Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm đất đến cấu trúc năng suất cỏ trồng tại xã đồng cốc, huyện lục ngạn, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.33 MB, 106 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




VI THỊ DUNG



NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA ĐỘ ẨM ĐẤT
ĐẾN CẤU TRÚC NĂNG SUẤT CỎ TRỒNG
TẠI XÃ ĐỒNG CỐC, HUYỆN LỤC NGẠN,
TỈNH BẮC GIANG


Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60.42.01.20


LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Hoàng Chung




Thái Nguyên - 2013





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, số liệu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nghiên cứu nào.

Thái Nguyên, ngày 13 tháng 04 năm 2013
Tác giả


Vi Thị Dung

XÁC NHẬN CỦA
KHOA CHUYÊN MÔN
XÁC NHẬN CỦA GVHD

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
LỜI CẢM ƠN


Hoàn thành luận văn này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới PGS.TS Hoàng Chung - người thầy đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt
những kinh nghiệm quý báu trong suốt quá trình học tập, tiến hành đề tài và
hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy PGS.TS Lê Ngọc Công cùng toàn thể các
thầy cô giáo, cán bộ, nhân viên khoa Sinh - KTNN, khoa Sau đại học - Đại học
Thái Nguyên, Viện Khoa học sự sống - Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã
nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong học tập nghiên cứu khoa học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cán bộ Trạm khí tượng thủy văn, phòng
thống kê, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Lục Ngạn, lãnh đạo Uỷ ban
nhân dân xã Đồng Cốc.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới toàn thể gia đình, bạn
bè đã luôn tạo điều kiện, động viên cổ vũ tôi trong suốt quá trình học tập và
hoàn thành luận văn.
Trong quá trình thực hiện luận văn do còn hạn chế về thời gian, kinh phí
cũng như trình độ chuyên môn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa
học, bạn bè và đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 13 tháng 04 năm 2013
Tác giả


Vi Thị Dung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC


Trang
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các từ viết tắt vi
Danh mục bảng biểu vii
Danh mục biểu đồ ix
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và Việt Nam 3
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn chăn nuôi trên thế giới 4
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam 11
1.2. Đặc tính sinh thái và sinh vật của cỏ hòa thảo 17
1.2.1. Đặc tính sinh thái của cỏ hòa thảo 18
1.2.2. Đặc tính sinh vật học 18
1.2.3. Đặc tính sinh lý 19
1.2.4. Đặc tính sinh trưởng 22
1.2.5. Tuổi thọ của cỏ hòa thảo 23
1.2.6. Giá trị kinh tế của cỏ hoà thảo 23
1.3. Đặc điểm một số giống cỏ làm thí nghiệm 24
1.3.1. Cỏ voi (Pennisetum purpureum) 24
1.3.2. Cỏ lông Para (Brachiaria mutica) 27
1.4. Cơ sở đánh giá chất lượng các giống cỏ 28
1.5. Những nghiên cứu về năng suất chất xanh 29

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
Chƣơng 2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN
CỨU 33

2.1. Điều kiện tự nhiên 33
2.1.1. Vị trí địa lý 33
2.1.2. Địa hình, địa mạo 35
2.1.3. Đặc điểm thổ nhưỡng 35
2.1.4. Khí hậu thủy văn 36
2.1.5. Hiện trạng sử dụng đất đai 38
2.2. Tình hình kinh tế xã hội vùng nghiên cứu 40
2.2.1. Dân sinh 40
2.2.2. Kinh tế 41
2.2.3. Sản xuất nông, lâm nghiệp 41
2.2.4. Giao thông, thủy lợi 42
2.2.5. Văn hóa giáo dục 43
2.2.6. Quốc phòng, an ninh 43
Chƣơng 3. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 45
3.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 45
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 45
3.1.2. Địa điểm nghiên cứu 45
3.1.3. Thời gian nghiên cứu 45
3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 45
3.2.1. Nội dung nghiên cứu 45
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu 45
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 53
4.1. Tính chất lý, hóa học của đất trồng cỏ 53
4.2. Năng suất và cấu trúc phần trên mặt đất 56
4.2.1. Thí nghiệm trồng cỏ và tưới nước 56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
4.2.2. Năng suất và biến động mùa của cỏ voi 57

4.2.3. Năng suất và biến động mùa của cỏ lông Para 62
4.2.4. Cấu trúc năng suất phần trên mặt đất của cỏ voi và cỏ lông Para 67
4.2.5. Năng suất phần dưới mặt đất của cỏ voi và lông Para 74
4.3. Ảnh hưởng của độ ẩm đất đến năng suất và cấu trúc năng suất cả 2 phần
trên và dưới mặt đất của 2 loài cỏ voi và lông Para 79
4.3.1. Ảnh hưởng của độ ẩm đất đến năng suất và cấu trúc năng suất phần
trên mặt đất của 2 loài cỏ thí nghiệm 79
4.3.2. Ảnh hưởng của độ ẩm đất đến năng suất phần dưới mặt đất của 2
loài cỏ thí nghiệm 80
4.4. Đề xuất biện pháp tác động 81
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT
Chữ, ký hiệu viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1.
ĐC
Đối chứng
2.
NS
Năng suất
3.
TB

