Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận triết học CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH, NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.44 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Tiểu luận triết học
Đề tài:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Người thực hiện : Đỗ Đăng Khoa
STT : 78 – Nhóm 8 (Nhóm trưởng)
Lớp : Cao học Đêm 5 – Khóa 21
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
TP.Hồ Chí Minh – Năm 2012
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương 1: Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh 2
1.1 Những tư tưởng cơ bản của F.Bacon 2
1.1.1 Vài nét về F.Bacon 2
1.1.2 Những định hướng xây dựng triết học và khoa học mới 2
1.1.3 Quan niệm về thế giới và con người 3
1.1.4 Quan niệm về nhận thức và phương pháp nhận thức 3
1.1.5 Quan niệm về chính trị xã hội 4
1.2 Những tư tưởng cơ bản của T.Hobbs 5
1.2.1 Lý luận về triết học tự nhiên 5
1.2.2 Lý luận về triết học xã hội 6
1.3 Những tư tưởng cơ bản của J.Locke 6
1.3.1 Lý luận về cảm giác và kinh nghiệm 6
1.3.2 Lý luận về đặc tính của sự vật. 7
Chương 2: Những giá trị và hạn chế chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh 8
2.1 Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của F.Bacon 8
2.2 Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của T.Hobbs 12


2.3 Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của J.Locke 13
Kết luận 14
Tài liệu tham khảo
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
I. Địa điểm: Phòng A303 Trường ĐH Kinh tế TPHCM
II. Nội dung buổi họp lần 1: 18h ngày 21/12/2011, vắng 01: Hà Đăng Khôi
- Chính thức bầu chọn nhóm trưởng (đã được đề cử qua mail trước đó)
- Nhóm trưởng đề xuất cách làm việc, đưa ra ý kiến về đề cương sơ bộ của
một bạn đã đóng góp. Các thành viên cùng nhau thảo luận và thống nhất đề
cương chung cho cả nhóm. Cả nhóm tiếp tục thảo luận trực tiếp về dàn ý
chương 1 trên cơ sở bản thảo do một thành viên trong nhóm đã soạn sẵn.
Nhóm trưởng tổng hợp ý kiến của các thành viên và thống nhất nội dung
chương 1 cho cả nhóm.
- Nhóm trưởng đề nghị thêm các biện pháp tìm những nguồn tài liệu tham
khảo khác, đề xuất gom tài liệu thành một cơ sở dữ liệu chung cho cả nhóm.
Nhóm trưởng yêu cầu cả nhóm tiếp tục về đọc thêm tài liệu để rút ra những
giá trị và hạn chế và gửi cho các thành viên khác cùng nhau đọc và đánh giá.
Hạn chót gửi bài đóng góp là ngày: 10/01/2012.
III. Nội dung buổi họp lần 2: 18h ngày 11/01/2012, vắng 01: Hà Đăng Khôi
- Nhóm trưởng gửi cho cả nhóm tài liệu tham khảo đã tổng hợp được. Cả
nhóm tiếp tục thảo luận những điểm hạn chế và những đóng góp của chủ
nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh.
- Nhóm trưởng phổ biến lưu ý của giáo viên hướng dẫn về hình thức trình
bày tiểu luận. Cả nhóm thống nhất ngày gửi bài hoàn chỉnh là 14/02/2012.
Ngày 11 tháng 01 năm 2012
Nhóm trưởng
Đỗ Đăng Khoa
LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi người một tâm trạng, đó là cảm giác chung của từng thành viên trong
nhóm khi được thầy-TS Bùi Văn Mưa-giao nhiệm vụ nghiên cứu về chủ nghĩa duy

