Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

nghiên cứu ảnh hưởng của các thông số kỹ thuật đến lưu lượng và độ cao nâng nước của bơm xoắn ốc dùng sức nước dòng chảy sông suối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 100 trang )





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP











LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT
CHUYÊN NGÀNH: CÔNG NGHỆ CHẾ TẠO MÁY

ĐỀ TÀI:
“NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC THÔNG SỐ KỸ THUẬT ĐẾN
LƢU LƢỢNG VÀ ĐỘ CAO NÂNG NƢỚC CỦA BƠM XOẮN ỐC
DÙNG SỨC NƢỚC DÒNG CHẢY SÔNG SUỐI”









LÊ HỮU HÙNG





THÁI NGUYÊN - 2012




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lê Hữu Hùng, học viên lớp Cao học K13 – CN CTM. Sau hai năm
học tập nghiên cứu, được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo và đặc biệt là sự giúp đỡ
của TS. Nguyễn Sỹ Hiệt, thầy giáo hướng dẫn tốt nghiệp của tôi. Tôi đã đi đến cuối
chặng đường để kết thúc khóa học.
Tôi đã quyết định chọn đề tài tốt nghiệp là: “Nghiên cứu ảnh hưởng của
các thông số kỹ thuật đến lưu lượng và độ cao nâng nước của bơm xoắn ốc dùng
sức nước dòng chảy sông suối” .
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Sỹ Hiệt và chỉ tham khảo các tài liệu đã được liệt kê.
Tôi không sao chép công trình của các cá nhân khác dưới bất cứ hình thức nào. Nếu
có tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
NGƯỜI CAM ĐOAN





Lê Hữu Hùng




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin được cảm ơn TS. Nguyễn Sỹ Hiệt – Thầy hướng dẫn
khoa học của tôi về định hướng đề tài, sự hướng dẫn của thầy trong việc tiếp cận và
khai thác các tài liệu tham khảo cũng như chỉ bảo trong quá trình tôi viết luận văn.
Tôi cũng muốn cảm ơn những ý kiến chỉ bảo của GS. TSKH. Phạm Văn
Lang, cũng như các thầy cô đã trực tiếp giảng dạy tôi và các thầy cô khoa sau đại
học Trường ĐH KTCN Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.
Cuối cùng tôi muốn bày tỏ lòng cảm ơn đối với gia đình tôi, các thầy cô giáo,
các bạn đồng nghiệp đã ủng hộ và động viên tôi trong suốt quá trình học cũng như
quá trình làm luận văn này.
Tác giả



Lê Hữu Hùng





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
Trang

Lời cam đoan
1

Lời cảm ơn
2

Mục lục
3

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
6

Danh mục các bảng
8

Danh mục các hình vẽ, đồ thị
9

MỞ ĐẦU
11
1.
Tính cấp thiết của đề tài
11
2.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài

11
3.
Tổng quan nội dung nghiên cứu của đề tài
11
4.
Mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
12

Chƣơng I
13

NĂNG LƢỢNG DÒNG CHẢY SÔNG SUỐI VÀ VIỆC SỬ
DỤNG NGUỒN NĂNG LƢỢNG THIÊN NHIÊN PHỤC VỤ
SẢN XUẤT VÀ ĐỜI SỐNG Ở MIỀN NÚI

1.1
Dòng chảy sông suối – nguồn năng lượng sạch của thiên nhiên
13

1.1.1. Mạng lưới sông suối ở nước ta
13

1.1.2. Thủy chế của sông ngòi Việt nam
14

1.1.3. Dòng chảy sông suối
14

1.1.4. Dòng chảy sông suối Việt Nam và các yếu tố địa lý tác động tới


15
1.2.
Nhu cầu cung cấp nước cho sản xuất ở vùng cao
27
1.3.
Sử dụng năng lượng dòng chảy sông suối phục vụ đời sống và sản
xuất
29
1.4.
Các loại phương tiện cung cấp nước tưới dùng năng lượng dòng chảy
29

1.4.1. Cọn nước truyền thống
30

1.4.2. Bơm thủy luân
32

1.4.3. Bơm va
33

1.4.4. Bơm cuộn - xoắn ốc
34

1.4.5. Ưu, nhược điểm của bơm xoắn ốc và sự lựa chọn để cung cấp
nước tưới cây trồng vùng cao
36
1.5.
Nghiên cứu và ứng dụng bơm xoắn ốc trên thế giới và trong nước
37


1.5.1. Nghiên cứu, ứng dụng bơm cuộn và bơm xoắn ốc trên thế giới
37

1.5.2. Nghiên cứu và ứng dụng bơm cọn xoắn ốc trong nước
41
1.6.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
44

Chƣơng II
45




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1.
Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
45

2.1.1 Mục tiêu chung
45

2.1.2. Nội dung nghiên cứu
45

2.2.
Phương pháp nghiên cứu
45
2.3.
Thiết bị khảo sát dòng chảy và các phương pháp đo
46

2.3.1. Lưu tốc dòng chảy và phương pháp đo
46

2.3.2. Các phương pháp đo lưu tốc
48
2.4.
Các dụng cụ đo vận tốc
49

2.4.1. Lưu tốc kế - phân loại lưu tốc kế
49

2.4.2. Các bộ phận chủ yếu của lưu tốc kế
49

2.4.3. Ống đo thủy văn
49

2.4.4. Xác định vận tốc bằng xác định lực tác động của dòng chảy lên
vật trôi
52
2.5
Lưu lượng dòng chảy và phương pháp đo

53
2.6.
Trang thiết bị đo khảo sát dòng chảy và thí nghiệm bơm
56




Chƣơng III
60

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ NGUYÊN LÝ HOẠT ĐỘNG
VÀ LÝ THUYẾT XÁC ĐỊNH MỘT SỐ THÔNG SỐ CHÍNH
CỦA BƠM XOẮN ỐC

3.1.
Cơ sở nguyên lý hoạt động của bơm xoắn ốc
60
3.2.
Lý thuyết về quá trình hoạt động của bơm
64

3.2.1. Nguyên lý bơm - áp kế tầng
64

3.2.2. Sự chuyển động của phân đoạn chứa khí và nước
65

3.2.3. Đổ nước ngược
68


3.2.4. Mực nước dâng lên trong các cuộn ống
69

3.2.5. Ống dẫn xả nước
71
3.3.
Xây dựng công thức tính thông số kỹ thuật của bơm xoắn ốc
73

