Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tiểu luận triết Tư tưởng triết học pháp gia và những giá trị hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.02 KB, 12 trang )

Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
Phần mở đầu
Triết học Phương Đông nói chung và Triết học Trung Quốc nói riêng,
nhận xét một cách khách quan, đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến đời sống văn
hóa, xã hội cũng như con người Việt Nam. Đề tài về Pháp gia, một học
thuyết nổi tiếng của Hàn Phi, cùng với sự thành công của triều đại nhà Tần
mà tiêu biểu là Tần Thủy Hoàng đã đem lại nhiều cảm xúc cho người viết
đề tài. Việc nghiên cứu học thuyết, tư tưởng để xây dựng nên một đế chế
hùng mạnh vào loại bậc nhất Trung Hoa đem lại nhiều kinh nghiệm, bài học
quý giá về bài học quản lý và điều hành, qua đó cũng rút ra được nhiều điều
để tránh đi theo vết xe đổ như triều đại nhà Tiên Tần – hùng mạnh nhưng
cũng đầy ai oán.
Tài liệu chính dùng để viết tiểu luận này là Hàn Phi Tử - tác giả Giản
Chi – Nguyễn Hiến Lê và Lịch sử Triết học Trung Quốc – tác giả Phùng Hữu
Lan.
Ngoài ra còn có một số tài liệu tham khảo theo danh sách tài liệu đính kèm.
Tiểu luận được viết sẽ chủ yếu giải quyết được các vấn đề sau đây:
Thứ nhất cho chúng ta khái quát về tình hình lịch sử thời Xuân Thu
Chiến Quốc, qua đó ta thấy được vai trò và sứ mệnh lịch sử của Pháp gia –
cái sau phủ quyết cái trước để cho xã hội phát triển đúng theo trình tự lịch
sử của nó.
Thứ hai, ta sẽ tìm hiểu các Pháp gia trước Hàn Phi, qua đó ta có một
cái nhìn về Pháp gia ở mọi khía cạnh, một cái nhìn xuyên suốt trong chiều
dài phát triển của Pháp gia và thấy được tài năng của Hàn Phi khi tập hợp,
chọn lọc lại để có được học thuyết Pháp gia hoàn chỉnh cho riêng mình.
Thứ ba, ta sẽ tìm hiểu chính về học thuyết Pháp gia của Hàn Phi, vai
trò và tư tưởng của nó, ưu và khuyết của nó để qua đó thấy được giá trị của
nó và rút ra được nhiều bài học quý giá cho hôm nay.
Trang 1/12
Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
I. NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHÁP GIA


1. Bối cảnh lịch sử hình thành Triết Học Pháp gia
Để hiểu rõ hơn về Triết học Pháp gia, trước tiên ta cần xem qua thời
đại lịch sử thời đó, hiểu rõ hơn về thời và thế, qua đó có một cái nhìn đích
xác về nó.
Nho Gia, Mặc Gia, Khổng Gia đều có tư tưởng chính trị riêng của họ.
Các nhà này tuy tư tưởng bất đồng, nhưng giống nhau ở quan điểm lấy
nhân dân làm cở sở để bàn luận chính trị. Nhưng còn một nhóm tư tưởng
gia chuyên lấy vua hay quốc gia làm cơ sở để bàn luận chính trị. Đó chính
là nhóm tư tưởng của Pháp gia và người đại diện rõ nét nhất cho nhóm tư
tưởng này chính là Hàn Phi.
Hàn Phi sinh ra và sống vào thời Chiến Quốc, cuối thời Đông Chu. Văn
hóa Trung Quốc đến thời nhà Chu thì đã tương đối đầy đủ. Đây cũng chính
là thời kỳ có nhiều Triết gia nhất Trung Quốc.
Từ thời Xuân Thu ( 722TCN – 481 TCN) đến đầu đời Hán là thời đại
giải phóng lớn trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời đại đó, các chế độ xã
hội, chế độ chính trị, chế độ kinh tế thay đổi đến tận gốc. Thời trước, chính
trị do quý tộc nắm, các nước thì do nhà Chu phong hoặc đã có từ trước.
Nhà Chu dựa vào lòng trung thành của các chư hầu để tồn tại, đó cũng là
điều kiện để các chư hầu ngày càng lớn mạnh, càng ngày càng ít bị phụ
thuộc vào nhà Chu. Khi nhà Chu bắt đầu suy yếu, các vị vua nhà Chu tiếp
sau cần sự trợ giúp của các chư hầu hùng mạnh xung quanh để bảo vệ họ
khỏi các cuộc cướp bóc và để giải quyết các cuộc tranh giành quyền lực
bên trong. Triều đình nhà Chu lúc bấy giờ chỉ là triều đình bù nhìn cho các
chư hầu phong kiến, mặc dù mang tiếng là vua nhưng hầu như không có
quyền lực. Ở thời này một hệ thống quan hệ phức tạp của các chư hầu bắt
đầu phát triển, các chư hầu đều mang danh nghĩa vua Chu để tranh giành.
Mối xung đột ngày càng ngày phát triển, cả về mặt quân sự lẫn ngoại giao.
Sau thời Xuân Thu thì đến thời Chiến Quốc kéo dài đến năm 221 TCN
khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc và cũng được coi là vị Hoàng
Đế đầu tiên của Trung Quốc. Đây là thời các lãnh chúa địa phương, các