vật kinh nghiệm Anh. Có lẽ vì thời điểm đó, chỉ với một ít kiến thức tiếp thu từ
giảng đường, các thành viên trong nhóm vẫn chưa hiểu rõ ngay được những điểm
hạn chế và những giá trị mà trào lưu triết học này đã thật sự đóng góp cho nhân loại.
Theo thời gian, sau những ngày nghiền ngẫm, những cuộc thảo luận nhóm và
nhất là trên cơ sở tham khảo những tài liệu hữu ích của TS Bùi Văn Mưa, giờ đây cả
nhóm dường như đều có chung một tâm trạng. Đó là tâm trạng ngưỡng mộ dành cho
các bậc tiền nhân đã khai sáng cho cả một thời đại, đặc biệt là Sir Francis Bacon. Có
thể vì thế mà nhiều thành viên của nhóm đã không tiếc lời ca ngợi Bacon và những
người kế thừa tư tưởng của ông. Tất nhiên với nhận thức ngày nay, nhóm có thể
nhận ra những hạn chế trong các quan điểm của các nhà triết học duy vật kinh
nghiệm Anh. Nhưng cũng như ai đó đã đã từng nói: “Những lỗi lầm nơi một người
thường là sản phẩm của thời đại, đức hạnh và tài hoa nơi y mới chính thật là của y”.
Lịch sử luôn phán xét rất công bằng. Và lịch sử đã vinh danh F.Bacon, T.Hobbs và
J.Locke. D’Alembert gọi Bacon là “triết gia vĩ đại nhất, phổ quát nhất, hùng hồn
nhất trong các triết gia”. Lời khen đó liệu có phải là quá lời không?
Thời đại mà Bacon sống được xem là thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng
tư sản Anh. Đấy là thời đại của những công trình, của hy vọng và sự hùng mạnh, của
những bắt đầu mới, một thời đại đang chờ một tiếng nói vắn tắt mang tính quyết
định cho những đổi thay của xã hội. Liệu có chăng một mối liên hệ nào giữa sự phát
triển thịnh vượng của nước Anh trong giai đoạn này với tiếng nói của các nhà triết
học duy vật kinh nghiệm Anh? Nếu có một tiếng nói như thế và một mối liên hệ như
thế, thì đó phải là tiếng nói của F.Bacon, “tâm thức hùng mạnh nhất của thời đại tân
tiến”, “người đã rung chuông triệu tập những người đại trí cùng nhau” để công bố:
Châu Âu đã đến tuổi trưởng thành !
CHƯƠNG 1
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH
Từ thế kỷ XVII trở đi, Tây Âu trở mình dữ dội sau ngàn năm “yên tĩnh”,
Những cuộc cách mạng liên tục xảy ra làm cho quan niệm lẽ sống, cung cách ứng
xử, hoạt động thực tiễn và nhận thức dần dần thay đổi, sức mạnh tinh thần của lý trí

được khôi phục dần, khoa học từng bước chiến thắng thần học. [2,60]
Trong triết học thế kỷ XVII – XVIII, lý luận nhận thức là đối tượng được
nghiên cứu chuyên biệt. Thời bấy giờ có hai khuynh hướng: triết học kinh nghiệm
và triết học duy lý. Và chúng đã để lại một dấu ấn rất sâu trong khoa học và văn hóa
Phương Tây [2,61] Một khuynh hướng là khuynh hướng siêu hình học duy lý do
R.Descartes đặt nền móng, B.Spinoza và G.W.Leibnitz phát triển. Một khuynh
hướng nữa là khuynh hướng duy vật kinh nghiệm do F.Bacon sáng lập, T.Hobbes
phát triển theo hướng duy danh và J.Locke phát triển theo hướng duy giác.
1.1 Những tư tưởng cơ bản của Francis Bacon:
1.1.1 Vài nét về Francis Bacon (1561-1626):
Theo K.Marx, F.Bacon là nhà triết học vĩ đại,“ông tổ chủ nghĩa duy vật kinh
nghiệm Anh” và khoa học thực nghiệm. Lịch sử triết học Phương Tây chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng của ông. Quan điểm triết học của ông có những nội
dung cơ bản sau:
1.1.2 Những định hướng xây dựng triết học và khoa học mới
F. Bacon là một nhà tư tưởng có đầu óc thực tiễn của tầng lớp quý tộc cấp
tiến Anh, ông đòi hỏi phải chấn hưng đất nước. Nhưng muốn chấn hưng đất nước
cần phải thống trị giới tự nhiên, nghĩa là phải biết sử dụng sức mạnh của nó và bắt
nó phục vụ cho lợi ích con người. Đề làm được điều này thì cần phải phát triển khoa
học và triết học [1,132]
Theo Bacon xây dựng triết học và khoa học mới xuất phát từ 2 cơ sở là : tri
thức là sức mạnh và lý luận thống nhất với thực tiễn.
Bacon cho rằng triết học mới phải là khoa học của mọi khoa học, hoặc là cơ
sở của mọi khoa học. Khoa học mới là lý luận thống nhất với thực tiễn. Mục đích
của triết học mới và khoa học mới là xây dụng các tri thức lý luận chặt chẽ, khắc
phục lòng tin mù quáng [1,133]
1.1.3 Quan niệm về thế giới và con người
Quan niệm về thế giới:
Bacon cho rằng giới tự nhiên tồn tài khách quan, đa dạng và thống nhất:
- Tính khách quan : thế giới tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc

vào tình cảm, uy tín, nhận thức( cái chủ quan) của con người. Triết học và khoa học
không thể biết cái gì ngoài thế giới vật chất khách quan đó.
- Tính đa dạng: được lý giải một cách đúng đắn và đầy đủ nhờ vào quan niệm
về vật chất, về hình dạng, về vận động.
-Tính thống nhất: vật chất,hình dạng, vận động thống nhất với nhau nên nhận
thức bản chất của sự vật vật chất là khám phá ra hình dạng, là vạch ra các quy luật
vận động chi phối chúng [1,133]
Quan niệm về con người:
F. Bacon cho rằng con người là sản phẩm của thế giới, nó bao gồm thể xác và
linh hồn và đều được cấu tạo từ vật chất. Khoa học nghiên cứu con người và linh
hồn là khoa học tự nhiên [1,134]
1.1.4 Quan niệm về nhận thức và phương pháp nhận thức:
Quan niệm về nhận thức
F. Bacon cho rằng quá trình nhận thức xảy ra bắt đầu từ thế giới khách quan,
thông qua kinh nghiệm cảm tính, tiến đến tư duy lý tính để xây dựng các tri thức
khách quan về thế giới.
Cảm giác kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức: khoa học phải
là khoa học thực nghiệm sử dụng tư duy tổng hợp và phương pháp quy nạp để khái
quát các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại nhằm khám phá ra các quy luật, bản chất
của thế giới khách quan, đa dạng và thống nhất.
Tri thức khoa học luôn mang tính khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc
vào tình cảm, ý chí, lợi ích chủ quan của con người. Để đạt được những tri thức đó
cần phải loại bỏ những ảo tưởng ra khỏi quá trình nhận thức của chính mình [1,134]
Lý luận về ảo tưởng
Theo F. Bacon quá trình nhận thức của con người bị chi phối bởi những yếu
tố chủ quan như mắc phải các ảo tưởng nên rất dễ bị mắc sai lầm. Ông chia các loại
ảo tượng này thành bốn loại: ảo tưởng “loài”, ảo tưởng “hang động”, ảo tưởng “thị
trường” và ảo tưởng “nhà hát”. [1,135]
Và để khắc phục những các ảo tưởng này, theo F.Bacon thì phải khách quan
hóa hoạt động nhận thức. .

Quan điểm về phương pháp nhận thức
Bacon cho rằng từ trước đến nay , tư duy cũ chỉ sử dụng chủ yếu phương
pháp “con nhện” và phương pháp “con kiến”. Đây là phương pháp nhận thức sai
lầm. Và ông cho rằng muốn khắc phục hai phương pháp này nhà khoa học thật sự
phải là nhà khoa học thực nghiệm biết sử dụng điêu luyện phương pháp “con ong”.
Theo Bacon quá trình nhận thức đúng đắn cần phải trải qua ba bước:
-Dựa vào giác quan, thông qua quan sát, thí nghiệm, tiếp cận thế giới tự nhiên
đa dạng và sinh động để thu được những tài liệu kinh nghiệm cảm tính.
-So sánh, đối chiếu, hệ thống hóa, tổng hợp những tài liệu kinh nghiệm cảm
tính này để xây dựng các sự kiện khoa học và phát hiện ra mối quan hệ nhân quả
giữa chúng.
-Bằng quy nạp khoa học,khái quát các sự kiện khoa học, phát hiện ra mối liên
hệ nhân quả, xây dựng giả thuyết khoa học để lý giải các hiện tượng đang nghiên
cứu, từ giả thuyết này rút ra các hệ quả tất yếu của chúng.[1,137]
1.1.5 Quan niệm về chính trị xã hội
F. Bacon chủ trưởng xây dựng một đường lối chính trị phục vụ lợi ích của
giai cấp tư sản. Ông đòi hỏi phải xây dựng một nhà nước tập quyền đủ mạnh để
chống lại mọi đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp quý tộc bảo thủ.
Phát triển một nền công thương nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức khoa
học và tiến bộ khoa học.Ông chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường khai sáng
khoa học, giáo dục và đào tạo mà không cần sự đấu tranh của nhân dân. [1,138]
1.2 Những tư tưởng cơ bản của Thomas Hobbs (1588 – 1679)
Thomas Hobbs là nhà triết học nổi tiếng đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy
vật Anh thế kỷ XVII. Ông đã hệ thống hóa và phát triển chủ nghĩa duy vật kinh
nghiệm, khắc phục tính thần học trong hệ thống triết học này. Cũng xuất phát từ
những quan điểm của F.Bacon nhưng ông cho rằng phải tách triết học ra khỏi thần
học, đồng thời coi các nghành khoa học còn lại chỉ là các lĩnh vực khác nhau của
triết học. Vấn đề trung tâm của triết học theo ông chỉ là vấn đề con người nhưng do
con người là một tạo thể của tự nhiên vừa là một tạo thể của xã hội nên triết học
cũng phải bao gồm hai bộ phận là triết học tự nhiên và triết học xã hội [1,138]