3.3.1. Lượng nước gầu múc
73

3.3.2. Lưu lượng bơm
74

3.3.3. Công thức tính độ cao nâng nước tối đa của bơm xoắn ốc
75
3.4.
Kết luận
75











Chƣơng IV
77

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

BƠM XOẮN ỐC QUAY BẰNG SỨC NƢỚC DÒNG CHẢY
4.1.
Điều tra khảo sát tình hình cây trồng, lượng mưa, sông suối ở một số
tỉnh miền núi phía Bắc, đánh giá khả năng ứng dụng bơm xoắn ốc
77

4.1.1. Điều tra khảo sát tình hình cây trồng hai bên bờ suối
77

4.1.2. Điều tra khảo sát tình hình thời tiết khí hậu mùa khô. Nhu cầu
và khó khăn trong việc tưới nước mùa khô
78

4.1.3. Khảo sát lưu lượng dòng chảy sông suối
78

4.1.4. Đánh giá khả năng ứng dụng ứng dụng bơm xoắn ốc chạy
bằng sức nước dòng chảy

79

4.1.5. Khả năng đưa nước lên cao
81
4.2.
Thiết kế và chế tạo bơm xoắn ốc
81

4.2.1. Kết cấu các bộ phận kết cấu bơm xoắn ốc đặt trên phao nổi
82

4.2.2. Tính toán các thông số kỹ thuật của bơm xoắn ốc
86
4.3.
Thí nghiệm xác định mối quan hệ giữa các thông số kỹ thuật của bơm
87
4.4.
Khảo nghiệm thực tế sử dụng
93

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
98

Tài liệu tham khảo
99


























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
A
n

- Dấu hiệu nhận dạng phần không khí trong ống xả
A.
n


- Dấu hiệu nhận dạng lượng không khí trong bơm
d
t

- Mức chìm sâu trong nước cửa bơm
H
D

- Độ cao nâng nước của bơm
H
n

- Áp lực tuyệt đối đầu chứa khí ứng với L
A.n

H
T

- Áp lực tuyệt đối đầu ra của bơm
h
n

- Mức nước ứng với phân đoạn nước W.
n

L
A

- Độ dài đoạn ống chứa khí trong bơm dưới áp lực của H
A

L
A.n

- Độ dài đoạn ống chứa khí trong bơm dưới áp lực Hn
L
W.n

- Độ dài đoạn ống chứa nước theo sau phần ống lọt khí
K
W

- Độ dài đoạn ống chứa nước Wn tại vị trí n trong đường ống xả
K
A.n

- Độ dài đoạn ống chứa khí A
n
tại vị trí n trong đường ống xả
M
- Số lượng đoạn ống chứa nước trong ống xả
N
- Số cuộn ống của bơm
N
s

- Vận tốc quay của bơm (số vòng quay)
P
- Áp suất tuyệt đối
Q
P


- Dung lượng bơm
R
- Khoảng cách từ trục của bơm đến đường tâm của ống xoắn ốc
r
- Đường kính ống nước
t
P

- Thời gian để lượng A
0
và W
0
đi vào ống nước
t
q

- Thời gian để lượng khí A
m-1
rời khỏi ống nước
V
n

- Khối lượng không khí dưới áp lực P
n

V
a

- Vận tốc tương đối của một đoạn ống khí đến đoạn ống nước di chuyển lên

ống xả
W
n

- Dấu hiệu nhận dạng của đoạn ống xả nước
W.
n

- Dấu hiệu nhận dạng về đoạn ống nước của bơm
W.
s

- Dấu hiệu nhận dạng của đoạn ống nước tiếp theo phân đoạn nước tràn




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


n

- Mômen tương đối của đoạn ống nước tiến đến
D
- Đường kính cuộn ống
v
- Vận tốc dòng chảy sông, suối
n
- Vòng quay của bơm
k

- Hệ số hiệu suất sử dụng dòng chảy
z
- Số vòng ống trong một cuộn ống
d
- Đường kính của ống
d
gm

- Đường kính gầu múc
q
- Lưu lượng nước bơm được trong một vòng quay
H
- Độ cao nâng nước lên cao tối đa
Q
- Lưu lượng bơm





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.
Kết quả thí nghiệm thay đổi số vòng ống của cuộn bơm
Bảng 2.
Kết quả thí nghiệm thay đổi kích thước gầu múc d
gm

Bảng 3.

Kết quả thí nghiệm thay đổi vòng quay của bơm (n)
Bảng 4.
Kết quả thí nghiệm quan hệ giữa lưu lượng một vòng quay của bơm (q)
với độ cao xả nước (H)
Bảng 5.
Kết quả thí nghiệm thay đổi số cuộn ống của bơm (N)
Bảng 6.
Kết quả thí nghiệm thay đổi đường kính ống d
Bảng 7.
Kết quả thí nghiệm thay đổi đường kính bánh xe bơm nước D (thay đổi
đường kính của cả cuộn ống)
Bảng 8.
Kết quả khảo nghiệm bơm xoắn ốc





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ
Hình 1.1.
Đường phân nước và giới hạn của lưu vực sông (suối)
Hình 1.2.
Đồ thị biễu diễn mặt cắt ngang khác nhau dọc theo một con sông
(suối) và mối liên hệ giữa lưu lượng và các yếu tố dòng chảy theo
các mặt cắt ngang
Hình 1.3.
Các tỉnh miền núi phía Bắc và tiểu lưu vực sông
Hình 1.4.