Trung bình
4.
TCVN
Tiêu chuẩn Việt Nam
5.
TN
Thí nghiệm
6.
ts
Tổng số
7.
UBND
Uỷ ban nhân dân
8.
VCK
Vật chất khô


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang

Bảng 1.1. Sản lƣợng VCK và chất lƣợng những loài cỏ trên vùng thấp vào 45
ngày cắt. 10
Bảng 1.2. Sản lƣợng VCK của cỏ Ghine tỉa cắt 30 ngày. 11
Bảng 1.3. Ảnh hƣởng tuổi thu cắt đến năng suất (tấn/ha) và tỷ lệ chất khô (%)
của cỏ voi 26
Bảng 1.4. Năng suất cỏ voi thay đổi theo tuổi thu hoạch 26

Bảng 1.5. Năng suất cỏ voi thay đổi theo mùa (Gespo, 1974) 26
Bảng 1.6. Năng suất cỏ lông Para thay đổi theo tuổi thu hoạch 28
Bảng 2.1. Đặc điểm khí hậu huyên Lục Ngạn năm 2012 37
Bảng 2.2. Thống kê diện tích đất đai huyện Lục Ngạn năm 2011 39
Bảng 4.1. Kết quả phân tích mẫu đất trồng cỏ 53
Bảng 4.2. Lƣợng nƣớc trong 100g đất tát ngập nƣớc (độ ẩm 100%) và đất ô
TN 54
Bảng 4.3. Lƣợng nƣớc tƣới ô TN qua các lứa của cỏ voi và lông Para 57
Bảng 4.4. Năng suất tƣơi và khô của cỏ voi qua các lứa cắt (kg/m
2
/lứa) . 58
Bảng 4.5. Năng suất tƣơi và khô của cỏ lông Para qua các lứa cắt (kg/m
2
/lứa)
63
Bảng 4.6. Tỷ lệ % trọng lƣợng thân, lá cỏ voi qua các lứa cắt 68
Bảng 4.7. Tỷ lệ % trọng lƣợng thân, lá, hoa cỏ lông Para qua các lứa cắt 70
Bảng 4.8. Diện tích bề mặt lá của cỏ thí nghiệm (m
2
/m
2
đất/ lứa) 71
Bảng 4.9. Quan hệ giữa bề mặt lá (m
2
/m
2
đất/lứa) với khối lƣợng cỏ
(kg/m
2
/lứa). 73

Bảng 4.10. Năng suất phần dƣới đất của cỏ voi và lông para ở lứa cắt 2 74

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

viii
Bảng 4.11. Năng suất phần trên và dƣới mặt đất của cỏ voi là lông Para tại lứa
cắt thứ 2 78



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ix
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Hình 3.1. Hình vẽ mô tả phƣơng pháp lấy khối đất rửa lấy rễ. 50
Hình 4.1. Biểu đồ năng suất tƣơi phần trên mặt đất của cỏ voi tại ô TN và ĐC60
Hình 4.2. Biểu đồ năng suất khô phần trên mặt đất của cỏ voi tại ô TN và ĐC60
Hình 4.3. Biểu đồ năng suất tƣơi phần trên mặt đất của cỏ lông Para 65
Hình 4.4. Biểu đồ năng suất khô phần trên mặt đất của cỏ lông Para 65
Hình 4.5. Biểu đồ năng suất tƣơi phần trên mặt đất của cỏ voi và cỏ lông
Para tại ô TN 67
Hình 4.6. Biểu đồ năng suất tƣơi phần dƣới mặt đất của cỏ voi 76
Hình 4.7. Biểu đồ năng suất tƣơi phần dƣới đất của cỏ lông Para 77
Hình 4.8. Biểu đồ năng suất tươi phần dưới đất của 2 loài cỏ tại ô TN 77