1.2.1 Lý luận về triết học tự nhiên:
Quan điểm về tự nhiên: Ông cho rằng giới tự nhiên không do Thượng đế hay
thần thánh tạo ra, nó có trước con người, nó đã tồn tại và sẽ tiếp tục tồn tại .[1,139]
Quan điểm về con người: ông coi động vật và cả con người nữa đều chỉ là
những cổ máy phức tạp, mà hoạt động hoàn toàn do bên ngoài tác động nên. Từ đó
ông kết luận Thượng đế và lòng tin tôn giáo chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng con
người [1,139]
Quan điểm về nhận thức: T.Hobbs cho rằng mọi quá trình nhận thức đều dựa
vào ý tưởng có nguồn gốc từ thế giới bên ngoài. Quá trình nhận thức chỉ là quá trình
thao tác trên những cảm giác về những sự vật riêng lẻ. Do đều là nhận thức kinh
nghiệm nên nó chỉ mang lại những tri thức xác suất về cái riêng mà không thể mang
lại tri thức chính xác hiển nhiên về cái chung. Muốn có tri thức chính xác phải dựa
vào ngôn ngữ. Từ đó ông khẳng định chân lý là tính chất của các suy diễn về sự vật
do tư duy chúng ta tiến hành [1,140]
1.2.2 Lý luận về triết học xã hội:
Xuất phát từ quan niệm về con người, T.Hobbs cũng chia trạng thái tồn tại
của xã hội loài người thành hai trạng thái là trạng thái tự nhiên và trạng thái công
dân.
Trong trạng thái tự nhiên, ông cho rằng chính tính ích kỷ và hiếu chiến thống
trị của con người đã đẩy xã hội vào các cuộc chiến tranh triền miên. Con người
muốn thoát khỏi những bất hạnh đó phải từ bỏ quyền được làm tất cả thông qua việc
ký kết các khế ước xã hội.
Trong trạng thái công dân, bản tính tự nhiên của con người bị ức chế bởi bản
tính xã hội. Nhà nước thông qua các đạo luật của mình với nhiệm vụ là điều hành sự
phát triển của xã hội vì lợi ích chung sẽ trừng phạt công minh những ai vị phạm khế
ước xã hội. [1,142]
1.3 Những tư tưởng cơ bản của John Locke (1632 – 1704)
John Locke là đại biểu điển hình của hướng duy giác trong chủ nghĩa duy vật
kinh nghiệm Anh. Tác phẩm triết học lớn nhất của ông là Kinh nghiệm về lý tính
con người (1690). Triết học của ông chủ yếu đề cập đến những vấn đề nhận thức

luận. J.Locke đã kế thừa lý luận của Bacon và tiếp tục phát triển thêm. Ông cho rằng
mọi kinh nghiệm đều bắt đầu từ cảm giác. Ông khẳng định không có tri thức hay
năng lực bẩm sinh. Mọi nhận thức của con người đều bắt đầu từ các cơ quan cảm
tính thông qua quá trình hoạt động năng động của linh hồn mà sản sinh ra tri thức.
Ông phê phán lý luận về tư tưởng bẩm sinh của R.Descartes và học thuyết về khả
năng bẩm sinh của G.W.Leibnitz [6,286]
Trong những quan điểm của ông, nổi bật nhất là hai dòng lý luận: lý luận về
cảm giác, kinh nghiệm và lý luận về đặc tính sự vật.
1.3.1 Lý luận về cảm giác, kinh nghiệm:
J.Locke đã chia cảm giác của con người thành cảm giác bên ngoài và cảm
giác bên trong. Cũng tương tự như vậy kinh nghiệm theo ông cũng có hai loại là
kinh nghiệm bên ngoài và kinh nghiệm bên trong.
Kinh nghiệm bên ngoài là kết quả tập hợp các cảm giác phát sinh do sự tác
động của các sự vật khách quan lên cơ quan cảm tính của con người. Còn kinh
nghiệm bên trong là kết quả tập hợp các nội cảm phát sinh từ các phản xạ bên trong
hay các xúc cảm tâm lý chủ quan của con người. Chính luận điểm nổi tiếng “không
có cái gì trong lý tính, mà trước đó không có trong cảm tính” đã cho thấy J.Locke
hoàn toàn đứng trên lập trường duy giác [1,143]
Theo Locke, tập hợp những kinh nghiệm sẽ làm xuất hiện đời sống tâm lý, tư
tưởng của con người. Ông phân chia tư tưởng con người thành hai loại là tư tưởng
đơn giản và tư tưởng phức tạp. Tư tưởng đơn giản là tổng số những cảm giác của
con người, còn tư tưởng phức tạp là do những tư tưởng giản đơn kết hợp lại. Tư
tưởng phức tạp xuất hiện khi có sự hoạt động tích cực của lý trí như phân tích, so
sánh, đối chiếu, kết hợp với các cảm giác khác để hiểu sâu sắc hơn về sự vật [1,143]
1.3.2 Lý luận về đặc tính sự vật:
Xuất phát từ việc phân chia cấu trúc kinh nghiệm trên đây, J.Locke tiếp tục
phân chia đặc tính của sự vật thành hai loại: đặc tính có trước và đặc tính có sau.
Đặc tính có trước theo Locke là những đặc tính như vận động, đứng im, khối lượng,
hình dạng và mật độ…Đó là những đặc tính khách quan, không phụ thuộc vào cảm
giác con người, chúng không mất đi dù cho sự vật có biến đổi và nhiệm vụ của khoa

