Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.24 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
Trang
I.MỞ ĐẦU
Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước ta. Vì vậy Quốc hội
có những nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng nhưng nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng
nhất của Quốc hội là trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp. Để làm rõ vấn đề này, nhóm em
xin chọn chủ đề “Hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội – thực trạng và giải pháp”.
Trong quá trình làm bài do kiến thức chúng em còn hạn chế nên còn nhiều thiếu xót rất
mong được sự góp ý của các thầy, cô trong tổ bộ môn để bài làm chúng em được hoàn
thiện hơn. Chúng em xin trân thành cảm ơn!
II.NỘI DUNG
1. Định nghĩa:
- Hiến pháp là hệ thống các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất quy
định những vấn đề cơ bản nhất về chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị, chính
sách kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức quyền lực nhà nước. địa vị pháp lí của
con người và công dân.
1
- Luật pháp dưới góc độ luật học được hiểu như là tổng thể các quy tắc xử sự có
tính bắt buộc chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai
cấp cầm quyền, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo
dục, thuyết phục, và cưỡng chế.
- Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Cơ sở pháp lí:
- Điều 50 Hiến pháp 1959
- Điều 83 Hiến pháp 1980
- Điều 84 Hiến pháp 1992
- Điều 70 Hiến pháp 2013
- Luật tổ chức Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2001
3. Hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội
3.1. Hoạt động lập hiến


3.1.1 Việc ban hành hiến pháp hiện nay:
Giai đoạn 1: Soạn Thảo
Lập chương trình, kế hoạch xây dựng hiến pháp. Cần có chương trình , kế hoạch
trong đó nêu cụ thể về những nội dung văn bản dự kiến điều chỉnh; xác định rõ vị trí ,
vai trò của các cơ quan soạn thảo, thẩm định và thông qua; dự kiến những chi phí cần
thiết và khả năng thực hiện.Quyết định cơ quan chủ trì soạn thảo. Việc phân công soạn
thảo cần được tiến hành trênh nguyên tắc đúng người , đúng việc.Thành lập cơ quan soạn
thảo. Ban soạn thảo, các thành viên của ban bao gồm các nhà chính trị, các chuyên gia
pháp lí cao cấp, hiểu biết sâu rộng và có uy tín chính trị cao.Ban soạn thaỏ tổ chức
nghiên cứu, xây dựng dự thảo
Giai đoạn 2: Lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo.
Tổ chức lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân
hữu quan hoặc trong trường hợp cần thiết có thể tổ chức trưng cầu dân ý. Việc tổ chức
lấy ý kiến có thể thông qua các hội thảo hoặc góp ý kiến trưvj tiếp. Các tổ chức, cơ quan,
cá nhân được yêu cầu đóng góp ý kiến phải có trách nhiệm trả lời bằng văn bản và phải
chịu trách nhiệm pháp lý về những ý kiến đóng góp của mình. Cần chú trọng ý kiến của
các cơ quan , tổ chức, cá nhân có liên quan đến lĩnh vực văn bản điều chỉnh. Kết quả
đóng góp ý kiến phải được đánh giá, xử lý tiếp thu bằng văn bản tổng hợp các ý kiến
đóng góp.
2
Giai đoạn 3: Thông qua
Sau khi dự thảo văn bản sửa đổi hiến pháp được chỉnh lý, hoàn thiện trên cơ sở ý kiến
đóng góp của nhân dân và sau khi đã được Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng
xem xét, cho ý kiến, Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp trình ra Quốc hội.
Giai đoạn 4: Công bố Hiến pháp
Về cơ bản, việc công bố Hiến pháp cũng tương tự như việc công bố luật - do Chủ
tịch nước (hoặc Chủ tịch Hội đồng Nhà nước trước đây) công bố. Tuy nhiên, cũng có
trường hợp cá biệt như việc không công bố hai Nghị quyết sửa đổi Hiến pháp năm 1980.
Giai đoạn 5 : Giải thích hiến pháp
Ủy Ban Thường vụ Quốc hội giải thích hiến pháp.Cơ quan tổ chức theo quy định tại