chư hầu sáp nhập với các nước nhỏ xung quanh để củng cố quyền lực. Đã
xuất hiện bảy nước lớn dưới thời Chiến Quốc gồm : Tề, Sở, Yên, Hàn,
Triệu, Ngụy, Tần và điều đặc biệt là thời này các chư hầu đều đã xưng
Vương, tức là đã ngang hàng với vua Chu. Thời này Trung Quốc có những
bước thay đổi đáng kể. Đồ sắt được dùng thay cho đồ đồng, các thuyết
Khổng giáo, Đạo giáo, Pháp gia, Mặc học ra đời, thương mại bắt đầu phát
triển mạnh, một số nhà buôn bắt đầu có ảnh hưởng lớn trong chính trị. Đây
cũng chính là giai đoạn chiến tranh liên miên giữa các nước để tranh giành
quyền lực với nhau.
Việc chuyển từ một hình thái xã hội cũ sang mới đòi hỏi phải có một
phương pháp cai trị mới và Pháp gia của Hàn Phi xuất hiện để giải quyết
vấn đề đó, làm cơ sở luận cho nhà Tần thống nhất bảy nước, lập nên nước
Trung Quốc thống nhất đầu tiên trong lịch sử.
Trang 2/12
Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
2. Những tư tưởng Triết Học cơ bản của Pháp gia
2.1. Những tư tưởng trước Hàn Phi
2.1.1. Quản Trọng
Ông không rõ năm sinh, mất năm 645 TCN, là tướng quốc cho Tề
Hoàn Công nước Tề.
Ông tên thật là Di Ngô, người đất Dĩnh Thượng thuộc
Tề. Ông sinh ra trong một gia đình bình dân nhưng được học hành tử tế.
Thuở nhỏ phải đi buôn do nhà nghèo. Ông có người bạn thân là Bão Thúc
Nha, một người sau này cũng là đại phu nhà Tề.
Quản Trọng trong bốn mươi năm liên tiếp cai quản mọi việc nước của
nhà Tề, khiến cho nhà Tề đương suy hóa thịnh, thành bá chủ của các nước
chư hầu.
Tương truyền bộ Quản Tử của ông có 86 thiên, bị mất 10 thiên. Đó là
toàn bộ thành tích chính trị, tư tưởng và pháp chế của Quản Trọng.
Những tư tưởng chủ đạo trong học thuyết Pháp gia của Quản Trọng là:

- Thứ nhất, “ lời bàn luận không cao xa mà dễ thi hành”, ông chú trọng
thực tế cuộc sống, tránh những chuyện cao siêu, viễn vông.
- Thứ hai, theo ông mục đích của chính trị là làm cho “quốc phú, binh
cường”. Ông khuyến khích khai thác mỏ đúc tiền, nấu nước biển làm
muối, rồi chở đi bán cho các nước ở xa bờ biển, mang lại lợi nhuận
lớn, vì thế chẳng mấy chốc mà Tề trở nên giàu có. Ông còn biết cách
tích trữ, mua khi thừa và bán khi thiếu. Ông cũng đề xướng ra hai cải
cách: coi công thương quan trọng như nông nghiệp và quốc hữu hóa
một số nguồn lợi trong nước.
- Thứ ba, ông có sang kiến “ ngụ binh ư nông” – quân ở trong nông
dân. Thời bình thì nông dân làm ruộng, lúc nông nhàn thì luyện võ,
lúc cần thì nông dân cũng chính là binh sĩ.
- Thứ tư, về quốc chế ông cũng tổ chức nghiêm ngặt, phân chia các
khu vực cho sỹ nông công thương, qua đó tạo điều kiện tốt cho các
ngành nghề phát triển.
- Thứ năm, ông đưa ra một học thuyết rất hoàn bị về pháp luật, phân rõ
quyền hạn của các giai tầng trong xã hội : lập pháp là quyền của vua,
hành pháp phải chí công vô tư, thưởng phạt nghiêm minh.
- Thứ sáu, ông cũng chủ trương tôn quân như mọi tư tưởng gia khác
thời Xuân Thu, nhưng ông không tỏ vẻ sợ sệt. Ông tôn quân bởi vì
vua là đại biểu của quốc gia, lòng trọng vua của ông không mang
màu sắc thần quyền hay tôn giáo gì cả. Ông dùng người chỉ chú
Trang 3/12
Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
trọng tài năng không vì giai cấp bởi vì chính ông cũng xuất thân từ
giai cấp bình dân.
- Thứ bảy, ông thuận ý dân, giảm thuế, khuếch trương công thương,
dùng chính sách kinh tế tự do giúp cho dân giàu. Quan điểm này
giống với Nho Gia.
- Thứ tám, ông chú trọng “ tứ duy” : đạo đức, bảo lễ, nghĩa, liêm sĩ là