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


1
MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi là một trong những ngành góp phần xóa đói giảm nghèo,
tăng thu nhập, giải quyết công ăn việc làm, cải thiện điều kiện sống… cho
người nông dân.
Trong chăn nuôi, đối với gia súc nhai lại thì khẩu phần ăn hàng ngày,
thức ăn xanh chiếm tới 70 - 80%. Tuy nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa
nhưng lại không có nhiều các đồng cỏ rộng, năng suất và chất lượng cao.
Nguồn thức ăn xanh chủ yếu là các đồng cỏ tự nhiên ngày càng cạn kiệt do bị
các cây trồng khác lấn, tập quán chăn thả bừa bãi, không quy hoạch và kỹ
thuật đã làm cho các bãi cỏ chăn thả ngày càng thoái hóa và giảm năng suất
dẫn tới tình trạng thiếu thức ăn cho gia súc nhất là vào mùa đông.
Nhu cầu về thịt, sữa của con người ngày càng tăng đã thúc đẩy chăn
nuôi nói chung và chăn nuôi gia súc nhai lại nói riêng phát triển cả về số
lượng và chất lượng, từ hình thức chăn nuôi quảng canh sang hình thức thâm
canh và bán thâm canh, do đó vấn đề đảm bảo đủ thức ăn về số lượng và chất
lượng cho gia súc nhai lại đã ngày càng được quan tâm, đầu tư và nghiên cứu.
Để có các đồng cỏ có năng suất và chất lượng tốt phục vụ cho chăn
nuôi, từ lâu người ta đã tập trung nghiên cứu tác động vào môi trường sống
và vào thành phần loài, cấu trúc thảm cỏ do vậy đã hình thành nên các đồng
cỏ chăn thả hay cắt có chất lượng. Theo hướng tác động vào môi trường
sống đó là cải tạo môi trường đất theo nhu cầu trong từng vùng khí hậu.
Hướng tác động vào thảm cỏ là bao gồm tìm kiếm thành phần loài, cấu trúc
thảm cỏ, cấu trúc năng suất cỏ và các biện pháp thu hái, bảo quản thích hợp
cho từng loài cỏ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
Trong hướng tác động vào môi trường thì giải quyết nhu cầu nước là
rất quan trọng, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu ở các vùng khác nhau,
cho từng loài khác nhau.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu
ảnh hưởng của độ ẩm đất đến cấu trúc năng suất cỏ trồng tại xã Đồng Cốc,
huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang”.
Đề tài chúng tôi nghiên cứu nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của độ ẩm đất
đến năng suất 2 loài cỏ, trên nguyên tắc cây cỏ trong đồng cỏ là những cây
trung sinh sống lâu năm và theo Andreef môi trường đất tối ưu là độ ẩm đạt
70 – 80% độ ẩm toàn phần.
Chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm tạo độ ẩm đất 70 - 80% trong suốt thời
gian thí nghiệm và theo dõi năng suất, cấu trúc năng suất của 2 loài cỏ trồng
là cỏ voi và cỏ lông Para tại xã Đồng cốc, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
Để làm sáng tỏ ảnh hưởng của độ ẩm đất đến năng suất và cấu trúc năng suất
của cả 2 phần trên và dưới đất.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm sáng tỏ vai trò độ ẩm đất trong giới hạn xác định tác động đến
năng suất và cấu trúc năng suất của cả hai phần trên và dưới đất 2 loài cỏ
trồng tại xã Đồng Cốc, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Từ đó đề xuất biện
pháp tác động nâng cao năng suất phần trên mặt đất của cỏ.





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và Việt Nam
Khái niệm về cây thức ăn xanh bao hàm cả các cây thức ăn tự nhiên và
các cây thức ăn trồng với mục đích sử dụng làm thức ăn gia súc. Theo Lê
Văn An và Tôn Nữ Tiên Sa [1], cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây
mùa vụ còn lại, cây cỏ hoà thảo, cây đậu, cây thân thảo hay thân gỗ có thể
được sử dụng làm thức ăn cho gia súc, những cây này cũng có thể được sử
dụng vào những mục đích khác nhau như bảo vệ đất, chống xói mòn, làm
tăng độ màu mỡ của đất và hạn chế cỏ dại.
Đây là loại thức ăn rất quan trọng, có thể chiếm từ 20 - 40% khẩu
phần cho lợn, 70 - 100% khẩu phần của gia súc nhai lại và ngựa, 5 - 10%
khẩu phần của gia cầm. Chính vì vậy, thức ăn xanh là loại thức ăn vô cùng
quan trọng trong chăn nuôi
Để phát triển chăn nuôi động vật nói chung và động vật nhai lại nói
riêng, thì một trong những vấn đề hàng đầu cần giải quyết là nguồn thức ăn.
Thực tế có hai phương thức để cung cấp dinh dưỡng cho gia súc nhai lại đó
là nguồn thức ăn tinh và nguồn thức ăn thô xanh (trên 60% nhu cầu sinh
dưỡng của gia súc nhai lại là thức ăn thô xanh). Chính vì vậy mà nguồn thức
ăn thô xanh được đặc biệt chú ý ngay cả những nước kém phát triển và
những nước phát triển. Việc phát triển đồng cỏ không chỉ cung cấp thức ăn
tươi xanh mà còn dùng để dự trữ cho gia súc nuôi nhốt.
Cỏ là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh
dưỡng, như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có
khả năng sử dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
không những rất cần thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của

trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn
của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1,4 :1 (Đoàn Ẩn
và Võ Văn Trị, 1976) [2]. Cỏ còn là loại cây thức ăn dễ sản xuất, có năng
suất cao, tương đối ổn định và là nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm
giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là
thường chỉ cần gieo trồng một lần mà sử dụng được nhiều năm. Ví dụ: Giá
thành cho 1kg cỏ Mộc Châu và cỏ lông Para trong 3 năm sử dụng là: 0.037
và 0.035 đồng (Thái Đình Dũng, Đặng Thị Liệu, 1979) [10].
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn chăn nuôi trên thế giới
1.1.1.1. Tình hình phát triển đồng cỏ trên thế giới
Đồng cỏ là kho dự trữ nguồn năng lượng tiềm tàng, gia súc sẽ chuyển
hoá năng lượng chứa trong đồng cỏ thành thức ăn của con người. Con người
từ lâu đã biết khai thác đồng cỏ.
Song có rất nhiều quan niệm khác nhau về đồng cỏ. Nhiều nhà nghiên
cứu đã đưa ra những đặc điểm cần có của loại hình đồng cỏ hoặc nhóm đặc
điểm và cũng đã đưa ra hàng loạt định nghĩa về đồng cỏ. Theo A.O.Felipe
(1965) [34] những vùng đất rộng lớn, kể cả đồng bằng cũng như miền đồi
núi, bao phủ bởi cỏ địa phương được sử dụng cho chăn thả quảng canh được
gọi là bãi cỏ tự nhiên. Còn đồng cỏ nhân tạo được xây dựng lên để thay thế
bãi cỏ tự nhiên bằng cách trồng những loài cỏ có năng xuất và giá trị dinh
dưỡng cao hơn (CIAT, 1978) [39]. Theo các nhà khoa học Liên Xô (cũ):
thuật ngữ đồng cỏ là để chỉ những vùng đất đai rộng lớn, có ít cây gỗ và cũng
không thích hợp với việc trồng trọt, thực vật sinh trưởng ở đây là cỏ để chăn
nuôi. Theo các khoa học Anh, Mĩ: Đồng cỏ là chỉ những vùng đất đai rộng
lớn không có cây gỗ, không trồng các loại cây nông nghiệp, phần lớn là cỏ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
thích hợp để kinh doanh ngành chăn nuôi. Theo Rabốtnốp. TA. 1984 [48]

đồng cỏ là chỉ những vùng khô khan, không có những loại cây gỗ mọc,
những vùng chưa trồng trọt, trong đó hoàn cảnh đất đai khác nhau, phần lớn
là những bình nguyên khô khan, không có giới hạn nào cả, bao gồm những
cánh đồng cỏ, những cánh đồng quán mộc… Đa số các tác giả cho rằng đồng
cỏ (Grassland) là vùng đất được che phủ bởi thảm cỏ liên tục, nơi có lượng
mưa dao động từ 250 - 750 mm ở vùng ôn đới và tới 1200 mm ở vùng nhiệt
đới, cỏ sinh trưởng liên tục trong mùa sinh dưỡng, ngừng sinh trưởng trong
mùa khô… Ở Việt Nam, theo Trịnh Văn Thịnh (1974) [24] cũng có những đề
nghị khác nhau: danh từ “đồng cỏ” để chỉ những diện tích đồng cỏ (vĩnh viễn
hay tạm thời) còn những đất đai sử dụng để chăn thả súc vật (có người đề
nghị là chăn dắt) chủ yếu dựa vào cỏ tự nhiên thì gọi là bãi chăn .Theo
Hoàng Chung (2006) [8]: Đồng cỏ là các sinh địa quần lạc, thảm thực vật của
nó được đặc trưng bởi các quần xã cỏ với độ khép tán lớn hay nhỏ và chủ yếu
là cỏ trung sinh nhiều năm, đôi khi là cỏ ẩm sinh, có sự ngừng sinh trưởng
vào mùa đông, thường mùa hè không biểu thị sự giảm sút rõ rệt, đất đa dạng
về độ ẩm, độ phì và hàm lượng muối.
Trong chăn nuôi, với 2 hệ thống nuôi dưỡng: thứ nhất là dựa vào thức ăn
tinh (trên 40% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng thức ăn tinh), thứ 2 là
dựa vào thức ăn thô (trên 60% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng thức ăn
thô) thì hệ thống thứ 2 được đặc biệt chú ý nhất là ở các nước có khả năng phát
triển đồng cỏ, ở những nước này việc sử dụng đồng cỏ không chỉ để chăn thả
mà còn cung cấp thức ăn xanh và dự trữ cho đàn gia súc nuôi nhốt. Tại Úc, sản
phẩm chăn thả tới 50% sản phẩm xuất khẩu, tỉ lệ này còn cao hơn: 90% ở Tân
Tây Lan (Thái Đình Dũng, Đặng Thị Liệu, 1979) [10]. Theo Davies (1960) [31]
đồng cỏ tự nhiên cung cấp gần một phần hai gia súc chăn thả, tạo ra một phần
ba lượng thịt và một phần sáu sản lượng sữa trên thế giới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6