học là phải phát hiện ra những đặc tính đó.Đặc tính có sau có thể mang tính khách
quan cũng có thể mang tính chủ quan như âm thanh, màu sắc, mùi vị…Những đặc
tính này rất dễ biến đổi và có thể không giống nhau ở những người khác nhau tùy
thuộc vào cảm giác chủ quan của mỗi người [1,144]
CHƯƠNG 2
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH
2.1 Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của F.Bacon:
Bacon là một trong những người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của
thế giới. Tuy nhiên Bacon chỉ phân loại các dạng vận động theo cảm tính, chưa theo
các cấp độ khác nhau về cấu trúc của vật chất mà hầu như quy toàn bộ các dạng vận
động thành các hình thức vận động cơ học. Tuy nhiên việc coi đứng yên là một dạng
vận động, cũng coi như vận động là đặc tính cố hữu của vật chất ở Bacon đã là một
quan niệm duy vật và mang tính cách mạng trong bối cảnh lịch sử hồi đó [6,271]
Với hoài bão xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách quan,
Bacon đồng thời đã chỉ ra những hạn chế trong các khả năng nhận thức của con
người, những hạn chế không phải chỉ dẫn đến những sai lầm nhỏ nhặt và nhất thời
mà là những sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi trong nhận thức của con
người. Ông gọi chúng là những ảo tưởng. Lý luận về các loại ảo tưởng là một trong
những đóng góp tích cực nhất của Bacon cho triết học nhân loại. Những quan niệm
đó có nhiều điểm hợp lý và tiến bộ. Vì trong nhận thức và cả trong khoa học cần
phải có sự nghiên cứu và xem xét mọi thứ một cách khách quan chứ không nên chạy
theo uy tín của ai đó hoặc số đông. Bên cạnh đó việc sử dụng các thuật ngữ khái
niệm chưa chính xác là điều cản trở sự phát triển của khoa học mà bất cứ thời đại
nào cũng cần phải khắc phục [6,272]
Việc Bacon đòi hỏi phải nhận thức mọi việc hoàn toàn khách quan là hợp lý.
Ông nhận xét rất đúng vì con người thường hay chủ quan duy ý chí trong việc xem
xét sự vật hiện tượng. Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn toàn vai trò của cái
chủ quan trong nhận thức. Việc đòi hỏi phải nhận thức khách quan thuần túy của
ông là một điều không tưởng, tuy nhiên nó có ý nghĩa tích cực trong sự phê phán các

quan niệm thần học chủ quan kinh viện thời đó tạo bước ngoặc cho sự tiến bộ khoa
học của tất cả các nghành [6,274]
Nhìn chung trong việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ảo tưởng,
Bacon còn mang nặng tính trực quan. Chủ yếu ông nhận thấy khía cạnh nhận thức
luận của vấn đề chứ chưa đưa ra được các biện pháp khắc phục ảo tưởng một cách
hợp lý. Trên thực tế, các quan niệm sai lệch về sự vật hiện tượng mà con người
thường mắc phải xuất phát từ những hạn chế lịch sử của thời đại, từ những cơ sở
kinh tế xã hội cũng như cơ chế quan hệ xã hội. Song, công lao của Bacon trong học
thuyết về ảo tưởng là ở chỗ nó đặt vấn đề về cơ sở xã hội của quá trình nhận thức.
Mục đích xuyên suốt của học thuyết về ảo tưởng này của ông là khẳng định nhận
thức sự vật phải hoàn toàn khách quan, xem xét mọi cái phải trên tinh thần phê phán
cách mạng chứ không giáo điều [6,275]
Những đóng góp của Bacon không chỉ dừng lại ở đó, về mặt nhận thức luận
và phương pháp luận, ông còn là một trong những người đầu tiên nhận thấy những
điểm hạn chế trong học thuyết tam đoạn luận của Aristote mà từ trước tới giờ vẫn
được xem như là phương pháp nhận thức vạn năng suốt nhiều thế kỷ. Thuyết tam
đoạn luận của Aristote dưới diễn giải của trường phái kinh viện trung cổ mang nặng
tính tư biện máy móc trong nghiên cứu hiện thực. Do đó đứng trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật, Bacon khẳng định thuyết logic học này chưa tương xứng với quy
mô và đòi hỏi của giới tự nhiên và chỉ bảo vệ củng cố cho những sai lầm. Ông kết
luận việc sử dụng thuyết logic học này chỉ có hại hơn là có lợi và khởi xướng ra tư
tưởng logic mới với phương pháp nhận thức mới trên cơ sở kế thừa những mặt hợp
lý của phương pháp cũ [6,276]
Như đã trình bày ở trên phương pháp nhận thức mới của Bacon được triển
khai bắt đầu từ việc liệt kê những phương pháp nhận thức cơ bản đã được sử dụng.
Đó là phương pháp con nhện và con kiến. Phương pháp con nhện theo Bacon chỉ
xuất phát từ một vài bằng chứng và căn cứ nhỏ bé rồi vội vã đưa ra các tiền đề và
những khẳng định vô căn cứ về bản chất sự vật nên nhận thức cũng vì thế mà không
chắc chắn. Phương pháp con kiến thì chỉ giúp ta hiểu được những gì bên ngoài vụn
vặt chứ không thể khám phá được bản chất đích thực của sự vật. Trên cơ sở đó