bốn điều cốt yếu trong nước và cầm quyền, đây là quan điểm rất
giống với Nho Gia.
Có thể coi tư tưởng Pháp gia của Quản Trọng là thủy tổ của Pháp gia
và đó chính là chiếc cầu nối giữa Pháp gia và Nho gia, biết trung hòa thực
tế với lý tưởng; lễ nghĩa, nhân tính với võ bị.
2.1.2. Thân Bất Hại
Thân Bất Hại, không rõ năm sinh và năm mất, có thuyết cho rằng ông
sinh năm 401 TCN và mất năm 337 TCN. Ông là người nước Trịnh, lúc đầu
làm quan nhỏ ở nước Trịnh, sau nước Trịnh bị Hàn thôn tính và với sự giúp
đỡ của Chiêu Ly, ông trở thành tướng quốc nước Hàn.
Nếu Pháp gia của Quản Trọng vẫn còn tư cách của Nho Gia, thì Pháp
gia của Thân Bất Hại đã tách chính trị khỏi đạo đức, nên còn có ý kiến cho
rằng ông mới chính là thủy tổ của Pháp gia.
Pháp gia của ông chú trọng đến “Thuật”, tức là dùng phương tiện, mưu
mô để đạt được mục đích. Ông lập lại trật tự của luật pháp nước Hàn, danh
phải đúng với thực, chủ trương “ tôn quân, ti thần, sung thượng ức hạ”.
Về học thuyết, ông để lại hai thiên, có nhan đề là Thân Tử. Bộ sách
trên đã bị thất truyền, nhưng một số nội dung chính được Hàn Phi viết lại
trong sách của mình như sau:
- “ Thuật là nhân tài năng mà giao chức cho quan, theo cái danh mà
trách cứ cái thực; nắm quyền sinh sát trong tay, mà xét khả năng của quần
thần. Đó là cái mà bậc vua chúa phải nắm trong tay.”
- “Quan lại không được vượt chức, có biết cũng không được nói.”
Theo Thân Bất Hại, bậc vua chúa phải có cái thuật bí hiểm, đừng để
cho biết sự sáng suốt hay không sáng suốt của mình, nếu không kẻ dưới
tìm cách đề phòng, gạt hay nhử mình.
2.1.3. Thận Đáo
Thận Đáo là người nước Triệu, sinh năm 370 TCN, mất năm 290 TCN.
Nét chính trong tư tưởng của ông là trọng “thế”, mà hễ trọng thế thì tự nhiên
trọng Pháp luật.

Ông cho rằng “ con phi long cưỡi mây, con đằng xà chế ngự sương mù
mà ở trong đó. Mây tan mưa tạnh thì hai con ấy cũng như con giun, con
kiến vì mất chỗ dựa.”
Ông đề cao “ thế” vì “ Nghiêu hồi còn là dân thường thì không trị được
ba người. Kiệt làm thiên tử thì có thể làm loạn cả thiên hạ. Nghiêu khi còn lệ
thuộc, đi giảng dạy thì dân không nghe; đến khi ngồi quay mặt về hướng
Trang 4/12
Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
Nam, làm vua thiên hạ, ban lệnh là người ta thi hành liền, cấm đoán là
người ta phải ngừng ngay.”
Ông đề cao sức mạnh quyền thế, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Ông
không chỉ ra quyền thế do đâu mà có, và phải giữ bằng cách nào. Ông chủ
trương “ tập quyền”, thần không được lấn vua, phải bỏ ý riêng mà theo luật.
2.1.4. Thương Ưởng
Ông là người nước Vệ, một nước nhỏ thuộc Ngụy,
không rõ năm sinh và mất. Ông thích hình danh, sống cùng thời với Thân
Bất Hại và Thận Đáo. Tuy có tài nhưng ông không được vua nước Ngụy là
Ngụy Huệ Vương trọng dụng, được sự tiến cử của Cảnh Giám ông qua Tần
năm 361 TCN và được vua Hiếu Công trọng dụng 2 năm sau đó.
Ông chủ trương thay đổi và cải cách mặc dù vấp không ít sự phản đối,
nhưng ông cho rằng, các vị vương khác nhau có hệ thống cai trị khác nhau,
nhưng đều lập được vương nghiệp vậy thì làm khác thời trước thì chưa hẳn
là không tốt.
Được tin dùng, ông liền cho ban hành các chính sách mới, đối xử công
bằng với tất cả mọi người, từ bậc đế vương đến thường dân. Ông cũng cho
mọi người thấy rằng, luật vua ban ra là nghiêm minh, phải thực hiện.
Chính bản thân Thái tử cũng có lần phạm pháp, ông cũng phạt cả Thái
Tử, nhưng do Thái Tử sẽ lên làm vua nên hai phó sư của Thái Tử do dạy
học trò không nghiêm nay phải chịu tội thay. Từ đó dân chúng tuyệt đối tuân
theo lệnh của ông, của rơi ngoài đường không ai dám lượm, chốn rừng sâu

cũng không còn trộm cướp, chẳng bao lâu Tần trở nên hùng mạnh, có thể
đối đầu với Ngụy.
Năm 350 TCN ông lại biến đổi Pháp một lần nữa về hành chánh và tài
chính, khuyến khích dân khai hoang mở đất. Ít năm sau đó, Tần trở nên
hùng cường, đánh thắng Ngụy và kể từ đó Ngụy không thể ngoi lên được
nữa.
Ông có công với Tần nhưng luôn bị đám quần thần ganh ghét vì ông
đã đụng chạm đến quyền lực của bọn chúng, bắt chúng cũng phải chịu tội
như dân thường
Sau khi vua Hiếu Công mất đi, Huệ Vương (chính là Thái Tử năm xưa
bị ông trừng phạt) lên nối ngôi. Sẵn có thù xưa và bị đám quần thần dèm
pha, Huệ Vương đã cho người truy sát ông.
Trang 5/12
Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
Bí bách quá ông phải trốn về nước Ngụy, nhưng nước Ngụy xua đuổi
ông. Ông phải quay về Tần và bị giết ở Tần.
Học thuyết chính của ông như sau:
- Thứ nhất, Pháp phải nghiêm, ban bố rộng khắp và ai cũng phải thi
hành. Pháp luật đã định rồi thì không được bàn thêm, không được
hiểu theo hướng có lợi cho bất cứ một ai.
- Thứ hai, luật phải phạt nặng để dân chúng sợ mà không dám phạm.
Về thưởng, ông cho rằng làm điều thiện là bổn phận, nên không chú
trọng; nhưng ông lại trọng thưởng những người cáo gian.
- Thứ ba, ông không coi trọng thương mại, khuyến khích dân khẩn
hoang và áp dụng chính sách “ ngụ binh ư nông” của Quản Trọng.
- Thứ tư, ông đánh mạnh vào giai cấp quý tộc không có công với đất
nước nhưng vẫn được sống sung sướng do hưởng tước lộc cha ông
để lại. Điều này khiến cho đám quý tộc, lúc bấy giờ còn mạnh và quật
lại, dẫn đến kết cục bi thảm của ông sau này.
Ngoài ra Pháp gia còn có đóng góp của Tử Sản nước Trịnh, Lý Khôi