Cuộc cách mạng đồng cỏ vùng nhiệt đới và á nhiệt đới triển khai ở
Châu Đại Dương bắt đầu từ thế kỷ XIX.
Ở các nước nhiệt đới khả năng phát triển đồng cỏ rất lớn nếu được sử
dụng một cách hợp lý có thể cung cấp prôtêin động vật không những cho
vùng nhiệt đới mà cho cả vùng lân cận.
Sau cuộc “Cách mạng về thức ăn gia súc” ở Tây âu mà đặc biệt là ở Anh
đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng được chú
ý và sử dụng đúng với vai trò của nó. Nếu như trước kia ở Pháp (1842) chỉ có 4
triệu ha trồng cỏ và 15 triệu ha ngũ cốc thì hiện nay tỷ số ấy đã thay đổi: 12 triệu
ha trồng cỏ và 8 triệu ha ngũ cốc (Điền Văn Hưng,1974) [11 .
Ở Anh các diên tích ngũ cốc giảm đi và diện tích trồng cỏ, các loại cây
thức ăn gia súc khác tăng lên và được thâm canh một cách đáng kể.
Ở Liên Xô, diện tích trồng cỏ tăng từ 2,1 triệu ha năm 1913 lên 7,3
triệu ha năm 1933 và đến năm 1961 diện tích này đã lên tới 51,9 triệu ha
(Thái Đình Dũng, Đặng Thị Liệu, 1979) [10].
Ở Thái Lan, với 70% dân liên quan đến sản xuất nông nghiệp, sản
phẩm trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa chưa đủ cung cấp theo nhu cầu
tiêu dùng. Theo FAO, chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của
người nông dân bằng giải pháp: giảm trồng lúa, sắn, đẩy mạnh phát triển chăn
nuôi đặc biệt là gia súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp hạt
giống cỏ để trồng.
Nhằm giải quyết vấn đề thức ăn, trong chăn nuôi gia súc nhai lại nhiều
nước trên thế giới phải nhập nhiều giống cỏ khác nhau từ các nước khác nhau.
Cỏ voi nguồn gốc từ Uganda được nhập vào Mĩ năm 1913, Australia năm
1914, Cuba 1917, Braxin 1920… (Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến, 1976) [7].
Cỏ Pangola xuất hiện ở bên bờ sông Pangola thuộc Nam phi nhập về Mĩ năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7

1935, Cuba 1950, Australia 1954 và các nước nhiệt đới, cận nhiệt đới. Ước
tính thế giới, gia súc sử dụng khoảng 3,4 tỷ ha đất dùng cho chăn thả và dùng
cho sản xuất thức ăn gia súc, diện tích này được đánh giá là hơn 2/3 diện tích
sử dụng sản xuất nông nghiệp (Điền Văn Hưng, 1974) [11].
Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các
nhân tố sau để xét và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ
ngon miệng cao, nhất là cỏ thu cắt; phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng
nhu cầu gia súc về các mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả
năng được trồng kết hợp; có khả năng chịu đựng sự giẫm đạp liên tục của gia
súc và cỏ thu cắt phải chịu được sự cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và
cỏ cắt đều phải có năng suất cao để đảm bảo nhu cầu gia súc và giảm diện
tích gieo trồng….
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới
Song song với diện tích trồng cỏ tăng lên việc nghiên cứu chọn lọc các
giống cỏ có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú trọng, nhiều loài
cỏ như cỏ voi, cỏ Ghinê, cỏ Bermuda, cỏ Pangola… đã được sử dụng ở nhiều
nước trên thế giới. Lai tạo những giống cỏ mới có năng suất và giá trị dinh
dưỡng cao như Coastcross (cỏ Bermuda lai), cỏ Ghinê từ một loài đã tạo ra
nhiều giống mới, cỏ voi cũng vậy Đây là thành tựu khoa học đáng kể để
góp phần giải quyết thức ăn cho gia súc ngày càng phát triển không chỉ về số
lượng mà còn cả chất lượng.
Trên thế giới, ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển như:
Úc, Mỹ, Brazin…, vấn đề thức ăn rất được quan tâm và đầu tư nghiên cứu.
Tại vùng đồi núi ở Đông Nam Á chăn nuôi là một bộ phận quan trọng trong
hệ thống sản xuất, nên cũng đã có những quan tâm, đầu tư, nghiên cứu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Tác giả T.Kanno và M.C.M. Macedo, 2001 [54] đã tiến hành thí