điều 87 hiến pháp 1992, đại biểu quốc hội có quyền đề nghị ủy ban thường vụ quốc hội
giải thích hiến pháp. Ủy ban thường vụ quốc hội xem xét quyết định việc giải thích. Nội
dung giải thích được thể giện bằng nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
3.1.2.Quy trình sửa sửa đổi hiến pháp.
Giai đoạn 1: Sáng kiến đề nghị và quyết định việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
Ở nước ta, sáng kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp cũng do nhiều chủ thể khác
nhau thực hiện, như: Quốc hội với 2/3 tổng số đại biểu yêu cầu (Điều thứ 70 Hiến pháp
năm 1946) nhưng chưa có lần nào thực hiện quy định này; cơ quan thường trực của Nghị
viện nhân dân/Quốc hội (năm 1957 Ban thường vụ đề nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1946
để ban hành Hiến pháp năm 1959); Chủ tịch Quốc hội (năm 1989 đề nghị sửa đổi Hiến
pháp năm 1980 để ban hành Hiến pháp 1992); Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (đề nghị sửa
đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992).Có thể thấy, chủ thể sáng quyền sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp nước ta cũng khá đa dạng từ Chính phủ, Quốc hội (2/3 tổng số đại
biểu), các cơ cấu của Quốc hội như Ban Thường trực, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ
tịch Quốc hội. Càng về những năm sau này, quyền sáng kiến đề nghị thường được quy
về cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực của Quốc hội.Trong điều kiện
hiện nay, qua kinh nghiệm các nước, nên trao sáng quyền sửa đổi Hiến pháp cho Quốc
hội (với 2/3 tổng số đại biểu yêu cầu hay tán thành). Việc này vừa phù hợp với yêu cầu
chung của nhà nước pháp quyền và cũng là trở lại với di sản của Hiến pháp Việt Nam
năm 1946 quy định rằng 2/3 tổng số nghị viên có quyền yêu cầu sửa đổi Hiến pháp (Điều
thứ 70). Trường hợp đề nghị sửa đổi, bổ sung một số điều thì có thể giao cho cho Ủy
ban Thường vụ Quốc hội thực hiện.
3
Giai đoạn 2: Thẩm quyền sửa đổi hiến pháp
Theo quy định của các Hiến pháp Việt Nam (Hiến pháp năm 1946 quy định ở Lời
nói đầu và Điều thứ 70, các Hiến pháp sau tương ứng ở các điều 50, 83 và 84), việc sửa
đổi Hiến pháp là do Nghị viện nhân dân/Quốc hội quyết định với thủ tục bỏ phiếu đa số
đặc biệt (riêng đối với Hiến pháp năm 1946, việc sửa đổi (kể cả ban hành) còn phải đưa
ra nhân dân phúc quyết (Điều thứ 21, 32, 70). Như vậy, pháp luật quy định cho Quốc hội
có quyền sửa đổi Hiến pháp với thủ tục đa số đặc biệt (2/3) cơ bản cũng là phù hợp với