nước Ngụy, Ngô Khởi nước Ngụy… làm cho học thuyết Pháp gia hình
thành rõ ràng nên ba phái : Thế, Thuật và Pháp.
2.2. Thuyết Pháp trị của Hàn Phi
Hàn Phi (280TCN – 233TCN), vốn thuộc dòng dõi
quý tộc nước Hàn. Ông theo học đạo Nho từ nhỏ với thầy Tuân Tử nhưng
lại có tư tưởng rất khác biệt với thầy. Nho Gia chú trọng về giáo lý, lễ nghĩa;
còn ông với Lý Tư – một bạn học đồng môn thì lại nặng về Pháp chế và
quyền thuật, khác hẳn hoàn toàn với đạo Nho.
Ông viết rất nhiều sách và tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Hàn Phi
Tử viết thành hai mươi hai quyển và co tất cả năm mươi lăm thiên. Ông
nhiều lần dâng kiến nghị lên vua Hàn nhưng không được trọng dụng. Khi
tác phẩm của ông truyền sang nước Tần, vua Tần đọc được, cảm thấy thán
phục và có ý muốn được gặp mặt. Cơ hội ông diện kiến Tần sau này cũng
đến, do khi Tần vây đánh Hàn, vua Hàn cử ông sang Tần làm sứ giả, thuyết
phục Tần đừng đánh Hàn. Chủ trương của ông không được bạn học cùng
thời là Lý Tư tán thành và do ông cứ nấn ná ở lại Tần nên Lý Tư sợ ông
tranh giành vị trí. Năm 233TCN, Lý Tư cùng với Diêu Giả lập mưu hãm hại
Hàn Phi, kết thúc cuộc đời khi chưa đầy năm mươi tuổi.
Trong lịch sử Trung Quốc, Hàn Phi là một triết gia bị ngộ nhận nhiều
nhất. Do tư tưởng của ông khác hẳn với Nho gia, vốn là học thuyết dành
Trang 6/12
Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
được địa vị chính thống tại Trung Quốc nên có dư luận cho rằng học thuyết
của ông là tà thuyết, thậm chí dị đoan.
Nội dung chính:
Hàn Phi tuy là học trò của Tuân Tử, nhưng đã bỏ đạo Nho theo đạo Pháp.
Hàn Phi phủ định đức tính nhân nghĩa của nhà Nho, tự sáng lập ra triết lý
chính trị riêng, có giá trị rất đáng kể. Triết lý chính trị của Hàn Phi, bắt nguồn
từ tư tưởng "Phú quốc cường binh" của Ngô Khởi cùng Thương Quân, hình
thành một hệ thống gồm ba chủ điểm là: Pháp, Thuật và Thế.

- Pháp: Hàn Phi định nghĩa cho "Pháp" có ba điểm chính:
(1) Là pháp lệnh do cửa quan ban ra, mọi người đều phải tuân theo.
(2) Nội dung chính yếu của pháp lệnh là Thưởng và Phạt.
(3) Pháp ví như tấm gương sáng có thể soi thấu tà gian; pháp ví như cán
cân, tiêu biểu cho lẽ công bằng.
Nếu xét theo quan niệm hiện đại, thì hàm nghĩa của "Pháp" gồm có hai
mặt tích cực và tiêu cực. Về mặt tiêu cực là có tính cách phòng ngừa, pháp
đã quy định sẵn, trường hợp phạm vào lệnh cấm nào, thì phải chịu theo
hình phạt ấy; về mặt tích cực thì, có những điều khoản bảo đảm quyền lợi
chính đáng cho người dân. Nhìn lại cái gọi là "Pháp" mà Hàn Phi luôn luôn
nhấn mạnh, thì chỉ có mặt tiêu cực thôi. Nói cách khác là, Pháp của Hàn
Phi, chỉ có những điều do kẻ thống trị đòi hỏi ở nhân dân thôi, ngược lại,
nhân dân chẳng có quyền đòi hỏi điều gì cả ở kẻ thống trị. Đọc sách "Hàn
Phi Tử", người ta thấy chữ "Pháp" hay gắn liền với chữ "Cấm". Vậy cái gọi
là Pháp tức là lệnh cấm, là những gì mà kẻ thống trị đòi hỏi một chiều ở
người dân, ai làm đúng với lệnh đó thì được thưởng, trái với lệnh đó là phải
thọ phạt. Thưởng và phạt là hai cái cán, giúp cho kẻ thống trị kiểm soát,
thậm chí nô dịch nhân dân. Để pháp lệnh được thi hành hữu hiệu, đòi hỏi
kẻ hành pháp phải công bằng vô tư. Hàn Phi đã viết trong thiên "Ngũ xuẩn"
rằng: "Phù thùy khấp bất dục hình giả, nhân giã; nhiên nhi bất khả bất hình
giả, pháp giã. Tiên vương thắng kỳ pháp, bất thính kỳ khấp". (Phàm là
người rơi lệ, không đành lòng gia hình cho kẻ khác, là Nhân; nhưng buộc
không thể không gia hình cho kẻ khác là Pháp. Tiên vương sở dĩ đã thắng
lợi thành công, là nhờ vào Pháp, chẳng màng đến tiếng khóc than). Theo
quan niệm của Hàn Phi như vậy, thì Pháp chẳng những có ý nghĩa pháp
lệnh quốc gia về mặt chính trị, đồng thời còn là tiêu chuẩn tối cao về giá trị
xã hội nữa. Do đó, Hàn Phi đã đả kích hầu hết các học thuyết khác, kể cả
Khổng - Mạnh, Lão – Trang và Mặc Tử nữa. Theo Hàn Phi, nội dung chính
yếu của Pháp là thưởng và phạt. Sở dĩ phải nhấn mạnh vấn đề thưởng
phạt, là vì có ba nguyên nhân sau đây:

1/ Người ta có tâm lý ham thưởng sợ phạt, nên áp dụng luật thưởng phạt,
là phương pháp cai trị hữu hiệu nhất.
2/ Nếu vua chúa để mắt nhìn, để tai nghe và dùng đầu óc suy tư thì rất dễ
bị thần thuộc a dua lừa bịp. Một khi đã áp dụng luật lệ thưởng phạt, thì sẽ
tránh được tệ hại đó bởi điều thưởng phạt là phán xét theo sự kiện khách
quan, việc gì đáng thưởng, điều nào đáng phạt, đều được định sẵn bằng
luật lệ minh bạch, khỏi bị ảnh hưởng bởi tình cảm chủ quan
Trang 7/12
Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
3/ Thưởng phạt là lợi khí sắc bén, để vua chúa kiểm soát thần thuộc. Bá Di,
Thúc Tề vì tưởng niệm cố quốc, bất mãn chính trị mà chịu chết đói trên núi
hoang, được Khổng Tử tôn là hiền sĩ, nhưng với Hàn Phi thì cho rằng,
những người chẳng ham thưởng, không sợ phạt như vậy, là "hạng thần dân
vô ích", theo tiêu chuẩn giá trị chữ "Pháp".
Ta thấy rằng Pháp và Thuật là công cụ không thể thiếu của các bậc
đế vương (Hàn Phi : “ Thử bất khả nhất vô, giai đế vương chi cụ giả “).
Nhưng chỉ có Pháp và Thuật mà không có thế thì vua không thể chế ngự
bầy tôi. Chỉ có Thế cũng không trị được dân, phải kết hợp cả ba thì vua mới
có thể chế ngự bầy tôi và cai trị được dân chúng được.
Hàn Phi ghét kẻ trị quốc không chăm lo tu sửa pháp chế rõ ràng, mà
cứ dùng uy thế của mình để chế ngự bầy tôi; không làm cho nước giàu binh
mạnh bằng cách dùng hiền tài, mà trái lại cứ dùng bọn sâu mọt dâm loạn và
tham nhũng, đặt chúng ở địa vị cao hơn người có công lao và thực tài. Hàn
Phi xem xét sự biến đổi được mất của các nước trong quá khứ mà viết các
thiên Cô Phẫn, Ngũ Đố, Nội Ngoại Trữ Thuyết, Thuyết Lâm, Thuyết Nan.
Hàn Phi Tử nói : “ Ngựa có thể chở nặng và kéo xe đến nơi xa là nhờ
gân sức. Bậc thiên tử có vạn cỗ xe và nhà vua có ngàn cỗ xe, sở dĩ khống
chế được thiên hạ và chinh phục được chư hầu là do uy thế. Uy thế chính
là gân sức của vua chúa vậy.”
Ai mà chẳng sợ trừng phạt và thích khen thưởng? Cho nên nhà vua dựa

vào tâm lý này của con người để thi hành uy thế của mình.
- Thuật: Là một quan niệm rất quan trọng, trong tư tưởng của Hàn Phi,
luôn luôn gắn liền với "Pháp", chỉ có khác ở chỗ, Pháp để trị dân, còn Thuật
thì để nhà vua kiểm soát thần thuộc. Vậy Thuật của vua là thuật gì? Một là,
"Cách tắc nhi bất thông, chu mật nhi bất hiện". (Ngăn cách đừng thông
nhau, kín đáo đừng lộ liễu); hai là, giấu kỹ tình cảm ghét thương. Về điểm
một là bảo, kẻ làm vua nên sống cách biệt với quần thần, đừng để họ thấy
cử chỉ của mình, mà đoán biết ý định chân chính của mình; điểm hai là bảo,
người làm vua phải tập làm sao cho tình cảm ai lạc hỷ nộ của mình, chẳng
bao giờ biểu lộ ra ngoài, có vậy thì đám thần thuộc sẽ không cách nào khai
thác, lợi dụng cảm tình của mình. Xem đó thì ai muốn có "Thuật" làm vua,
cũng chẳng dễ gì, cần phải học hỏi thêm công phu tu thân, dưỡng tính vừa
hư và tĩnh của cả nhà Nho lẫn nhà Đạo, mới mong thành công được. Để
giữ gìn quyền lực tuyệt đối của nhà vua, Hàn Phi khuyên các vua chúa
không nên tín nhiệm kẻ khác. Đã không nên tín nhiệm mà thực tế lại đòi
hỏi, không thể không dùng người làm việc cho mình, cho nên cần phải có
thuật khống chế người, bằng những pháp lệnh khắt khe, khiến cho người ta
khiếp sợ, phải cúi đầu khuất phục. Thời Chiến Quốc, xu hướng chính trị
chung là mưu cầu quốc gia phú cường (giàu mạnh), để đi tới mục tiêu cuối
cùng là đại thống nhất, cho nên đòi hỏi phải có nhà lãnh đạo chí tôn chí
cường, thì Hàn Phi quan niệm Pháp và Thuật là điều kiện tất yếu, khả dĩ
đem lại quyền lực tuyệt đối, cho nhà lãnh đạo chí tôn chí cường.
- Thế: Với Hàn Phi, "Quyền lực tối thượng" có một danh từ riêng, gọi là
"Thế”. Nguyên quan niệm về Thế, là do Thân Đáo khởi xướng, kịp đến tay
Hàn Phi, thì càng coi đó là điều kiện căn bản nhất của nhà lãnh đạo. Nếu
Trang 8/12
Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
Vua mà thiếu cái Thế mạnh thì Pháp không thể hành, và sở dĩ chúa phải
dùng đến Thuật, là nhằm bảo vệ cái Thế. Tóm lại, Pháp, Thuật, Thế là ba
mặt của quyền lực tối thượng, tuy có khác nhau, nhưng liên đới vô cùng