nghiệm gieo hạt của các cỏ Brachiaria decumbens, B.brizantha,
B.dictyoneura, B. humidicola, Andropogon gayanus, Setaria anceps và
Paspalum atratum vào đầu mùa mưa tại các cánh đồng ở khu vực đầm lầy.
Các tác giả thấy rằng không có loài nào có thể sống sót tại mùa mưa ở khu
vực đất lầy. Còn khi gieo hạt vào giữa mùa mưa thì chỉ còn một lượng nhỏ
cây giống con còn tồn tại vào cuối mùa mưa, tuy nhiên cũng không thể sống
sót cho đến hết mùa mưa. Những kết quả chỉ rõ rằng giai đoạn cây con phù
hợp nhất ở khu vực đầm lầy là bắt đầu của mùa khô, khi đất trở nên cứng có
thể sử dụng được máy kéo.
Theo John W. Miles, 2004 [42] chi Brachiaria là giống lớn được sử
dụng làm thức ăn cho vật nuôi vùng nhiệt đới châu Mĩ.
Ở Trung Quốc trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các giống
cỏ Stylo, Brachiaria, Pennisetum… sử dụng có hiệu quả cho gia súc. Hàng
năm còn sản xuất 20,5 tấn hạt cỏ cung cấp cho trong và ngoài nước (Thông
tin khoa học kỹ thuật chăn nuôi, 1998) [26].
Ở Philippin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các
trang trại nhỏ được trồng các giống cỏ Stylo 184, Panicum maxinum,
Paspalum atratum, đều phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc.
Ngoài ra, các giống cỏ trên còn được trồng theo đường đồng mức ở đất dốc,
cải tạo đất trống đồi núi trọc, trồng dưới tán cây ăn quả. Hàng năm còn sản
xuất được trên 1 tấn hạt cỏ (E.F.Latinh, F.Gagunda, 1995).
Một số nước khác như Malaysia, Lào,… cũng đã chú trọng đầu tư phát
triển cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống
cỏ Hoà thảo và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong
sản xuất. Hằng năm sản xuất được 2 - 3 tấn hạt cỏ các loại. Như vậy, phong
trào trồng cây thức ăn xanh để chăn nuôi gia súc đang được nhiều nước quan
tâm. Nó thực sự là động lực thúc đẩy ngành chăn nuôi đại gia súc phát triển.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
1.1.1.3. Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia
súc trên thế giới
Hiện nay trên thế giới ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống
cỏ tốt từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề
năng suất, chất lượng cỏ.
Tại Purertorico, Vieente - Chandler Silva và Figarella (1959) [55]
thông báo năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg
VCK/ha với mức bón 440 kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ.
Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng suất chất khô đạt 36.700 kg/ha, kết
quả này cao hơn so với cỏ Pangola (Digitaria decumbens), Para (Brachiaria
mutica) và Ghinê (Panicum maximum) (Barnard, 1969) [35].
Tại Samford, Queensland năng suất hàng năm của giống Paspalum
dilatatum là 15.000 kg VCK (Davies J.G, 1970) [40].
Tại Fiji với điều kiện khắc nghiệt hơn năng suất trung bình là 5.313
kg VCK/ha với mức prôtein thô là 9,9% trong thời gian trên 3 năm
(Roberts, 1970) [50].
Tại Redland Bay, Queensland (Riveros và Wilson, 1970) [49] thông
báo năng suất cỏ Setaria sphacelata đạt từ 23.500 - 28.000 kg/ha qua mùa
sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg
đạm ure/ha/năm trên nền đất baza mầu mỡ.
Middleton và Micosker, (1975) [45] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại
miền Nam Johnstone, vùng Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv
Makueni đã sản xuất được 60.000 kg VCK/ha với điều kiện cung cấp 300 kg
đạm/ha.
Theo Quilichao (Colombia CIAT, 1978) [39], giống Brachiaria
decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
nghiệm không bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất trong
điều kiện bón lân và đạm thích hợp.
Theo Anon, 2000 [33] tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các
giống cỏ Digitaria decumbens, Paspalum atratum, Brachiaria mutica và
Paspalum plicatulum khoảng từ 15 - 20, 18 - 25, 9 - 15 và 6 - 10 tấn/ha.
Sản lượng này được thể hiện cụ thể ở bảng 1.1.
Bảng 1.1. Sản lƣợng VCK và chất lƣợng những loài cỏ trên vùng thấp
vào 45 ngày cắt.
Tên khoa học
Tên Việt Nam
Năng suất
(tấn/ha)
Prôtêin
Brachiaria mutica
Cỏ lông Para
9 - 15
6 - 10
Digitaria decumbens
Pangola
15 -20
7 - 11
Paspalum atratum
Cỏ đắng
18 - 25
6 - 7
Paspalum plicatulum

6 - 10
5 - 6

(Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon, 2000.[33])
Trong đó giống cỏ đắng Paspalum atratum và Paspalum plicatulum là
những loài cỏ cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên 600kg/ha. Do vậy,
hai giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan.
Theo M.D. Hare và cs [44] cho biết các cỏ Brachiaria mutica và
Paspalum atratum khi không có cây bộ đậu và dưới điều kiện cằn cỗi, nằm
thấp, đất khô ở vùng tây bắc Thái Lan phát triển tốt ở năm đầu, sản xuất trung
bình là 20tạ/ha VCK. Không có sự sai khác có ý nghĩa về sản lượng giữa hai
loài và không khác nhau về sản lượng giữa khoảng cách thu cắt 45 ngày và 65
ngày ở mùa mưa đầu tiên. Còn ở mùa mưa thứ hai Paspalum atratum sản xuất
30 tạ/ha VCK lớn hơn 10tạ/ha so với B. Mutica.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái
Lan) cỏ Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50 x
50cm và được bón phân hỗn hợp (15 - 15 - 15) trước khi trồng ở mức 300 kg/ha
tương đương 18 tấn phân bón/ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở lứa
đầu (70 ngày sau trồng) và khoảng 2,6 đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày (Animal
Nutrition Division, 2001) [32]. Sản lượng này được thể hiện ở bảng 1.2.
Bảng 1.2. Sản lƣợng VCK của cỏ Ghine tỉa cắt 30 ngày.
Thời gian cắt
Năng suất VCK (tấn/ha)
11/08/2000
8,9
11/09/2000
7,1
11/10/2000
6,9