cái chung. Hơn nữa, Quốc hội nước ta được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
thì quyền đó càng không sai. Việc để cho nhân dân phúc quyết về hiến pháp tuy có quy
định nhưng chưa khi nào thực hiện và gần đây các Hiến pháp cũng không quy định.
Giai đoạn 3: Soạn thảo dự án (Tờ trình và Dự thảo văn bản)
Đối với nước ta, sau khi xem xét đề nghị về việc chuẩn bị ban hành hoặc sửa đổi
Hiến pháp, nếu Quốc hội tán thành thì Quốc hội thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp với
thành phần là những người đại diện các cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, các cơ quan tư pháp, các cơ quan của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị – xã hội khác, một số chuyên gia pháp lý có trình độ cao, có kinh nghiệm trong
hoạt động xây dựng pháp luật… Chủ tịch Uỷ ban dự thảo Hiến pháp có thể là Chủ tịch
nước, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch
Quốc hội. Có thể nói, với thành phần như vậy, Uỷ ban dự thảo Hiến pháp thực sự là cơ
quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc. Uỷ ban này
có nhiệm vụ soạn thảo dự thảo Hiến pháp hoặc dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một
số điều của Hiến pháp và Tờ trình; nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp của các vị đại
biểu Quốc hội, của các ngành, các cấp, của nhân dân để chỉnh lý dự thảo văn bản trình
Quốc hội xem xét, thông qua.
Giai đoạn 4: Tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các ngành, các cấp, các tổ chức,
đoàn thể nhân dân; công bố lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân đối với Dự thảo Hiến
pháp sửa đổi hoặc Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp.
Ở nước ta, đây là thủ tục không thể thiếu trong hoạt động lập pháp nói chung và lập
hiến cũng áp dụng. Hoạt động này có thể diễn ra tại tất cả các công đoạn của quy trình
lập hiến với nhiều hình thức khác nhau, cả trực tiếp và gián tiếp, nhưng tập trung nhất là
sau khi dự thảo được công bố để nhân dân, các ngành, các cấp đóng góp ý kiến. Việc lấy
4
ý kiến của nhân dân, các ngành, các cấp thường được tiến hành sau khi Quốc hội đã thảo
luận, cho ý kiến bước đầu vào dự thảo Hiến pháp hoặc dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp. Ý kiến đóng góp của các ngành, các cấp, các tổ chức
đoàn thể nhân dân và nhân dân nói chung được Uỷ ban dự thảo Hiến pháp tổng hợp đầy
đủ, tổ chức nghiên cứu tiếp thu để hoàn thiện dự thảo văn bản, bảo đảm chất lượng cả về

nội dung và hình thức, thực sự là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn dân, trình Quốc hội
xem xét
Giai đoạn 5: Xem xét, thông qua dự thảo Hiến pháp sửa đổi hoặc dự thảo Nghị
quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
Khi xem xét, thông qua dự thảo Hiến pháp sửa đổi hoặc dự thảo Nghị quyết sửa đổi,
bổ sung một số điều của Hiến pháp, Quốc hội thường vận dụng các quy định của việc
xem xét, thông qua luật. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có vị trí đặc biệt quan trọng nên
Quốc hội thường xem xét, thông qua tại hai kỳ họp. Theo đó, tại kỳ họp thứ nhất, Uỷ ban
dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội về dự án và Quốc hội thảo luận, cho ý kiến về những
nội dung cơ bản và những vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau của dự thảo. Trong thời
gian giữa hai kỳ họp, dự thảo Hiến pháp hoặc dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một
số điều của Hiến pháp được công bố để lấy ý kiến nhân dân; Uỷ ban dự thảo Hiến pháp
tổ chức việc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, của nhân dân, các
ngành, các cấp để chỉnh lý dự thảo văn bản. Tại kỳ họp thứ hai, Uỷ ban dự thảo Hiến
pháp trình Quốc hội Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý; Quốc hội nghe đọc bản dự thảo
đã được tiếp thu, chỉnh lý và thảo luận về một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau; bản dự
thảo văn bản được chỉnh lý lần cuối trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc
hội sau đó được trình Quốc hội xem xét, biểu quyết thông qua. Việc thông qua dự án sửa
đổi Hiến pháp phải được 2/3 tổng số đại biểu tán thành.
Giai đoạn 6: Công bố văn bản sửa đổi hiến pháp.
Việc công bố Hiến pháp sửa đổi hoặc Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp do Chủ tịch nước (hoặc Chủ tịch Hội đồng Nhà nước) thực hiện. Việc công bố
này – giống như nhiều nước trên thế giới – chỉ có ý nghĩa chính thức hóa việc thực hiện.
Như vậy cũng là phù hợp.
3.2.Hoạt động lập pháp
5
Giai đoạn 1: Soạn thảo
Cơ quan, tổ chức trình dự án thành lập ban soạn thảo. Ban soạn thảo gồm Trưởng ban là
người lãnh đạo cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và các thành viên khác là đại diện lãnh
đạo cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo, cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia. Ban