Bacon đưa ra phương pháp con ong nhằm khắc phục những hạn chế của hai phương
pháp trên đồng thời kế thừa luôn những ưu điểm của chúng [6,277]
Phương pháp nhận thức tối ưu theo Bacon, là phương pháp quy nạp. Đây là
đóng góp rất lớn và rất có giá trị của Bacon. Vì ông chính là người đầu tiên khám
phá ra phương pháp quy nạp loại trừ. Quy nạp loại trừ tức là thu thập mọi dữ kiện
mà ta biết về sự vật sau đó phân tích và loại bỏ những dữ kiện phụ từ đó đi đến
khẳng định bản chất của sự vật sự việc [6,278]
Về phép quy nạp của Bacon, Macaulay cho rằng đó là phương pháp đã có từ
lâu. Mặc dù vậy thì điều này cũng không làm giảm bớt đi giá trị của những đóng
góp mà Bacon đã mang đến cho nhân loại. Vì đúng là phương pháp này đã có từ rất
lâu đời. Các triết gia và nhà khoa học thực nghiệm đã sử dụng quy nạp rất nhiều như
là một kỹ thuật để đưa ra những công thức toán, những định luật khoa học. Họ đã
dùng nó nhưng cho đến trước thời của Bacon nó vẫn chỉ là kinh nghiệm, phương
pháp làm việc và nghệ thuật tư duy của một số rất ít những người khôn ngoan.
Chính Bacon mới là người chuyển kỹ thuật đó thành một quy luật khoa học để có
thể giảng dạy cho tất cả mọi người [4,118]
Chính cả Bacon cũng nhận thấy trước sự lỗi thời trong phương pháp của ông,
bởi vì chính ông đã cho rằng thực hành khoa học sẽ tìm ra những phương pháp mới
hữu hiệu hơn là những phương pháp được nghĩ ra bởi những chính khách-những
người không phải là những nhà khoa học thực nghiệm chân chính. Ngay cả chính
những người yêu mến Bacon nhất cũng phải công nhận Bacon không phải là người
theo dõi và thấu hiếu rõ những trào lưu khoa học vào thời của chính ông. Bởi vì ông
quá bận rộn, đặc biệt với sự nghiệp chính trị của mình. Ông thích bàn luận hơn là
dành thời gian cho những tra cứu công phu. Nhiều tác phẩm của ông về khoa học và
triết học vẫn còn nhiều đoạn thiếu mạch lạc, trùng lắp mà nội dung lại chứa đựng
nhiều mâu thuẫn, ước vọng và mang tính giới thiệu là chính [4,120]
Ưu điểm và cũng là nhược điểm lớn nhất của Bacon nằm ở chính lòng ưa
chuộng sự thống nhất của ông. Ước vọng của ông là muốn phối hợp hàng trăm khoa
học lại. Ông muốn được như Platon-làm một người có thiên tài cao cả có thể nhìn
khắp mọi sự như đứng từ một mỏm đá cao. Như đã nói ở trên, ông ngã quỵ dưới