11/11/2000
6,8
11/12/2000
4,6
11/01/2001
2,6
11/02/2001
4,1
11/03/2001
4,3
11/04/2001
5,8
11/05/2001
3,7
(Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division, 2000, [32])
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam
1.1.2.1. Tình hình phát triển
Việt Nam là một đất nước nông nghiệp, từ lâu chúng ta cũng đã có rất
nhiều cố gắng mở rộng diện tích gieo trồng, vừa đảm bảo lương thực cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
người vừa đảm bảo thức ăn cho gia súc. Từ năm 1960, chúng ta đã có chủ
trương phát triển đồng cỏ cho trâu bò ở những vùng thiếu cỏ. Nếu như năm
1960 ở miền Bắc chỉ có 96 ha trồng cỏ thì qua năm 1961 và 1962 diện tích
này đã tăng lên 323 và 687 ha. Sang năm 1963, theo số liệu ở 6 tỉnh đồng
bằng, diện tích trồng cỏ và ngô đay làm thức ăn cho trâu bò đã đạt tới 3.585
mẫu Bắc bộ (Thái Đình Dũng, Đặng Thị Liệu, 1979) [10].
Năm 1976 Bộ Nông nghiệp đã phát hành bản dự thảo “Quy phạm, xây

dựng, sử dụng, dự trữ và quản lý đồng cỏ”, từ đó đến nay diện tích đồng cỏ
trồng có tới 5.000 – 6.000 ha, nhiều cơ sở như Mộc Châu, Sao Đỏ, Đồng Giao,
Phú Mãn,… đã xây dựng được hàng nghìn ha đồng cỏ chăn thả luân phiên
(Báo cáo của tổng cục chăn nuôi, 1976). Nhiều khu vực chăn nuôi tập thể đã
tiến hành cải tạo bãi cỏ thiên nhiên, đồng cỏ cho trâu bò và lợn, nhiều hợp tác
xã đã sử dụng đất ven bờ sông nhỏ, ven đê trồng cỏ cung cấp cho gia súc.
Nông trường Mộc Châu với sự giúp đỡ tận tình và toàn diện của Chính
phủ và chuyên gia Cu Ba đã xây dựng thành công hệ thống đồng cỏ kết hợp
chặt chẽ với kết cấu chuồng trại thể hiện rõ một phương thức chăn nuôi đồng
bộ trên đồng cỏ thâm canh.
Nông trường Đồng Giao từ năm 1969 việc xây dựng đồng cỏ chuyển
sang hướng mới, thâm canh đồng cỏ bằng trồng các giống mới, chăm sóc và
sử dụng thích hợp. Nếu năm 1969 ở đây chỉ có 3 ha cỏ trồng thì tới năm 1975
đã có tới 1179 ha (Báo cáo của nông trường Đồng Giao, 1976). Bên cạch
việc xây dựng và cải tạo đồng cỏ, vấn đề dự trữ, phơi khô và ủ xanh được
thực hiện có kế hoạch, có chất lượng như ở Sao Đỏ, Mộc Châu. Song song
với những cố gắng trên việc nghiên cứu các giống cỏ nhập nội và cỏ địa
phương có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú ý, nhiều giống cỏ
tốt đã được đưa vào sử dụng ở các cơ sở nghiên cứu và trung tâm chăn nuôi
trong cả nước như Mộc Châu, Ba Vì, Đồng Giao, Tân Sơn Nhất, Hưng Lộc,
Thủ Đức, Khánh Dương, Nha Bố…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Nước ta đã nhập nhiều đợt các giống cỏ đậu và cỏ hòa thảo nhiệt đới (chủ
yếu từ Oxtrâylia và Cuba) và đã tiến hành trồng thí nghiệm ở một số địa
phương. Một số giống đã được đưa vào sản xuất như cỏ Pangola (Digitaria
decumbes) cỏ đậu Stylo (Stylosanthes) Nhiều nông trường và hợp tác xã cũng
đã trồng cỏ voi, cỏ Xu đăng, cỏ Pangola…Kết quả thu hoạch các loại cỏ đó cho

biết, nếu mỗi năm cắt được 3 - 4 lứa thì có thể đạt năng suất 50 - 60 tấn/ha,
trồng qua 3 - 4 năm cỏ vẫn phát triển tốt (Đoàn Ân, Võ Văn Trị, 1976) [2].
Trong thời gian hơn 20 năm trở lại đây thông qua các hoạt động hợp tác
quốc tế và từ nhiều nguồn khác nhau chúng ta đã nhập trên 100 giống cây
thức ăn hoà thảo và cây họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, HIAT,
Philipin, Indonesia, Thailand) nhằm tăng khả năng sản xuất thức ăn xanh cho
chăn nuôi cụ thể như:
Năm 1990 chương trình bò thịt VIE86/008 nhập 17 giống cây thức ăn
họ đậu, hoà thảo khác nhau từ Autralia.
Năm 1995 chương trình cây thức ăn xanh cho nông hộ nhập vào 70
giống (51 giống đậu và 19 giống hoà thảo) từ CSIRO và CIAT chương trình
cây keo dậu nhập 22 giống keo dậu từ Australia.
Năm 1997 thông qua hoạt động hợp tác quốc tế đã nhập 10 giống Stylo
từ Trung Quốc và Philippin.
Năm 1998 chương trình “Phát triển thịt bò một cách hiệu quả ở Việt
Nam ACIAR Projeet as 2/97/18”, nhập 55 loại cây thức ăn gồm 15 loại cây
họ đậu và 40 loại cây hoà thảo.
Thông qua hoạt động hợp tác quốc tế với trường Đại học Hohenhein
(Đức), 20 loại Flemingia được nhập vào nước ta. Ngoài ra một số giống cây
thức ăn được nhập thông qua con đường các chuyên gia đi lại công tác.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Một số giống cây cỏ nhập nội đã được đánh giá ban đầu và thu được
kết quả tốt, ứng dụng vào trong sản xuất ở một số vùng.
Tuy nhiên do không có sự quản lý, chỉ đạo thống nhất cho nên một số
giống sau khi đánh giá đã bị thất lạc đi hoặc chưa có điều kiện thử nghiệm ở
các vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng thử nghiệm ra sản xuất.
1.1.2.2. Kết quả các công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi.