soạn thảo phải có ít nhất chín người.
Giai đoạn 2: Lấy ý kiến đối với dự án luật
Trong quá trình soạn thảo dự án luật, cơ quan tổ chức chủ trì phải lấy ý kiến cơ quan tổ
chức hữu quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nêu những vấn đề
cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận
ý kiến; đăng tải toàn văn dự thảo trên Trang thông tin của Chính phủ để mọi người góp ý
kiến.
Giai đoạn 3: Thẩm tra
Dự án luật khi trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận phải được Hội đồng
dân tộc, Ủy ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra. Hai cơ quan này có trách nhiệm chủ trì
thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực do mình phụ trách và do Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội giao; tham gia thẩm tra dự án, dự thảo do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì
thẩm tra theo phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Giai đoạn 4: Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến
Tùy vào tính chất và nội dung của dự án mà Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể xem xét
và cho ý kiến một hay nhiều lần. Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, cơ
quan, tổ chức trình dự án luật có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu để điều chỉnh dự án.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức trình dự án luật có ý kiến khác với Ủy ban thường vụ
Quốc hội thì bảo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
Giai đoạn 5: Thông qua
Dự án luật được thông qua khai có quá nửa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Giai đoạn 6: Công bố luật
Luật của Quốc hôi được Chủ tịch nước công bố chậm nhất mười lăm ngày kể từ ngày
được thông qua.
6
Giai đoạn 7: Giải thích luật
Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích luật. Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết
định việc giải thích. Nội dung giải thích luật được thể hiện bằng nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
4. Thực trạng hoạt động lập hiến, lập pháp hiện nay ở nước ta và giải pháp:

4.1.Thực trạng
Thực trạng công tác lập hiến và lập pháp của nước ta gắn với quá trình phát triển của
đất nước. Hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội đã có những thành tựu đáng kể
trong suốt quãng thời gian qua. Quốc hội đã thông ba năm bản Hiến pháp, đánh dấu
những cột mốc pháp lý quan trọng của lịch sử lập hiến nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam với hàng trăm luật và bộ luật tạo cơ sở pháp lý quan trọng để điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Đặc biệt trong những năm gần đây Quốc hội ngày càng thực hiện tốt hơn
hoạt động này vì thế càng góp phần thực hiện vị trí chức năng của mình một cách đầy đủ,
chính xác hơn trong thực tế.
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng vào năm
1986 cho tới nay, khi bản Hiến pháp 2013 ra đời thì đã có những biến đổi lớn trong công
tác lập hiên, lập pháp của Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc tạo lập khuôn khổ
và cơ chế pháp lý cho việc hình thành, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và đổi mới toàn hệ thống chính trị, kết quả là pháp luật đã trở thành công cụ
chủ yếu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội; nguyên tắc pháp quyền được đề cao và phát
huy hiệu quả trên thực tế.
Qua các kì họp của Quốc hội, ta có thể thấy hoạt động lập pháp, lập hiến rất được chú
trọng. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu của Quốc hội khóa XIII tại kì
họp thứ 6đã thông qua, thảo luận về việc sửa đổi Hiến pháp 1992, sửa đổi Luật đất đai,
bổ sung sửa đổi Luật bảo hiểm y tế, thảo luận về Luật đầu tư công; tại kì họp thứ 7 đã
thông qua 11 luật và 6 nghị quyết, cho ý kiến đối với 16 dự án luật khác, góp phần khẳng
định hiệu quả của hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội.
Nhìn chung, hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội có chất lượng tốt, phạm vi
điều chỉnh rộng, mang tính khả thi cao. Để có được điều đó, chúng ta đã quán triệt sâu
sắc các quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển các lĩnh vực kinh tế,
quốc phòng, xã hội, an ninh, đối ngoại và giám sát yêu cầu cuộc sống, coi trọng tổng kết
7
thực tiễn đất nước, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm để ngày càng hoàn thiện hoạt
động lập hiến, lập pháp của Quốc hội.
Có thể đánh giá ưu điểm trong hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội trên một số