Cọn nước được sử dụng ở các tỉnh miền núi
Hình 1.5.
Bơm thủy luân
Hình 1.6a.
Thiết bị bơm va
Hình 1.6b.
Công trình bơm va
Hình 1.7.
Bơm cuộn
Hình 1.8.
Bơm xoắn ốc
Hình 1.9a.
Bơm cuộn đạp chân
Hình 1.9b.
Bơm cuộn súc vật quay
Hình 1.9c.
Bơm cuộn dùng năng lượng gió
Hình1.10.
Bơm cuộn đặt trên phao nổi quay bằng sức nước dòng chảy sông
suối
Hình 1.11.
Guồng bơm xoắn ốc quay bằng sức nước dòng chảy (Philippine)
Hình 1.12.
Guồng bơm xoắn ốc đặt trên phao nổi đang làm việc
Hình 2.1.
Phân bố vận tốc trên thủy trực
Hình 2.2.
Máy lưu tốc kế LS25-1A
Hình 2.3.
Sơ đồ nguyên lý đo vận tốc bằng ống thủy văn

Hình 2.4.
Mặt cắt ngang của dòng chảy
Hình 2.5.
Máy đo lưu tốc dòng chảy MODEL OSS-B1
Hình 2.6.
Máy đo lưu tốc dòng chảy AEM1-D
Hình 2.7.
Khảo sát dòng chảy
Hình 2.8.
Dòng chảy mùa cạn ở một con suối
Hình 3.1.
Sơ đồ một cuộn ống bơm xoắn ốc




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Hình 3.2.
Áp kế chữ U
Hình 3.3
Áp kế cuối khép kín
Hình 3.4.
Trường hợp áp kế cuối mở
Hình 3.5.
Các áp kế mắc nối tiếp
Hình 3.6.
Sơ đồ các vòng ống chứa các phân đoạn nước và khí liên kết với
nhau kiểu các áp kế nối tiếp
Hình 3.7.

Sự di chuyển của các phân đoạn nước và khí trong cuộn ống bơm
Hình 3.8a.
Mức nước trong cuộn ống khi chưa chảy tràn
Hình 3.8b.
Mức nước trong cuộn ống khi chảy tràn
Hình 3.9.
Vị trí các phân đoạn nước và khí trong đường ống xả
Hình 3.10.
Xác định lượng nước gầu múc
Hình 4.1.
Suối Thia – dòng chảy mùa cạn
Hình 4.2.
Bơm xoắn ốc đặt trên phao nổi
Hình 4.3.
Bánh xe bơm
Hình 4.4.
Cuộn ống nước - nhựa PVC
Hình 4.5.
Trục bơm ( đồng thời là ống thu gom nước)
Hình 4.6.
Khớp nối ống kín quay
Hình 4.7.
Cụm phao nổi
Hình 4.8.
Ảnh hưởng của số vòng cuộn đến độ cao nâng nước
Hình 4.9.
Ảnh hưởng của số vòng cuộn đến lưu lượng nước một vòng quay
Hình 4.10.
Ảnh hưởng của vòng quay bơm đến độ cao nâng nước
Hình 4.11.

Thí nghiệm bơm xoắn ốc trên dòng suối
Hình 4.12.
Thí nghiệm xác định độ cao nâng nước của bơm
Hình 4.13.
Nước thoát ra khỏi đường ống bơm





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hàng năm vào mùa khô cánh đồng bên các bờ sông suối thường thiếu nước
nghiêm trọng, nên việc canh tác sản xuất gặp khó khăn do nguồn nước sông suối ở
dưới thấp. Vào thời kỳ này bình độ các cánh đồng so với mặt nước sông suối
thường cao từ 5-15 mét. Để lấy nước sông suối tưới cho cây trồng phải lội xuống
sông gánh nước rất khó khăn vất vả. Hộ có điều kiện phải dùng bơm cao áp chạy
động cơ nhưng chi phí tốn kém, lại gây ô nhiễm môi trường Việc sử dụng bơm
nước xoắn ốc dùng sức nước dòng chảy sông suối để tưới cho cây trồng vào mùa
khô có ý nghĩa thực tiễn và hiệu quả kinh tế cao, không những cung cấp nước tưới
liên tục mà bơm còn không dùng nhiên liệu nên thân thiện với môi trường
Đề tài được chọn là: “Nghiên cứu ảnh hưởng của các thông số kỹ thuật
đến lưu lượng và độ cao nâng nước của bơm xoắn ốc dùng sức nước dòng chảy
sông suối” .
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
*Ý nghĩa khoa học:
- Phát triển bổ xung thêm về loại hình bơm xoắn ốc ứng dụng trong thực tế.
- Sử dụng nguồn năng lượng sạch thiên nhiên phục vụ đời sống, là xu hướng

đang được quan tâm và phát triển.
- Nghiên cứu khoa học gắn kết với phát triển kinh tế, xã hội vùng cao.
*Ý nghĩa thực tiễn:
Tạo ra sản phẩm, kết quả nghiên cứu và sản phẩm mới phục vụ thiết thực cho
sản xuất nông nghiệp và phục vụ đời sống đồng bào vùng cao (miền núi).
3. Tổng quan nội dung nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài trong và ngoài
nước. So sánh ưu nhược điểm của các loại bơm nước đã nghiên cứu và ứng dụng
trong nước.
- Kết quả của những công trình nghiên cứu về thiết kế chế tạo các loại bơm phục vụ




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

cho nông nghiệp và đời sống của đồng bào vùng cao.
- Vấn đề cần nghiên cứu liên quan đến bơm nước xoắn ốc dùng sức nước dòng chảy
sông suối.
4. Mục đích nghiên cứu, đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
* Mục đích đề tài:
- Nghiên cứu, chế tạo được bơm cuộn xoắn ốc dùng sức nước dòng chảy, phục
vụ tưới cây trồng, nuôi thuỷ sản cho đồng bào vùng cao. Sử dụng nguồn năng
lượng tự nhiên vốn có của dòng chảy sông suối. Không dùng các nguồn năng lượng
khác và đặc biệt không gây ô nhiễm môi trường.
* Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu khảo sát dòng chảy sông suối vùng cao.
- Nghiên cúu thiết kế chế tạo bơm cuộn xoắn ốc lắp đặt trên phao nổi.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê, điều tra khảo sát.