Trong những năm trước đây, một số nhà khoa học mới tập trung vào
nghiên cứu một số giống cây thức ăn hòa thảo, họ đậu nhập nội ở một số
vùng như:
Lục Văn Ngôn, 1970 [20] đã nghiên cứu so sánh năng suất và khả năng
sống qua đông của một số giống cỏ trồng nhập nội trên đất đồi Thái Nguyên
trong đó có giống cỏ Tây Nghệ An (Panicum maximum), Mộc Châu
(Paspalum urvillei), cỏ Xu đăng (Sorglum xudannens), Goatemala (Trypsacum
laxum), cỏ voi, Pangola, cỏ lông Para, qua thí nghiệm cho thấy các loài cỏ voi,
Tây Nghệ An có năng suất cao và có khả năng phát triển trong mùa đông. Tác
giả cũng cho thấy năng suất tỉ lệ thuận lượng phân bón nitơ.
Lê Hòa Bình và cộng sự, 1992 [4] khảo sát năng suất cây thức ăn mới
nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã cho kết quả như sau:
- Tại Long Mỹ giống Makueni và Hamil cho năng suất chất xanh đạt
56.959,9 tấn/ha tương ứng với 9,7 - 11,9 tấn VCK.
- Tại Sơn Thành: Giống Hamil lại cho năng suất cao hơn cả, đạt 92,9
tấn chất xanh tương ứng 17,6 tấn VCK/ha/năm.
- Tại Ba Vì hai giống ghine là Liconi và Hamil có năng suất tốt hơn
trong đó nổi bật là Liconi. Năng suất chất xanh đạt 99,96 tấn tương đương
18,93 tấn VCK/ha/năm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Như vậy trong cùng một giống cỏ nhưng năng suất có sự khác nhau
giữa các vùng khá lớn do ảnh hưởng của khí hậu, đất đai và các yếu tố khác.
Lê Hòa Bình, Nguyễn Phúc Tiến, Hồ Văn Núng, Đặng Đình Hanh,
1997 [5] đã nghiên cứu giống cỏ Para, các tác giả cho biết cỏ Para có năng
suất 89 - 98 tấn/ha với khối lượng xanh thu trong mùa đông 35 - 45 tấn/ha
tương đương 39 - 47% khi trồng trên đất có độ ẩm cao và có ngập nước.
Nguyễn Tuấn Hảo, 1999 đã trồng thử nghiệm một số loài cây thức ăn gia

súc nhập nội và cải tạo đất, trong đó tác giả đưa vào nghiên cứu 24 loại cây họ
đậu và 18 loài hòa thảo nhằm mục đích tìm ra một số cây vừa làm thức ăn gia
súc, vừa có tác dụng chống xói mòn và cải tạo đất, phù hợp với khí hậu vùng
trung du Bắc Bộ. Trong các loài thử nghiệm tác giả đã kết luận ưu điểm của các
giống cỏ Brachiria brizantha CIAT 16835 và cỏ Brachiria ruziensis ex. Thái lan
là hai loài cỏ mọc khỏe nhất, cho sinh khối cao (năng suất khoảng 30 - 40 tấn/ha)
và có khả năng chịu hạn. Ngoài ra, tác giả đề cập đến 2 giống cỏ triển vọng là
Paspalum atratum BRA 9610 và Paspalum guenoarum BRA 3824.
Phan Thị Phần và CTV (1999) [21]; Vũ Thị Kim Thoa, Khổng Văn
Đĩnh (2001) [25] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở khu vực miền Nam và
miền Bắc cho kết quả:
- Khu vực miền Nam, địa điểm nghiên cứu tại vùng đất xám Bình
Dương với 20 tấn phân chuồng, 80 kg P
2
O
5
, 80 kg K
2
O và 500 kg
vôi/ha/năm. Lượng phân đạm bón từ 60 - 90 kg/ha/năm, năng suất chất xanh
cỏ Panicum maximum TD 58 đạt 64,59 - 83,33 tấn/ha/năm. Tỷ lệ lá cao
51,48 - 60,44%, năng suất hạt 287 - 323 kg/ha/năm. Khoảng cách lứa cắt
thích hợp là 40 ngày/lứa.
- Khu vực miền Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất
đồi trong điều kiện trung tính, đất tốt, đất chua nghèo lân và kali cỏ đều có

×