khía cạnh cụ thể:
Thứ nhất, về lĩnh vực kinh tế, thông qua hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội
đã tạo ra hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu điều chỉnh xã hội trong công cuộc đổi mới
đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trước hết là trong Hiến pháp 2013 đã thể chế hóa cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, sau đó là các văn bản luật, pháp lệnh. Nội dung
của các văn bản quy phạm, quy định rõ về tính chất, quy mô của nền kinh tế nước nhà
(Điều 50 Hiến pháp 2013), quy định về các thành phần kinh tế là chủ thể của nền kinh tế,
quy định sự đa dạng về các hình thức sở hữu… góp phần quan trọng trong việc phát triển
nền kinh tế của đất nước.
Thứ hai, hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội trong thời kì đổi mới còn tạo ra
cơ sở pháp lý hữu hiệu cho cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh.
Thứ ba, phạm vi điều chỉnh của các Luật mà Quốc hội thông qua được mở rộng, trên
khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội, điều đó nói lên sự cố gắng lớn của Quốc hội nói
chung cũng như các tổ chức và cá nhân liên quan đến hoạt động lập hiến, lập pháp.
Thứ tư, trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, hoạt động lập
hiến, lập pháp đã phát huy vai trò xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; kiện toàn
tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước từ Trung ương tới
địa phương.
Thứ năm, hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội phát triển từ bước không có
chương trình tiến đến Quốc hội đã định kỳ thông qua chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh.
Thứ sáu, việc đổi mới không khí sinh hoạt dân chủ trong Quốc hội, việc thông qua
các đạo luật cũng ngày càng được cải tiến. Hầu hết các vấn đề được bàn bạc và quyết
định với sự thảo luận sôi nổi và trực tiếp tại phiên họp Quốc hội. Các phiên họp của Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đều được truyền thông tới toàn dân trong cả nước thể
hiện sự dân chủ, dể nhân dân nắm rõ tình hình, qua đó giải quyết được tâm tư nguyện
vọng của toàn dân.
8
Thứ bảy, trong lĩnh vực đối ngoại, hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội những

năm gần đây đã góp phần thúc đẩy và mở rộng hội nhập quốc tế.
Bên cạnh một số ưu điểm trên thì trong hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội
còn tồn đọng những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, Hiến pháp nước ta nhìn chung chưa có hiệu lực áp dụng trực tiếp, đặc biệt
là trong các trường hợp mà quy phạm của Hiến pháp không rõ ràng, khó xác định được
những nội dung nào được Hiến pháp bảo vệ, những nội dung nào do các văn bản quy
pháp luật khác bảo vệ.
Thứ hai, việc bảo vệ Hiến pháp ở nước ta hiện nay được giao cho nhiều cơ quan nhà
nước khác nhau đảm trách. Hơn nữa, Quốc hội vừa là cơ quan lập pháp vừa là cơ quan
thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp. Theo đó, Quốc hội vừa làm
luật và vừa giám sát, quyết định về việc liệu một đạo luật do Quốc hội ban hành có phù
hợp với Hiến pháp hay không? Bên cạnh đó, Quốc hội còn có trách nhiệm giám sát việc
tuân thủ Hiến pháp trong hoạt động xét xử của Toà án (quyền tư pháp). Như vậy, “còn có
sự lẫn lộn giữa quyền lập pháp và quyền tài phán (quyền tư pháp) trong hoạt động của
Quốc hội” . Trong khi đó, Quốc hội lại gồm các đại biểu đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của nhân dân; số lượng đại biểu Quốc hội là các chuyên gia pháp luật không nhiều, đa số
đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm; Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị và
quyết định theo đa số. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội như vậy, không giống cơ cấu tổ chức
của cơ quan tài phán (cơ quan xét xử gồm các thẩm phán chuyên nghiệp), là không phù
hợp với việc thực hiện các hoạt động tài phán này. Khác với nước ta, các hoạt động tài
phán này ở các nhà nước pháp quyền khác trên thế giới được giao cho một cơ quan
chuyên trách có chức năng giám sát và bảo vệ hiến pháp thực hiện
Thứ ba, Quốc hội là cơ quan quan trọng cấu thành bộ máy nhà nước. Vì vậy, Quốc
hội phải tự mình tuân thủ Hiến pháp. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay “cũng chưa có một
cơ chế nào để giám sát chính hoạt động của Quốc hội và giám sát tính hợp hiến của các
đạo luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành Hình thức kiến nghị thông qua hoạt động
giám sát của các cơ quan của Quốc hội chưa thực sự đem lại hiệu quả”.
Thứ tư, Uỷ ban thường vụ Quốc hội được giao thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh. Tuy nhiên, trên thực tế trong thời gian qua, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hiếm
khi sử dụng thẩm quyền này vì nhiều lý do khác nhau như: Uỷ ban thường vụ Quốc hội