chặt chẽ với nhau. Trong tư tưởng của Hàn Phi, quyền lực là tất cả, như đã
viết trong thiên "Hiển học": "Thị cố lực đa tắc nhân triều, lực quả tắc triều ư
nhân, cố minh quân vụ lực". (Bởi vậy cho nên, quyền lực nhiều thì người ta
đến chầu mình, quyền lực kém thì phải đi chầu người ta. Do đó, minh chúa
phải nắm lấy quyền lực) và "Quyền thế bất khả dĩ tá nhân, thượng thất kỳ
nhất, hạ dĩ vi bách". (Quyền thế chớ có chia sẻ cho người ta, khi bề trên
chia mất một quyền, thì kẻ dưới sẽ lạm dụng thành trăm). Hàn Phi không
những coi trọng quyền lực, còn là kẻ sùng bái quyền lực. Đó là ý nghĩ
chung của kẻ chủ trương độc tài, chuyên chế từ cổ chí kim, từ Đông sang
Tây, họ coi quyền lực như là chân lý, có quyền lực là có tất cả.
Cái vô vi trong Pháp gia:
Vua để cho bầy tôi tự hành động, nhưng ngài nắm hai cái cán để
thưởng hay phạt hiệu quả công việc của họ. Chức trách của vua giống như
chức trách của một thuyền trưởng lèo lái một con thuyền lớn. Ở trên cao,
thuyền trưởng chỉ làm một cử chỉ nhỏ, thuyền sẽ theo ý ông ta mà chuyển
động. Đó là đạo lấy một để chế ngự vạn. lấy tĩnh để chế ngự động. Đó cũng
mang dáng dấp của thuyết quản trị hiện đại ngày nay.
Sự việc trong thiên hạ thì rất nhiều, nếu vua đích thân giải quyết, thì
ngay cả hạng vua tài ba vạn năng cũng không làm nổi. Quản lý theo hình
thức trực tiếp sẽ mang lại giới hạn nhất định, quản lý theo hình thức phân
quyền sẽ mang lại sự tập trung quyền lực và khả năng giải quyết công việc
cao nhất, đó cũng chính là cái vô vi trong Pháp gia.
Hàn Phi vốn thích cái học hình danh và pháp thuật, nhưng gốc của học
thuyết là ở Hoàng Đế và Lão Tử, bởi quả thực cái học của Pháp gia chịu
ảnh hưởng của Đạo Gia rất lớn. Đạo gia nói để cho vạn vật tự làm cho nên
thông qua vô vi mà không gì không được làm. Vậy ở lĩnh vực chính trị cũng
vậy vua chúa chỉ cần ngồi im trên cao, để cho dân chúng tự làm.
Xu thế chính trị từ thời chiến quốc là nền chính trị do quý tộc nắm giữ
tiến tới nền chính trị quân chủ chuyên chế. Pháp gia chính là cơ sở lý luận
của nền quân chủ chuyên chế ấy, cũng giống như triết học Mác – Lê nin