gánh nặng của công việc ông đã tự vạch ra cho mình. Ông thất bại vì đó là những
việc quá sức của một con người dù cho người đó có là ai. Đời người thì quá ngắn
ngủi mà ông thì lại muốn ôm đồm nhiều thứ, có lẽ vì thế mà nhiều người gọi đó là
thảm kịch của mọi thiên tài. Nhưng ngẫm cho cùng thất bại đó cũng không có gì
đáng chê trách và đó là điều vẫn thường thấy ở những vĩ nhân [4,121]
Quan điểm duy vật của Bacon thể hiện khi ông giải thích về bản chất của linh
hồn. Theo ông, linh hồn biết cảm giác và tồn tại trong óc người và vận động theo
các dây thần kinh và mạch máu. Nó cũng là một vật có thể xác, một loại vật chất
chân chính như lửa và không khí. Quan điểm này là một điểm hạn chế lớn trong tư
tưởng của ông. Nó cho thấy trường phái chủ nghĩa kinh nghiệm Anh vẫn còn là chủ
nghĩa duy vật tầm thường, chưa vượt xa được quan niệm các nhà duy vật Hy Lạp cổ
đại [6,279]
Bacon đã không thể đi vào miền đất hứa của khoa học nhưng ít ra đúng như
mong mỏi của mình, ông đã đứng được ở biên giới và chỉ ra cho nhiều thế hệ các
nhà triết học và khoa học thực nghiệm thế hệ sau thấy được con đường mà mình sẽ
đi và phải đi. Ông đã trở thành tiếng nói hùng hồn, lạc quan và có tính quyết định
của thời đại ông. Lịch sử không có mấy người là nguồn khởi hứng quan trọng cho
các nhà tư tưởng thế hệ sau như ông [4,121]
Lý luận về nhận thức của Bacon có đóng góp rất lớn đối với sự phát triển của
khoa học thời bấy giờ. Tuy nhiên Bacon cũng như nhiều nhà tư tưởng duy vật kinh
nghiệm Anh khác đã không thể đứng vững trên lập trường duy vật vô thần. Vì theo
quan điểm của trường phái này, khoa học và thần học không nên can thiệp vào công
việc của nhau. Khoa học nghiên cứu cái mà thần học không thể có được. Còn thần
học nghiên cứu cái mà khoa học không thể vươn tới được. Tính không triệt để của
chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh đã thể hiện rất rõ qua quan điểm này. Điều này
cũng phản ánh tính thỏa hiệp của giai cấp tư sản Anh thời bấy giờ [5,224]
Có thể nói sự nghiệp tư tưởng nước Anh đã đi theo đường hướng triết học
của Bacon. Hobbes thừa hưởng quan điểm của ông và xây dựng phát triển thêm cho
chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm. Do những hạn chế của thời đại và giới hạn về mặt
nhận thức nên tư tưởng của các triết học theo chủ nghĩa duy vật Anh vẫn không thể

tránh được ảnh hưởng của những tư tưởng thần học và siêu hình. Dù vậy về sau,
Locke theo phương pháp quy nạp của Bacon đã sáng lập ra một nền tâm lý học thực
nghiệm, nhấn mạnh thêm sự quan sát và loại bỏ đi phần nào tính thần học và siêu
hình.
Bacon quả thật đã có nhiều đóng góp vĩ đại nhưng thật ra ông còn có thể vĩ
đại hơn thế rất nhiều. Về cuối đời ông cảm thấy hối tiếc vì đã không từ bỏ chính trị
sớm hơn để dành thời gian cho văn chương, khoa học mà đặc biệt là triết học. Cũng
vì thế mà ta có thể nói chính sự nghiệp chính trị của Bacon đã phần nào làm giảm đi
sự vĩ đại của ông.
2.2 Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của T.Hobbs:
Về mặt bản thể luận, Hobbs cho rằng thế giới vật chất tồn tại khách quan,
không do thần thánh sang tạo ra cũng không phụ thuộc vào ý thức con người. Song,
thế giới tự nhiên mà ông nói tới là thế giới của những vật thể riêng lẻ, mọi sự vật
đều được quy về quan hệ số lượng cơ học, toán học vì vậy là một thế giới không
thuộc tính và không màu sắc. Đây là một bước lùi so với bức tranh thế giới nhiều
tính chất và màu sắc của Bacon [5,225]
Một điểm hạn chế khác của Hobbs là ông tuy coi vật chất luôn vận động .
Song, ông quy vận động của vật chất về vận động cơ học, đó là sự di chuyển giản
đơn máy móc của các vật thể trong không gian. Điều này bộc lộ rõ tính siêu hình
máy móc trong những quan điểm của ông.
Mặc dù có những hạn chế như vậy nhưng tư tưởng của Hobbs vẫn có nhiều
điểm tích cực. Ông phê phán tính thần học và học thuyết về “chân lý hai mặt” trong
tư tưởng của Bacon. Ông là một nhà vô thần, mọi lực lượng siêu nhiên đều bị loại
trừ ra khỏi triết học của ông. Theo ông gốc rễ của tôn giáo là do sự sợ hãi, do sự ngu
dốt đẻ ra, ý niệm “thiên thần” chỉ là một hình ảnh bịa đặt, lòng tin vào thượng đế
hay tôn giáo chỉ là sự tưởng tượng của con người. Tuy nhiên ông lại cho rằng cả con
người và nhà nước đều cần đến tôn giáo. Con người cần tôn giáo vì tôn giáo mang
lại cho con người niềm tin. Còn nhà nước cần tôn giáo để làm “cái dây trói buộc
trong xã hội” để khuyên răng mọi người tuân theo chuẩn mực của nhà nước. Nhà
thờ phải phục tùng nhà nước chứ không phải nhà nước phục tùng nhà thờ [5,226]