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp thí nghiệm đơn và đa yếu yếu tố xác định các yếu tố ảnh hưởng
đến vận tốc dòng chảy và đặc tính làm việc của bơm.
- Ứng dụng AutoCAD và Inventor trong thiết kế.
* Nội dung nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Phân tích tổng hợp điều kiện của dòng chảy sông suối tại nơi đặt bơm.
- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết, xây dựng mô hình làm việc của bơm xoắn ốc dùng
sức nước dòng chảy sông suối lắp đặt trên phao nổi.
- Lựa chọn các thông số hợp lý, bố trí hợp lý các bộ phận làm việc của máy bơm
nước xoắn ốc.
- Lựa chọn chế độ làm việc hợp lý để tiến hành lắp đặt bơm xoắn ốc.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Chƣơng I
NĂNG LƢỢNG DÒNG CHẢY SÔNG SUỐI VÀ VIỆC SỬ
DỤNG NGUỒN NĂNG LƢỢNG THIÊN NHIÊN PHỤC VỤ
SẢN XUẤT VÀ ĐỜI SỐNG Ở MIỀN NÚI
1.1. Dòng chảy sông suối – nguồn năng lƣợng sạch của thiên nhiên
1.1.1. Mạng lưới sông suối ở nước ta
Địa hình Việt nam chủ yếu là đồi núi được Tân Kiến Tạo làm trẻ lại do đó có
độ dốc lớn, trên đó lại được nhận lượng mưa khá lớn tập trung vào mùa hạ đã tạo
nên mạng lưới sông ngòi (nước chảy tràn) bao gồm hàng ngàn sông suối lớn nhỏ
với hình dạng, tính chất, hướng chảy khác nhau.
Nước ta có mật độ sông suối dày đặc với 2360 con sông. Trung bình cứ 1km
sông/1km
2

. Tuy nhiên có sự phân bố không đồng đều giữa các nơi: những vùng núi
đá rắn, đá vôi mưa ít có mật độ sông ngòi thấp 0,5km sông/1km
2
. Tại các sườn núi
đón gió, có lượng mưa nhiều, mật độ sông suối khoảng 1,5km sông/1km
2
. Riêng ở
khu vực đồng bằng mật độ khá lớn khoảng 3-4 km sông/1km
2
. Sông có lưu lượng
lớn do ở nước ta có lượng mưa lớn, lưu lượng bình quân là 26.200m
3
/s, tương ứng
với tổng lượng nước là 839 tỉ m
3
/năm (trong số này chỉ có 38,5% được sinh ra trong
lãnh thổ Việt Nam). Trong tổng lượng nước nói trên thì nước chảy tràn trên mặt
chiếm 637 tỷ m
3
/năm (76%), còn lại là nước ngầm. Lượng nước trên mặt phân bố
không đồng đều:
+ Sông Cửu Long chiếm 60,4%
+ Sông Hồng chiếm 15,1%
+ Các sông còn lại 24,5%
Mođun (Module) ở nước ta khá lớn, khoảng 30 lít/s/km2 nhưng cũng có sự
phân bố không đều. Vùng mưa nhiều mođun đạt 75 lít/s/km2, vùng mưa ít như
cực Nam Trung Bộ 10 lít/s/km2
M (mođun ) = ( Q x 10^3 ) / F ( F: diện tích lưu vực Q: tổng lượng nước ).
Địa hình Việt Nam (VN) có 2 hướng chính là hướng vòng cung và hướng Tây
bắc – Đông nam và phù hợp với nó là hướng của các dãy núi, từ đó làm cho sông





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

VN có 2 hướng chính: hướng vòng cung và hướng Tây bắc – Đông nam và đổ thẳng
ra biển Đông. Ngoài ra sông VN còn vô vàn phức tạp như chia thành nhiều bậc khi
chảy qua địa hình bậc thang hoặc có đoạn lòng sông mở rộng, có đoạn thu hẹp (thác
ghềnh).
Sông VN thường bắt nguồn từ những vùng núi cao: [ sông Hồng bắt nguồn từ
dãy Nguỵ Sơn ( 1766m ở Vân Nam )], hầu hết các sông còn lại đều bắt nguồn từ
vùng núi cao trên dưới 1000m làm cho sông ngòi VN có độ dốc lớn. Sông Hồng ở
Việt trì có độ dốc 23cm/km, sông Lô có độ dốc 33cm/km, sông Đà 71cm/km, các
sông ở đông Trường Sơn có độ dốc trên 100cm/km.
1.1.2. Thủy chế của sông ngòi Việt nam
Thủy chế của sông ngòi Việt nam phù hợp với chế độ khí hậu. Khí hậu Việt
nam có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô tương ứng với mùa khô là mùa cạn
còn mùa mưa là mùa lũ. Tuy nhiên do tính phúc tạp của khí hậu Việt nam đó là sự
phân hoá theo khu vực (nơi mưa ít, nơi mưa nhiều, nơi mưa vào mùa hạ, nơi mưa
vào mùa đông) làm cho mùa lũ không thống nhất trong cả nước.
Mùa lũ ở Việt nam thường dài 4 -5 tháng (tháng 5-10 ), chiếm 70 – 80% lượng
nước của cả năm.
Mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 4 lượng nước chiếm 20-30%, thậm chí vào
mùa cạn có sông không có nước như ở Cực Nam Trung Bộ. Vì vậy làm cho độ
chênh lệch nước giữa đỉnh lũ và đỉnh cạn rất lớn, lên đến 15-20 lần. Mùa cạn cũng
có khuynh hướng chậm dần từ Bắc đến Nam. (Ở Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 5,
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ từ tháng 11 đến tháng 5, ở miền Nam mùa cạn ngắn từ
tháng 11 đến tháng 4).
1.1.3. Dòng chảy sông suối

Dòng chảy là lượng nước trong lưu vực chảy qua mặt cắt cửa ra sau khoảng
một thời gian nhất định cùng với sự thay đổi của nó trong thời gian đó.
Xét theo xuất phát điểm của dòng chảy, người ta chia dòng chảy thành hai
phần:




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Dòng chảy mặt: Là dòng chảy hình thành do nước trên bề mặt lưu vực tạo ra
(do mưa hoặc tuyết tan) và tập trung về tuyến cửa ra. Dòng chảy mặt chỉ hình thành
trong thời gian có mưa hoặc khi tuyết tan.
- Dòng chảy ngầm: dòng chảy do nước ngầm cung cấp cho sông, suối. Dòng
chảy ngầm hình thành trong cả hai thời kỳ có mưa và không có mưa. Các con sông,
suối có nước ngay khi cả trong mùa khô hạn là nhờ vào dòng chảy ngầm.
Một trong những đặc thù của dòng sông là sự tồn tại tính chu kỳ. Xét trong
một khoảng thời gian dài nhiều năm, có những năm liên tục dòng chảy dồi dào
nhưng cũng có năm mực nước hạ thấp. Nếu xét trong thời đoạn một năm thì thời kỳ
có nhiều nước trong sông suối là vào các tháng mùa mưa (dòng chảy lũ) và thời kỳ
dòng chảy yếu là vào các tháng mùa khô (dòng chảy kiệt). Trong mùa mưa, dòng
chảy sinh ra chủ yếu từ dòng chảy mặt, còn trong mùa kiệt nước ngầm là nguồn bổ
xung nước chủ yếu cho sông suối. Thời gian bắt đầu và kết thúc cho mỗi mùa khác
nhau phụ thuộc vào điều kiện khí hậu của từng vùng.
1.1.4. Dòng chảy sông suối Việt Nam và các yếu tố địa lý tác động tới nó
Việc trị thủy và khai thác các dòng sông, ngoài những hiểu biết về mạng lưới
địa lý thủy văn và những đặc trưng hình thái của nó, còn phải có những hiểu biết
đầy đủ về những yếu tố địa lý ảnh hưởng đến dòng chảy, quá trình hình thành và
diễn biến dòng chảy trên lưu vực sông. Trên cơ sở đó, chúng ta mới hiểu biết một
cách chi tiết bản chất vật lý của những đặc trưng thủy văn, mới giải thích được sự