chính là cơ sở lý luận của chủ nghĩa xã hội.
II. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
Ảnh hưởng của Pháp gia: Pháp gia coi trọng quyền lực của nhà lãnh
đạo. Là một bước tiến lớn, trong tư tưởng chính trị thời cổ Trung Hoa. Mục
đích chính của quyền lực là để giúp cho nhà lãnh đạo có đủ phương tiện,
mưu cầu quốc gia phú cường, bằng chính sách "Canh chiến" do Hàn Phi đề
xướng. Tuy rằng Khổng Tử đã từng chủ trương "Tiên phú hậu giáo", nhưng
thật sự thì chữ "Phú” đó, chỉ chiếm một tỉ số rất nhỏ, trong nấc thang giá trị
của nhà Nho. Đến Mạnh Tử thì lại càng coi trọng nhân nghĩa hơn phú
cường, rõ ràng có khuynh hướng đi ngược lại với đòi hỏi của chính trị thời
đại, nên không được vua chúa các nước hoan nghênh. Mãi cho đến thời
Trang 9/12
Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
Tuân Tử, nhà Nho mới bắt đầu để ý tới vấn đề làm sao cho quốc gia giàu
mạnh, là bởi chịu ảnh hưởng về tư tưởng và thành quả cụ thể của Pháp gia
cùng thời. Hàn Phi coi phú cường là mục tiêu tối cao của quốc gia. Để đạt
tới mục tiêu phú cường đó, Hàn Phi chủ trương áp dụng chính sách "Canh
chiến", đưa hết trăm họ vào hệ thống tổ chức "Canh chiến". Được như vậy
thì vào thời bình, nhân dân sẽ nỗ lực canh tác, làm cho nước giàu, nhờ có
pháp lệnh khuyến khích; một khi xây ra chiến tranh, thì khối nông dân đã
được tổ chức sẵn trong thời bình, đều trở thành lính chiến, có thể đưa ngay
ra chiến trường chống giặc, như Hàn Phi đã nói: vô sự tắc quốc phú, hữu
sự tắc binh cường". (Ngày thường vô sự, thì làm cho nước giàu, khi biến cố
hữu sự, thì có sẵn quân mạnh) và "Hữu nạn tắc dụng kỳ tử, an bình tắc
dụng kỳ lực". (Khi hoạn nạn thì họ bỏ mình vì nước, lúc an bình thì họ ra
sức xây dựng quốc gia). Nếu chúng ta nhìn bằng con mất thời đại, thì thấy
chính sách "Canh chiến" thời xưa của Hàn Phi, chẳng khác gì cho lắm, so
với chế độ "Công xã nhân dân" thời nay của Mao Trạch Đông, coi nhân dân
như là công cụ, nô lệ của tập đoàn thống trị. Trên lịch sử Trung Hoa, tư
tưởng của Pháp gia đã gây nên ảnh hưởng chính trị, tạo cho Tần Thủy

Hoàng thành tên bạo chúa.
Đầu thời Xuân Thu là thời kỳ chính trị quý tộc, tức là “ thời thượng cổ
dân chúng thân ái người thân thuộc và yêu quý những thứ riêng tư”. Rồi
sau giai cấp bình dân thắng thế, Nho và Mặc xem trọng và sử dụng người
tài năng. Vua hoặc một hai nhà quý tộc trong nước nhờ trọng người tài mà
được người tài giúp, nên tước bỏ quyền lực của phe đối lập mà định ngôi vị
độc tôn của mình. Nhưng bọn người tài ấy lại tranh thua tài trí với nhau, lâu
ngày sinh ra loạn, nên vua ghét mà hạn chế họ.
Cái học của Pháp gia góp thêm phần lý luận cho xu thế tôn trọng quần
quyền và Pháp trị. Sự sụp đổ của nền chính trị quý tộc dẫn đến sự tự do
cạnh tranh của nhân dân trên lĩnh vực nông nghiệp và thương nghiệp, tạo
nên tầng lớp phú hào, đó cũng chính là xu thế tự nhiên của xã hội đương
thời.
Cái tiến bộ của Pháp gia chính là coi trọng cái mới và tiến bộ, đó chính
là xu hướng phát triển tất yếu của xã hội.
Hàn Phi Tử nói : “ nay nếu có kẻ ở thời Hạ Hậu mà bắt chước cách lấy
cây làm tổ và dùi cây lấy lửa thì ắt sẽ bị ông Cổn và ông Vũ chê cười; kẻ ở
đời Ân đời Chu mà bắt chước cách đào sông cuả đời trước thì ắt sẽ bị vua
Thang và vua Vũ chê cười. Vậy có kẻ đang ở đời nay khen đạo của Nghiêu,
Thuấn, Thang, Vũ thì ắt sẽ bị thánh nhân mới mẻ của đời nay chê cười […]
Ngày nay những kẻ muốn lấy chính sách của các vua đời xưa mà cai trị dân
chúng thời nay, thì khác nào ôm cây đợi thỏ. Cho nên luận sự việc phải dựa
vào thời nay, và sự chuẩn bị biện pháp phải thích hợp với sự việc”.
Sự trọng yếu của Pháp luật:
Hàn Phi nói : “ Bỏ Pháp luật và thuật cai trị mà lấy tâm để cai trị thì
Nghiêu không thể chỉnh đốn một nước. Bỏ quy củ mà tùy ý đo lường thì Hề
Trọng không thể làm xong một cái bánh xe. Bỏ thước tấc mà làm sai lệch
dài ngắn thì Vương Nhĩ không thể đo trúng được phân nữa. Nếu một ông
vua tài cán trung bình nắm giữ Pháp luật và thuật cai trị; và nếu một người
Trang 10/12

Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
thợ vụng nắm giữ quy cũ và thước tấc, ắt muôn việc sẽ không sai sót. Kẻ
làm vua thiên hạ nếu có thể vứt bỏ cái mà thợ giỏi không làm được mà giữ
cái mà thợ vụng có thể làm được, thì nhân lực sẽ được dùng hết và công
danh sẽ được tạo lập.”
Pháp luật đã thành lập rồi thì “ vua và bầy tôi, trên dưới, quý tiện, đều
noi theo Pháp luật ”. Mọi học thuyết của tư nhân đều không được phép nghị
luận pháp lệnh, tức là phải cấm họ.
Pháp luật là tiêu chuẩn tối cao cho ngôn luận và hành vi của dân chúng
trong nước, cho nên ngôn luận và hành vi nào không theo đúng pháp lệnh
thì phải cấm.
Thuật mà Pháp gia giảng chính là những cách thức vua dùng để chế
ngự bầy tôi. Trong đó có một cách thức mang tính triết học khá nhiều, gọi là
“ tổng hợp danh xưng với thực tế và khảo sát chúng ”. Đó là lý luận về
chính danh và thực được ứng dụng vào nền chính trị thực tế.
Pháp gia xem phần lớn con người là ác, đó là một hạn chế rất lớn
của Pháp gia, khác với “ nhân chi sơ tính bản thiện” của Nho Gia.
Con người đến với nhau là do có thể lợi dụng lẫn nhau, họ đối xử tốt
với nhau cũng vì tư lợi cá nhân. Và nếu quả đúng như thế thì cách thưởng
phạt có thể dùng được.
Ở phương diện kinh tế, Hàn Phi cho rằng vì con người vốn trục lợi, nên
cứ để họ tự do cạnh tranh với nhau, do đó Hàn Phi phản đối Nho Gia về
chủ nghĩa bình quân ruộng đất. Ông nói : “ Khi bàn về vấn đề trị nước, đa
số các học giả thời nay đều cho rằng: “ Cho người nghèo ruộng đất tức là
làm cho người vô sản khá lên.” Nay giả sử mọi người có hoàn cảnh như
nhau và họ không được mùa cũng như không có nguồn lợi khác từ bên
ngoài, mà chỉ thuần túy tự cung tự cấp. Như vậy nếu như họ không cố sức
làm việc thì phải tiết kiệm. Giả sử mọi người có hoàn cảnh như nhau và họ
không bị đói kém, bệnh tật, tai họa. Nếu có kẻ bần cùng, thì ắt là hắn xa xỉ
hoặc lười nhác. Kẻ xa xỉ và lười nhác thì nghèo, kẻ cố làm lụng và tiết kiệm

thì giàu. Nay nhà vua đánh thuế người giàu để trợ cấp cho người nghèo; đó
là cướp đoạt của người giàu để ban cho kẻ xa xỉ và lười nhác. Như thế mà
muốn dân siêng mà làm lụng tiết kiệm cũng không được”.
Ông cũng cho rằng, khi xưa tài nguyên vốn nhiều nên người dân không
tranh giành nhau. Càng ngày con người càng đông, dân đông mà tài
nguyên ít, làm việc lao lực mà không đủ nuôi thân, tranh giành nhau là khó
tránh khỏi. Vả lại đời sống con người mỗi lúc một khá hơn, nhu cầu cho
cuộc sống ngày càng cao, nên nhu cầu về tài nguyên mỗi lúc cũng phải
tăng thêm. Điều này rất đúng với triết lý của kinh tế vĩ mô hiện đại, lượng tài
nguyên là hữu hạn, nhu cầu là vô hạn. Ông cũng cho rằng chính do khi xưa
của cải tài nguyên nhiều, mọi người đâm ra khinh của cải, vật chất. Các
trường phái xưa cũng coi nhẹ vật chất mà chỉ chú trọng vào lễ giáo, nhân
nghĩa. Ngày nay, họ tranh làm quan tranh chức quyền cũng vì quyền thế
đem lại cho họ nhiều lợi ích hơn, cho nên thánh nhân bàn luận của cải và
quyền thế nhiều hay ít để làm chính trị.
Bởi con người có tính ác, cho nên phải lấy chính trị để dẫn dắt họ và
lấy hình phạt để sửa chữa họ.
Trang 11/12
Triết học Pháp gia – Những giá trị và hạn chế SV. Nguyễn Thuận Đức
Các nhà triết gia thời Pháp gia đem hết tài trí và học lực cùng với cơ
sở lý luận ấy để thực hiện những cải cách triệt để, giúp các bậc vua chúa
thời ấy nên mâu thuẫn với giai cấp quý tộc, giai cấp sắp bị chối bỏ là đương
nhiên.
Một điều dễ nhận thấy là xã hội Trung Quốc ngày ấy ngày càng trở nên
rộng lớn và phức tạp hơn, vì thế phương pháp cai trị xưa không còn thích
hợp nữa, nên cần có một phương pháp cai trị mới. Cái cũ mất đi, cái mới
xuất hiện. Việc các nhà tư tưởng Pháp gia không sợ cái họa diệt thân mà
lập ra pháp và đặt một chuẩn mực mới cho việc cai trị, đó cũng là trách
nhiệm của kẻ sĩ đối với đời vậy.
Kết luận

Bài viết trên tuy không cho được cái nhìn hoàn toàn đầy đủ, nhưng
phần nào khái quát được những điểm cơ bản chính yếu của Pháp gia của
Hàn Phi. Qua đó, ta hiểu được nguồn gốc hình thành nên Pháp gia, các học
thuyết cơ bản trong Pháp gia và sự phát triển của nó, sự đóng góp của nó
vào sự phát triển của lịch sử.
Pháp gia của Hàn Phi cũng còn nhiều hạn chế và hạn chế lớn nhất
chính là xem con người vốn là tính ác. Do đó việc điều hành đất nước dần
dần biến thành việc cai trị, con người vốn không được coi là “ nhân chi sơ
tính bản thiện”, nên đã tạo nên một Tần Thủy Hoàng bạo chúa trong lịch sử.
Đó là hạn chế lớn nhất của Pháp gia.
Hiện nay chúng ta vẫn kêu gọi xây dựng nhà nước Pháp quyền, bắt
buộc mọi người phải thực hiện theo Pháp luật, bất kể là ai. Điều này giống
với Pháp gia ở chỗ đều dùng pháp để quản lý đất nước, khác với Pháp gia
ở chỗ không chỉ có giai cấp thống trị đòi hỏi nông dân mà hiện giờ nông
dân được quyền đòi hỏi lại ở cả cấp quản lý nhà nước. Đó cũng là một sự
tất yếu của Triết học “ phát triển là sự vật động có thay đổi cấu trúc của
sự vật, là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ
thống vật chất, do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về
chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định ”.
Trang 12/12

×