hồn…
18
18
người, mà không thấy mối quan hệ giữa
con người trong lao động sản xuất.
Triết học Ấn Độ cổ đại ngã về dung
trực giác
Trường phái Mimansa coi cảm giác
là nguồn gốc duy nhất của nhận thức.
Nhận thức trong triết học Ấn Độ bắt đầu
từ luân lý đạo đức, nhận thức gắn liền với
đạo đức. Trong nhận thức, triết học Ấn Độ
đề cao việc tự nhận thức, tự hiểu. Điều
này quy định tính chất trực nhận, trực giác
trong triết học Ấn Độ. Từ đó, một lôgíc
kéo theo là công cụ, phương tiện nhận

thức lại nghiêng về ẩn dụ, hình ảnh.
Triết học Hy Lạp ngã về tư duy duy lý:
Triết học Hy Lạp ngã về tư duy duy lý,
phân tích mổ xẻ. Thế mạnh của Hy Lạp là
khoa học, kỹ thuật và nhận thức luôn
hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn
cùng. mãi đến chân lý qua hàng loạt những
trừu tượng, khái niệm, quy luật của Triết
học Hy Lạp, đi gần toàn thể vũ trụ, liên tiếp
đi từ cấp độ bản chất thấp đến mức độ bản
chất cao hơn cũng do vậy họ có xu hướng
cô lập hoá, cách ly hoá, làm mất đi tính tổng
thể. Triết học Hy Lạp có xu hướng tách chủ
thể với khách thể để nhận thức cho khách
quan. Phương tiện nhận thức của triết học Hy
Lạp là khái niệm, mệnh đề, biểu thức lôgíc
để đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn.
Triết học Hy Lạp nghiêng về sự đấu tranh và
vận động, phát triển theo hướng đi lên. Một
nét nữa của triết học Hy Lạp thiên về hướng
ngoại, chủ động, tư duy lý luận, đấu tranh
sống còn, hiếu chiến, cạnh tranh, bành
trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy luận,
khoa học, tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến
thực thể Các nhà triết học Hy Lạp đều đề
cao tư duy lý tính.
Triết học Ấn Độ cổ đại thường tôn
trọng và có khuynh hướng phục cổ,
không có những bước nhảy vọt về chất
Triết học Ấn Độ ít thấy có những

bước nhảy vọt về chất mà chỉ là sự phát
triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Nội dung có
phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục
bộ, thêm bớt hay đi sâu vào từng chi tiết,
Triết học Hy Lạp cổ đại có sự đấu tranh
giữa các trường phái mang tính chất
quyết liệt, triệt để, có sự phát triển về chất
khá rõ rệt
Triết học Hy Lạp thay đổi theo hướng
nhảy vọt về chất, nên càng tiến hoá càng
phong phú hơn, xa rời gốc ban đầu. Thậm
chí có xu hướng cái sau phủ định hoàn toàn
19
19
xuất phát từ tinh thần Vêđa chia ra làm hai
hệ thống: hệ thống chính thống ủng hộ
tinh thần Vêđa và trường phái không
chính thống phản đối lại tinh thần Vêđa.
Các nhà triết học ở các thời đại chỉ
giới hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ,
bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào
đó để hoàn thiện và phát triển nó hơn là
vạch ra những sai lầm và không đặt ra
mục đích tạo ra thứ triết học mới. Do vậy
nó không mâu thuẫn với các học thuyết đã
được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ
định nhau hoàn toàn và dẫn đến cuộc đấu
tranh trong các trường phái không gay gắt
và cũng không triệt để. Có tình trạng đó
chính là do chế độ phong kiến kéo dài quá

lâu và bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp
trong xã hội đan xen, cộng sinh bên nhau.
cái ở giai đoạn trước.
Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên
cạnh các trường phái cũ lại có những trường
phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại
như thời cố đại bên cạnh trường phái Talét,
Hêraclit đến Đêmôcrit. Lịch sử triết học
Hy Lạp cổ đại có thể chia làm ba thời kỳ.
Xuyên suốt ba thời kỳ ấy là cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh giữa đường lối
duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm
của Platông.
Kết luận
Triết học Ấn Độ cổ đại là một trong những nền văn minh sớm của nhân loại.
Triết học Ấn Độ cổ đại có truyền thống phát triển lâu đời với nhiều trường phái triết
học tôn giáo. Thông qua các trường phái này diễn ra cuộc đấu tranh giữa các xu
20
20
hướng như duy tâm và duy vật, tôn giáo và vô thần, lạc quan và bi quan… Các
trường phái này vừa cạnh tranh nhau vừa kế tục nhau làm hình thành nhiều phạm trù
triết học có tính đặc trưng. Triết học Ấn Độ đã đặt ra và tìm cách giải quyết nhiều
vấn đề về bản thể luận, tâm lý, nhận thức luận, tâm linh… Cho nên nền triết học này
có nhiều đóng góp quan trọng về các vấn đề tâm lý học, logic học và triết lý nhân
sinh… Triết học Ấn Độ cổ đại đã lan truyền và có ảnh hưởng lớn trong khu vực và
thế giới.
Như vậy, nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn
đề cơ bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác sẽ từng bước giải
quyết theo nội dung của thời đại mình, nó bao chứa mầm mống của tất cả thế giới

quan về sau này. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa
phép biện chứng và phép siêu hình được thể hiện rất rõ. Những thành tựu triết học
cơ bản của nó xứng đáng ghi một mốc son trong lịch sử triết học của loài người. .
Triết học Hy Lạp cổ đại chia làm ba thời kỳ. Thời ky tiền Socrate, thời kỳ Socrate là
thời kỳ cực thịnh, thời kỳ hậu Socrate. Trong giai đoạn này có rất nhiều triết gia nổi
bậc như: Thales, Anaximandre, Heraclite, Pythagore, Xenophane, Parmenide,
Zenon, Anaxagore, Empedocle, Democrite, Socrate, Platon, Aristote…Triết lý Hy
Lạp cổ đại là những viên gạch đầu tiên xây nên toàn bộ nền văn minh của Châu Âu
ngày nay.
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Sách Triết học phần 1 – Lưu hành nội bộ-TG: T.S. Bùi Văn Mưa, T.S. Trần
Nguyên Ký, PGS TS Lê Thành Sơn, TS Nguyễn Ngọc Thu, TS Bùi Bá Linh, TS.
Bùi Thanh Xuân.
 Website: />m=module3&v=chapter&ib=316&ict=3492
21
21

pham-tru-triet-hoc-an-do-co-dai.html.
 />bai-04-triet-ly-upanishad.htm l
 />option=com_content&view=article&id=341:truyn-thng-trit-hc-n-&Itemid=5
 o/forum/showthread.php?t=13004
22
22

×