hình thành và diễn biến của dòng chảy một cách định lượng, chính xác thông qua
việc lựa chọn phương pháp, xây dựng các công thức tính toán đặc trưng của dòng
chảy cũng như cân bằng của sông suối.
Đặc trưng hình thái thủy văn sông suối được hình thành dưới ảnh hưởng của
tổng hợp các yếu tố địa lý. Những yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng
lẫn nhau. Những yếu tố địa lý quan trọng nhất là khí hậu, thổ nhưỡng và nham
thạch. Ngoài ra, địa hình, cấu tạo địa chất, độ đầm lầy, độ ao hồ cũng ảnh hưởng rõ
rệt. Cuối cùng là sự hoạt động kinh tế của con người ảnh hưởng rất lớn và ngày
càng quan trọng đến sự hình thành và diễn biến dòng chảy của sông suối.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Hình 1.1. Đường phân nước và giới hạn của lưu vực sông (suối)
Mối quan hệ tương hỗ giữa dòng chảy và môi trường địa lý rất phức tạp khó
phân biệt một cách chính xác vai trò ảnh hưởng của mỗi yếu tố địa lý với dòng
chảy.
1.1.4.1. Các yếu tố khí hậu
Trong các nhân tố địa lý tự nhiên thì khí hậu là nhân tố cơ bản, đóng vai trò
quan trọng nhất trong quá trình hình thành và diễn biến dòng chảy sông suối.
Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm của nước ta, mưa là hình thức nước rơi
duy nhất. Do đó số lượng và tính chất của nước mưa cùng sự bốc hơi từ lưu vực đã
quyết định tiềm năng của dòng chảy sông suối. Mưa và bốc hơi là các yếu tố khí
hậu tham gia trực tiếp vào cán cân nước của mỗi lưu vực sông cụ thể.
1).Mưa. Đặc điểm khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa của nước ta thể hiện rất rõ rệt
lượng mưa trung bình trong nhiều năm và tương quan giữa lượng mưa và lượng bốc
hơi năm. Xét trên toản lãnh thổ nước ta, lượng mưa trung bình nhiều năm khoảng

1960 mm. So với lượng mưa trung bình cùng vĩ độ (10
0
- 20
0
Bắc) thì ở nước ta có
lượng mưa khá dồi dào, gấp 2,4 lần. Ở những nơi khuất gió ẩm thì lượng mưa trung
bình hàng năm mới giảm xuống dưới 1000 mm.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Quy luật phân bố của lượng mưa trung bình nhiều năm không đều trong không
gian, phụ thuộc vào độ cao địa hình và hướng gió ẩm. Các vùng mưa lớn được hình
thành trên lãnh thổ như: Móng Cái 2800 mm - 3000 mm, Bắc Quang 4765 mm,
Hoàng Liên Sơn 2600 mm -3000 mm, Mường Tè 2600 - 2800 mm [2]…. Vùng có
lượng mưa lớn kéo dài từ vĩ tuyến 150B - đến 160B, gọi là vĩ tuyến nước.
Ngược lại, những vùng mưa nhỏ được hình thành ở những vùng thấp, khuất,
hoặc nằm song song với hướng gió ẩm, đó là các vùng An Châu 1000 mm -1200
mm, Sơn La 1000 - 1300 mm, Mường Xén 800 - 1000 mm, đặc biệt ở Phan Rang,
Phan Rí chỉ đạt 650 mm. Vùng có lượng mưa nhỏ kéo dài ở Duyên hải cực nam
Trung Bộ từ vĩ tuyến 10
0
B đến vĩ tuyến 12
0
B là vùng ít mưa khá điển hình ở nước
ta.
Nhìn chung, lượng dòng chảy của sông suối ở nước ta khá phong phú. Độ sâu
dòng chảy nhiều năm đạt 998 mm. So với độ sâu dòng chảy ở vĩ độ 100 – 120B

cùng vĩ độ với nước ta (207 mm) thì lượng mưa dòng chảy ở nước ta gấp 5 lần.
Quy luật phân bố của dòng chảy cũng tương tự như phân bố của mưa. Trên
toàn lãnh thổ các trung tâm dòng chảy lớn, nhỏ thường trùng với các trung tâm mưa
lớn, mưa nhỏ.
Những vùng mưa lớn thì dòng chảy lớn như ở vùng Vài Lài thuộc tâm mưa
lớn Móng Cái, độ sâu dòng chảy năm trung bình đạt tới 2334 mm; vùng Hoàng
Liên Sơn, độ sâu dòng chảy năm cũng đạt tới 2180 mm tại Tà Thàng, vùng Bắc
Quang trên 3000 mm, Mường Tè trên 2000 mm, vùng Hoành Sơn tại sông Rào Cái,
độ sâu dòng chảy tới 1800-2400 mm. Vùng mưa lớn Bắc đèo Hải Vân, độ sâu dòng
chảy cũng xấp xỉ 2000 mm, tại sông Hữu Trạch là 1973 mm, vùng mưa lớn Trà
My- Ba Tơ, Ba Na, độ sâu dòng chảy đều vượt trên 2000 mm, sông Bùng 2070 mm,
sông Tranh 2303 mm và sông Vệ 2372 mm. Quá vào phía Nam có sông Hinh cũng
đạt trên 1500 mm. Sự lập lại phân bố của mưa cũng thể hiện khá rõ đối với các
trung tâm dòng chảy nhỏ như tại Chi Lăng 470 mm, ThácVai 391 mm, Cửa Rào
583 mm, Sông Lũy 316 mm.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Như vậy, lượng dòng chảy và sự phân bố của nó trên lãnh thổ nước ta phụ
thuộc chủ yếu vào sự phân bố của lượng mưa. Đặc điểm của tính quy luật đó được
phản ánh rất rõ trên thực tế và trên bản đồ đường đồng mức và dòng chảy trung
bình nhiều năm.
Yếu tố mưa không những hưởng đến dòng chảy mặt phân bố trong không gian
như đề cập trên, mà còn ảnh hưởng đến tính biến động của dòng chảy theo thời
gian.
Thật vậy, chế độ mưa ảnh hưởng lớn đến chế độ dòng chảy sông suối nước ta.
Khí hậu nước ta có sự phân hóa theo mùa rõ rệt, trên toàn lãnh thổ, ở đâu cũng có