2.3 Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của J.Locke:
Sau Bacon và Hobbs, Locke đã kế thừa và phát triển thêm những tư tưởng
chủ nghĩa duy vật anh. Locke cho rằng mọi kinh nghiệm đều bắt đầu tư cảm giác.
Song khi lập luận về kinh nghiệm, Locke đã không đứng vững trên lập trường duy
vật. Ông cho rằng kinh nghiệm con người được chia thành hai loại. Đó là kinh
nghiệm bên ngoài và kinh nghiệm bên trong. Kinh nghiệm bên ngoài là kết quả của
sự tập hợp các cảm giác phát sinh do tác động của sự vật khách quan lên giác quan
con người. Còn kinh nghiệm bên trong là tập hợp các cảm giác bên trong con người,
hay những phản xạ, những cảm xúc cá nhân không liên quan đến sự vật khách quan.
Đây chính là kẽ hở trong lý luận về nhận thức của ông [5,227]. Tính không triệt để
trong chủ nghĩa duy vật của Locke còn thể hiện khi ông phân biệt một cách cực
đoan giữa “đặc tính có trước” và “đặc tính có sau”. [5,228]
Mặc dù triết học của Locke vẫn mang tính chất không triệt để và có những
điểm nhượng bộ chủ nghĩa duy tâm nhưng trong những luồng tư tưởng này chủ
nghĩa duy vật vẫn chiếm ưu thế. Vì lẽ đó những tư tưởng của ông vẫn được các nhà
duy vật Pháp thế kỷ XVIII kế thừa và phát triển [5,229]
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh thế kỷ XVII là triết học của giai cấp tư sản
đang lên, là ngọn cờ lý luận có chức năng chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách
mạng tư sản sau đó. Trường phái này đề cao vai trò triết học và khoa học thực
nghiệm, đặc biệt trong việc nhận thức tự nhiên nhằm giúp con người làm chủ giới tự
nhiên. Các nhà triết học đứng trên lập trường duy vật vô thần, chống lại thế giới
quan duy tâm, tôn giáo của nhà thờ. Do những hạn chế của thời đại nên thế giới
quan của họ nhìn chung vẫn còn mang tính siêu hình, máy móc và có phần thỏa hiệp
với xu hướng duy tâm.
Về con người, họ cho rằng con người cũng là sản phẩm của tự nhiên, là thể thống
nhất giữa cơ thể và ý thức. Họ bác bỏ linh hồn bất tử. Dù thế họ vẫn có cái nhìn máy
móc về con người, lấy yếu tố bản năng để giải thích bản chất con người.
Về nhận thức, các nhà triết học duy vật kinh nghiệm Anh đã nhận ra được một
phần nguồn gốc của nhận thức. Họ đề cao nhận thức cảm tính, của tư duy và thực

nghiệm khoa học nhưng lại chưa thấy được mối liên hệ giữa nhận thức và thực tiễn.
Về chính trị - xã hội, họ chống lại tư tưởng và trật tự phong kiến, đề cao nhà nước
dân chủ, tuyên truyền tư tưởng chính trị của giai cấp tư sản. Đáng tiếc là họ vẫn
chưa nhận ra được bản chất của nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị.
Về vấn đề tôn giáo, họ vạch trần bản chất và tính phản tiến bộ của tôn giáo nhưng
họ chỉ thấy nguồn gốc nhận thức mà chưa thấy được nguồn gốc xã hội của nó.
Từ các luận điểm trên ta có thể kết luận: chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh vẫn
còn mang những hạn chế của chủ nghĩa duy vật tầm thường. Tính không triệt để đó
đã được thể hiện thông qua cách mạng tư sản Anh. Mặc dù vậy những đóng góp của
trường phái này đối với triết học và khoa học thực nghiệm là rất lớn, như TS Bùi
Văn Mưa đã nhận xét, cùng với trường phái duy lý của R.Descartes, đây được xem
như hai thanh ray của đoàn tàu đưa nhân loại tiến thẳng vào kỷ nguyên mới: Kỷ
nguyên của văn minh và phát triển !
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học-Phần 1-Đại cương về lịch sử triết học, Lưu
hành nội bộ, Tp.HCM, 2011.
[2] Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học-Phần 2-Các chuyên đề về triết học Mác-
Lênin, Lưu hành nội bộ, Tp.HCM, 2011.
[3] Bùi Văn Mưa, Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới, Nxb Đại học Quốc
gia Thành Phố Hồ Chí Minh, 2008.
[4] Bùi Thanh Quất, Vũ Tình, Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, 2001.
[5] Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, 1998.
[6] Will Durant. Câu chuyện triết học qua chân dung Platon, Aristote, Bacon, Kant,
Spinoza, Voltaire, Spencer, Nxb Đà Nẵng, 2000.

×