là cơ quan thường trực của Quốc hội hiện đang đảm nhận một phần không nhỏ công việc
9
lập pháp do Quốc hội giao (ban hành pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao).
Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội là các đại biểu Quốc hội; số lượng thành viên Uỷ
ban thường vụ Quốc hội là chuyên gia pháp luật là rất ít, không phải là các thẩm phán
chuyên nghiệp. Khác với nước ta, việc giải thích Hiến pháp trong các trường hợp tranh
chấp liên quan đến Hiến pháp ở các nước trên thế giới thường do cơ quan chuyên trách
bảo vệ Hiến pháp thực hiện.
4.2.Giải pháp
- Nhanh chóng bổ sung những quy phạm còn thiếu, loại bỏ những quy phạm bị
lỗi thời. Hoạt động lập pháp phải mang tính sáng tạo, tính giải phóng nhằm xây
dựng các thiết chế cần thiết cho sự vận hành đầy đủ của nền kinh tế thị trường
và cho việc đầy nhanh hội nhập quốc tế.
- Xây dựng chương trình lập hiến, lập pháp trên cơ sở kiến nghị của các bộ,
ngành, phải xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống, tránh thiên về các mong muốn
chủ quan có như vậy thì pháp luật mới mau đi vào cuộc sống.
- Thường xuyên tổ chức, nghiên cứu, phân tích trước việc soạn thảo các văn bản
quy phạm pháp luật, đổi mới kĩ thuật lập pháp, cần tập trung những nỗ lực lập
hiến, lập pháp vào những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống.
- Đổi mới hoàn thiện và tổ chức hoạt động của Quốc hội, cần quán triệt theo
hướng tiếp tục nâng cao vị trí vai trò của Quốc hội để đảm bảo Quốc hội thực
hiện tốt chức năng lập hiến và lập pháp.
- Cải tiến và nâng cao chất lượng của Đại biểu Quốc hội và các kì họp Quốc hội.
Các Đại biểu Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc đóng góp ý kiến, thảo
luận thông qua dự án luật. Các kì họp Quốc hội là hình thức làm việc tập thể
quan trọng của Quốc hội. Vì vậy cần được quy định trong pháp luật và có
phương thức thực hiện pháp luật.
III.KẾT LUẬN
Có thể khẳng định xây dựng pháp luật là một chương trình quan trọng hàng đầu
của bất kì quốc gia nào. Là một trong các yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp

luật có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển của mỗi quốc
gia. Trong thời gian qua có thể thấy hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội
ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn. Tuy vậy vẫn còn có hạn chế nhất định. Vậy nên
10
hoạt động xây dựng pháp luật phải được tăng cường hơn nữa, nâng cao về chất
lượng để góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hiến pháp 1946
- Hiến pháp 1959
- Hiến pháp 1980
- Hiến pháp 1992
- Hiến pháp 2013
- Giáo trình “Luật Hiến pháp Việt Nam”
- Một số trang web:
• />Luong%20Minh%20Tuan.html
• wikipedia.org/wiki/Luật_pháp
11

×