mùa khô với lượng nước thấp hơn lượng bốc hơi và một mùa mưa. Do đó dòng
chảy sông suối cũng tăng lên theo mùa, mùa lũ ứng với mùa mưa và mùa cạn ứng
với mùa khô.
Chế độ nước sông điều hòa hay ác liệt có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất
và đời sống. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa như ở nước ta vấn đề chế độ
dòng chảy trong năm lại là vấn đề quan trọng hơn nhiều so với tổng lượng.
Nhìn chung, trên toàn lãnh thổ mùa mưa và chế độ dòng chảy cũng phân hóa
theo không gian khá rõ:
Mùa mưa nhiều có xu thế chậm dần từ bắc xuống nam tính đến Phan Rí:
Bắc Bộ mùa mưa từ tháng IV, V đến tháng IX, X.
Bắc Trung Bộ, mùa mưa từ tháng VIII đến tháng XII.
Nam Trung Bộ từ Phan Rí mùa mưa từ tháng IX đến tháng XII.
Phan Rí và Nam Bộ mùa mưa từ tháng IV, V đến tháng X-XI.
Trung và nam Tây Nguyên mùa mưa từ tháng V đến tháng X.
Trừ vùng duyên hải Trung bộ có mùa mưa bắt đầu muộn nhất do địa hình của
dãy Trường Sơn phối hợp với hoàn lưu đông bắc tạo nên, còn phần lớn lãnh thổ có
mùa mưa bắt đầu từ tháng IV, V và kết thúc vào tháng X- XI.
Mùa mưa tuy dài ngắn khác nhau, dao động từ 4 đến 6 tháng, nhưng có tới 70
-90% lượng mưa cả năm tập trung vào mùa mưa.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Xét trên toàn lãnh thổ, sự chi phối của chế độ mưa đối với chế độ dòng chảy là
rõ ràng, nhưng dòng chảy sông suối còn chịu ảnh hưởng của cấu trúc mặt đệm lưu
vực. Tùy thuộc vào khả năng điều tiết của lưu vực nhiều hay ít mà chế độ dòng
chảy sông suối phụ thuộc vào chế độ mưa với mức độ khác nhau.
Nhìn chung, mùa lũ thường ngắn hơn mùa mưa 1-2 tháng và xuất hiện chậm

hơn mùa mưa khoảng 1 tháng. Nhưng trong nhiều trường hợp, các nhân tố của mặt
đệm có ảnh hưởng trội đối với chế độ dòng chảy. Đó là trường hợp các lưu vực
sông vừa và nhỏ, lòng sông không thu nhận được toàn bộ nước ngầm. Ở những
vùng đá vôi nhiều hoặc đất bazan có tầng phong hóa sâu, khả năng thấm lớn thì chế
độ dòng chảy thể hiện sự ảnh hưởng của mặt đệm rất rõ rệt. Như ở Tây Nguyên, do
khả năng thấm của đất vào cuối mùa khô rất lớn, trong khi đó mưa đầu mùa lại cách
đoạn, cường độ nhỏ, đã tạo ra một mùa lũ chậm hơn mùa mưa tới 1,5-2 tháng. Ảnh
hưởng của nhân tố khí hậu giảm nhưng ảnh hưởng của mặt đệm tăng lên, trở thành
nhân tố trội trong sự hình thành chế độ dòng chảy của sông suối, sông ngòi.
2).Bốc hơi. Ngoài yếu tố mưa, yếu tố bốc hơi từ bề mặt lưu vực cũng tham gia trực
tiếp vào cán cân nước của sông suối, ảnh hưởng rõ rệt đến sự hình thành của dòng
chảy.
Ở nước ta có nền nhiệt độ cao, trên toàn lãnh thổ nhiệt độ trung bình năm đều
vượt quá 21
0
C ở miền Bắc, và 25
0
C ở miền Nam. Nhiệt độ cao đã làm cho quá
trình bốc hơi trên lưu vực sông từ Bắc vào Nam đều khá lớn. Lượng bốc hơi trung
bình năm toàn lãnh thổ là 953 mm, so với lượng mưa trung bình năm thì hệ số bốc
hơi là 0,48, nhỏ hơn khoảng 35% so với cùng vĩ độ.
Tóm lại mưa và bốc hơi là hai yếu tố quan trọng nhất của khí hậu ảnh hưởng
đến dòng chảy, nó quyết định tiềm năng dòng chảy sông suối ở nước ta. Nhân tố khí
hậu có ảnh hưởng quyết định đến sự phân bố của dòng chảy trong không gian và
phân bố theo thời gian.
Quy luật về sự ảnh hưởng của khí hậu đến dòng chảy ở nước ta đã được khẳng
định khá rõ thông qua quan hệ giữa mưa và dòng chảy. So với các nhân tố khác thì
quan hệ giữa mưa và dòng chảy chặt chẽ hơn cả do trong sự hình thành dòng chảy





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

sông suối ở nước ta thì mưa đóng vai trò quyết định về cả lượng và chế độ dòng
chảy trong năm cũng như phân bố trong không gian. Sự ảnh hưởng của phân bố khí
hậu tới dòng chảy được định liệu qua thực tế tài liệu đo đạc và tính toán thường
chiếm khoảng 80 - 90%. Các yếu tố ảnh hưởng khác thuộc mặt đệm của lưu vực
ảnh hưởng đến dòng chảy khoảng từ 10 - 20%.
Từ kết quả nghiên cứu quy luật ảnh hưởng của khí hậu đối với dòng chảy đã
cho phép thiết lập quan hệ giữa lượng mưa và lượng dòng chảy cho các khu vực
trên toàn lãnh thổ. Nhìn chung hệ số tương quan đều rất cao, phần lớn đều đạt trên
0,85.
1.1.4.2. Thổ nhưỡng và nham thạch
Chúng ta biết rằng, lưu vực sông được cấu tạo từ thổ nhưỡng và nham thạch.
Thổ nhưỡng và nham thạch là yếu tổ ảnh hưởng quan trọng đến dòng chảy. Thực tế
cho thấy một lưu vực có lượng mưa lớn chưa đủ sản sinh một dòng chảy mặt phong
phú, vì dòng chảy còn phụ thuộc vào khả năng thấm nước của thổ nhưỡng và kiến
trúc địa chất của lưu vực sông nữa.
Theo kết quả phân tích và so sánh trên một số cặp trạm thủy văn thì ảnh hưởng
của thổ nhưỡng và nham thạch đối với dòng chảy sông suối theo hai chiều hướng:
có thể làm tăng hoặc giảm lượng dòng chảy, điều hòa hoặc thất thường hóa chế độ
dòng chảy. Trên toàn bộ lãnh thổ nước ta có hai loại thổ nhưỡng và nham thạch có
ảnh hưởng rõ và quan trọng nhất đối với dòng chảy sông suối và chế độ của nó là đá
vôi và chất phong hóa từ bazan.
Đá vôi chiếm một diện tích khá lớn và phân bố rộng khắp ở miền Bắc nước ta.
Nó có đặc điểm là dễ hòa tan, nhất là lượng nước mưa có nhiều CO
2
tự do, thường
có các hang động sông ngầm…làm giảm dòng chẳy mặt; mật độ sông suối ở những

vùng đá vôi thường nhỏ hơn 0,5 km/km
2
, lượng dòng chảy sông suối thường bị
giảm do mất nước vì đường phân lưu của lưu vực sông ở đây không khép kín. Quy
luật giảm dòng chảy trong các lưu vực sông có nhiều đá vôi đã thể hiện khá rõ. Kết
quả so sánh ở một số cặp trạm thủy văn có tỷ lệ đá vôi khác nhau rõ rệt, các yếu tố
diện tích, độ cao và mưa gần tương tự cho thấy tỷ lệ đá vôi trong lưu vực tăng lên




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

khoảng 10% thì lượng dòng chảy mặt bị giảm bình quân là 8%. Đặc điểm này
thường xuất hiện trong các vùng núi đá vôi chủ yếu là các phễu hứng nước, cửa
biển, cửa hiện. Dòng chảy khi ẩn hiện có thể gặp ở Trà Lĩnh, Đồng Văn, cao
nguyên Sơn La và khối núi đá vôi Kẻ Bàng…
Rõ ràng đá vôi đã tạo ra ở nước ta một kiểu chế độ dòng chảy sông suối đặc
biệt, thủy văn vùng núi đá vôi với những đặc điểm sau:
Dòng chảy mặt giảm đi rõ rệt, mật độ sông suối thưa thớt, dưới 0,5 km/km
2
.
Lượng nước ngầm phong phú, thường chiếm từ 40 - 40% lượng dòng chảy cả năm,
có ảnh hưởng rõ rệt đến phân bố dòng chảy trong năm, có tác dụng điều hòa dòng
chảy do khả năng điều tiết rất lớn trong khu vực. Các lưu vực sông vùng đá vôi có
hệ số hình dạng ngọn lũ thường bé (0,5-1,0), mô đun dòng chảy đỉnh lũ cũng thiên
bé rõ rệt, nói chung lũ lên chậm và đỉnh lũ kéo dài.
1.1.4.3. Địa hình
Sau khí hậu, thổ nhưỡng và nham thạch là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
tới lượng dòng chảy và sự phân bố trong không gian cùng chế độ của dòng chảy,

yếu tố địa hình ở nước ta cũng có ảnh hưởng khá rõ đến lượng dòng chảy và chế độ
của nó.
Lãnh thổ nước ta có diện tích đồi núi chiếm tới 3/4 trong đó chủ yếu là đồi núi
thấp, những đỉnh cao nhất mới đạt tiêu chuẩn núi trung bình. Độ cao 100-150 m
chiếm 50% diện tích, núi cao trên 1000 m chỉ chiếm tới 10% diện tích. Như vậy,
đồi núi thấp là tính chất chủ yếu của địa hình nước ta.
Ảnh hưởng của địa hình có tác dụng nhất định tới dòng chảy thông qua việc
tăng cường tính địa đới của khí hậu. Nhìn chung, trên toàn lãnh thổ nước ta sự gia
tăng độ cao tuyệt đối của địa hình thường biểu hiện ở sự gia tăng của lượng mưa, độ
dốc lưu vực, nhiệt độ giảm, mật độ sông suối tăng. Trong điều kiện đó lượng dòng
chảy cũng được gia tăng theo độ cao khá rõ.
Kết quả tính toán cho thấy lượng mưa và lượng dòng chảy gia tăng theo độ
cao. Sự gia tăng lớn nhất xuất hiện trong khoảng độ cao từ 300 - 600 m và giới hạn




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

độ cao mà quy luật mưa tăng theo độ cao không tồn tại nữa thường được ước lượng
từ độ cao 2000m trở lên.

Hình 1.2. Đồ thị biễu diễn mặt cắt ngang khác nhau dọc theo một con sông (suối)
và mối liên hệ giữa lưu lượng và các yếu tố dòng chảy theo các mặt cắt ngang.
Như vậy, độ cao bình quân lưu vực sông ở nước ta đều nằm trong giới hạn tác
động của quy luật tăng theo độ cao của lượng mưa và dòng chảy. Sự gia tăng của
lượng mưa và dòng chảy được tính như sau: đối với lượng mưa tăng khoảng từ 20 -
300 mm cho 100m tăng độ cao, đối với dòng chảy thì tăng ít hơn chỉ 5 - 40mm cho
100m tăng độ cao. Kết quả so sánh một số cặp trạm thủy văn có độ chênh lệch rõ
rệt, thì thấy lượng mưa và lượng dòng chảy đều tăng theo độ cao. Tính cho 1100m

tăng lên độ của độ cao thì sự tăng lượng dòng chảy giữa các trạm không đồng nhất,
nơi tăng nhiều đến 23%, nơi ít tăng khoảng 10%. Tính trung bình thì lượng dòng
chảy tăng theo độ cao khoảng 16% cho 100m. Trên toàn bộ lãnh thổ, những trung
tâm mưa lớn và dòng chảy lớn đều nằm trên các vùng núi có độ cao nhưng hướng




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

về phía gió ẩm thịnh hành. Ngoài quy luật tăng theo độ cao của lượng mưa và lượng
dòng chảy năm, chúng ta còn thấy sự ảnh hưởng của địa hình khá rõ rệt đối với
lượng và sự phân bố dòng chảy do đặc điểm hướng sườn của địa hình. Theo quy
luật này thì ở sườn đón gió có lượng mưa và lượng dòng chảy lớn hơn ở phía khuất
gió. Sự chênh lệch này khá rõ ràng, nhất là ở phía đông bắc và tây nam núi Đông
Triều; giữa hai trạm Bình Liêu và Cấm Đàn lượng dòng chảy chênh lệch nhau tới
35%. Như vậy, độ cao và hướng sườn đón gió ẩm của địa hình đều làm tăng lượng
dòng chảy năm, trung bình thì lượng gia tăng đó khoảng 22%.
Đối với chế độ dòng chảy, nhân tố địa mạo cũng ảnh hưởng rõ rệt. Nói chung
những vùng địa hình cao, mưa nhiều thì tỷ số phân phối dòng chảy trong năm điều
hòa hơn vùng thấp có lưu lượng ít, nguyên nhân chủ yếu là do mùa mưa kéo dài. Sự
hình thành của địa hình đối với cơ chế dòng chảy thể hiện rõ nhất ở phía đông dãy
núi Trường Sơn. Tại đây địa hình đã phối hợp với hướng của gió mùa, hình thành
kiểu chế độ dòng chảy đặc sắc nhất ở nước ta - mùa lũ lệch về mùa đông, từ tháng
IX-X đến tháng XI- XII; mô hình phân phối dòng chảy trong năm có pha nước lớn,
nước nhỏ rõ rệt, khác biệt hẳn so với các vùng khác trên lãnh thổ.
1.1.4.4. Rừng
Từ thực tế nước ta cho thấy ảnh hưởng của rừng đối với dòng chảy lệ thuộc
vào rất nhiều yếu tố, trong đó tỷ lệ che phủ và loại rừng là những yếu tố quan trọng
nhất.

Rừng cây làm biến đổi thổ nhưỡng rất mạnh nên khi tình hình che phủ của
rừng thay đổi thường kéo theo sự thay đổi về loại rừng và chế độ dòng chảy của
sông suối.
Ở nước ta quá trình biến đổi đó thường biến đổi qua rừng nguyên thủy đến
rừng mọc lại, rừng tre nứa cỏ tranh, bụi rậm và cuối cùng là đồi trọc. Chiều hướng
biến đổi ngược lại tuy có song rất ít và rất chậm. Sự biến đổi tương ứng của dòng
chảy là khô kiệt về mùa cạn, chế độ sông ngòi từ điều hòa trở nên thất thường, ác
liệt hóa, lũ lụt, khô cạn thường xuyên xảy ra nhiều hơn khi còn rừng.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Ở nước ta, rừng còn lại không nhiều, tỷ lệ che phủ của rừng hiện nay chỉ còn
khoảng 24% diện tích toàn lãnh thổ, tức là đã suy tàn quá mức cho phép tới 26%.
So với năm 1945 thì năm 1985 nước ta chỉ còn 7,8 triệu ha rừng. Như vậy, sau 40
năm đã mất 65 triệu ha rừng. Riêng từ năm 1975 đến nay hàng năm mất 225000 ha
rừng.
Những vùng còn nhiều rừng (tỷ lệ đất có rừng chiếm từ 35% trở lên) ở Bắc Bộ
chỉ còn có hai tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, các tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, Ninh
Thuận, Bình Thuận và Tây Nguyên. Trong đó có hai tỉnh Lâm Đồng và Đắc Lắk, tỷ
lệ rừng còn nhiều nhất đạt từ 45- 68% diện tích. Vùng còn ít rừng nhất là Tây Bắc
chỉ còn có 9%
Về loại rừng trong tổng diện tích rừng là 7,8 triệu ha có các loại như sau:
Lá rộng thường xanh chiếm 5,362 triệu ha, rừng rụng lá là 371,6 nghìn ha, lá
kim 135 nghìn ha, rừng hỗn giao gỗ, tre nứa 395 nghìn ha, rừng tre nứa 1 triệu ha.
Trong khi đó diện tích không còn rừng là 13 triệu 787 nghìn ha, trong đó đồi
trọc chiếm gần 1 triệu ha, còn lại là cây bụi, gỗ rải rác.
Tỷ lệ rừng còn lại và loại rừng của nước ta như trên đã có ảnh hưởng quan

trọng đến dòng chảy sông ngòi cũng như chế độ của nó. Theo số liệu nghiên cứu
thực nghiệm dòng chảy và chống xói mòn, kết quả so sánh một số cặp trạm thủy
văn có sự khác nhau rõ rệt về tỷ lệ rừng, bước đầu chúng ta có thể nêu lên một số
nhận xét sau:
Rừng làm tăng hay giảm lượng dòng chảy năm. Thực tế cho thấy rằng, vùng
có độ cao địa hình dưới 500m thì sự tăng hay giảm lượng dòng chảy năm không rõ
rệt. Song, xu thế chung là lượng dòng chảy ở đây thường bị giảm đi. Ngược lại,
những vùng địa hình cao hơn 500 m thì xu thế chung làm tăng lượng dòng chảy
năm, càng lên cao xu thế càng rõ rệt. Điều đó phù hợp với quy luật: tổn thất giảm và
mưa tăng theo độ cao.
Trong điều kiện mưa nhiều, dòng chảy phong phú, ở nước ta ảnh hưởng của
rừng có ý nghĩa hơn cả là tác dụng điều hòa chế độ dòng chảy và chống xói mòn
đất. Riêng về dòng chảy mặt trên sườn núi thì rừng có tác dụng làm giảm đi rất

×