Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
0
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHẠM NGỌC PHA
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN
CỦA MỘT SỐ DÒNG, GIỐNG ĐẬU TƢƠNG TẠI
HUYỆN QUẢN BẠ - TỈNH HÀ GIANG
CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC CÂY TRỒNG
MÃ SỐ: 60. 62. 01. 10
: TS. Lƣu Thị Xuyến
Thái Nguyên, 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu và những số liệu trình bầy
trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng để bảo
vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn này đều đã được cảm
ơn. Các thông tin, tài liệu trích dẫn trình bày trong luận văn này đều đã
được ghi rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày 28 tháng 8 năm 2013
Tác giả
Phạm Ngọc Pha
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập và thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự
quan tâm giúp đỡ của cơ sở đào tạo và nơi thực hiện đề tài nghiên cứu, của
các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp và gia đình. Nhân dịp này Tôi xin
được gửi lời cám ơn tới TS. Lƣu Thị Xuyến - Giáo viên Khoa Nông Học -
Trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên, giáo viên hướng dẫn đã tận tình
giúp đỡ, chỉ bảo cho tôi trong quá trình làm thí nghiệm và hoàn thành luận
văn này. Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới ban Giám hiệu trường Đại học
Nông lâm Thái Nguyên và Khoa Sau đại học của trường đã tạo mọi điều
kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập tại trường. Tôi xin được gửi lời
cám ơn đến Cấp ủy, Chính quyền xã Quyết Tiến, thôn Nậm Lương, thôn
Bó Lách đã tạo điều kiện cho tôi triển khai các thí nghiệm nghiên cứu
trên địa bàn xã trong hai năm qua. Xin được cám ơn bạn bè, đồng nghiệp
và gia đình đã tạo điều kiện, chia sẻ công vịêc và động viên tôi hoàn
thành khoá học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Phạm Ngọc Pha
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU 1
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài nghiên cứu 3
2.1. Mục đích 3
2.2. Yêu cầu 4
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài 5
1.1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 5
1.1.2. Cơ sở thực tiễn 5
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu đậu tương trên thế giới và Việt Nam 6
1.2.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu đậu tương trên thế giới 6
1.2.1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới 6
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu đậu tương trên thế giới 9
1.2.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu đậu tương ở Việt Nam 13
1.2.2.1. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam 13
1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu đậu tương ở Việt Nam 15
1.2.2.3. Nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương cho các tỉnh miền núi phía Bắc
20
1.2.3. Tình hình sản xuất và phát triển cây đậu tương tại Hà Giang. 22
1.3. Đặc điểm thời tiết khí hậu chung và 2 năm (2012-2013) 25
Chƣơng 2: VẬT LIỆU NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 28
2.1. Vật liệu nghiên cứu 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
iv
2.1.1. Giống và nguồn gốc giống 28
2.1.2. Địa điểm điều kiện và thời gian nghiên cứu 28
2.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 29
2.2.1. Nội dung nghiên cứu 29
2.2.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 29
2.2.2.2. Quy trình kỹ thuật 30
2.2.2.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 31
2.2.2.4. Xây dựng mô hình trình diễn giống ưu tú. 34
2.2.2.5. Xác định một số chỉ tiêu hóa sinh để đánh giá chất lượng 35
2.2.2.6. Phương pháp xử lý số liệu 35
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 36
3.1. Kết quả đánh giá tình hình sinh trưởng và phát triển của các giống đậu
tương thí nghiệm tại Quản Bạ, Hà Giang. 36
3.1.1. Một số đặc điểm sinh vật học của các giống đậu tương thí nghiệm . 36
3.1.2. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các giống đậu tương 38
3.1.3. Đặc điểm hình thái của các giống đậu tương thí nghiệm 40
3.1.5. Khả năng chống chịu của các giống đậu tương: 45
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 55
1. Kết luận 55
2. Đề nghị 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
v
DANH MỤC CÁC CỤM, TỪ VIẾT TẮT
CCC
Chiều cao cây
CCI
Cành cấp I
CT
Công thức
CSDTL
Chỉ số diện tích lá
Đ/C
Đối chứng
FAO
Food and Agriculture Organization (Tổ chức nông lương)
M Đ
Mật độ
MH
Mô hình
NN
Nông nghiệp & phát triển nông thôn
CSDTL
Chỉ số diện tích lá
NSLT
Năng suất lý thuyết
NSTT
Năng suất thực thu
P
Trọng lượng 1000 hạt
TGST
Thời gian sinh trưởng
TR đ
Triệu đồng
VX
Vụ xuân
VH
Vụ hè
H.VX
Huyện Vị Xuyên
H.Q.BA
Huyện Quản Bạ
H.YM
Huyện Yên Minh
H.ĐV
Huyện Đồng Văn
H.MV
Huyện Mèo Vạc
H.BM
Huyện Bắc Mê
TP.HG
Thành Phố Hà Giang
H.QB
Huyện Quang Bình
H.XP
Huyện Su Phì
H.XM
Huyện Xín Mần
H.BQ
Huyện Bắc Quang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới
trong những năm gần đây 7
Bảng 1.2: Diện tích, năng suất, sản lượng đậu tương
của một số nước đứng đầu thế giới 8
Bảng 1.3: Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam
trong những năm gần đây 14
Bảng 1.4: Tình hình sản xuất đậu tương của tỉnh Hà Giang trong 5 năm
gần đây 23
Bảng 1.5: Tình hình sản xuất đậu tương tỉnh Hà Giang năm 2012 24
Bảng 3.1: Tình hình sản xuất đậu tương của tỉnh Hà Giang trong 5 năm
gần đây 37
Bảng 3.2: Tình hình sản xuất đậu tương tỉnh Hà Giang năm 2012 38
Bảng 3.3: Đặc điểm sinh vật học của các giống đậu tương thí nghiệm 41
Bảng 3.4: Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các giống
đậu tương thí nghiệm 43
Bảng 3.5: Một số đặc điểm hình thái của các giống đậu tương
thí nghiệm 45
Bảng 3.6: Chỉ số diện tích lá của các giống đậu tương thí nghiệm 46
Bảng 3.7: Tình hình bệnh hại và chống đổ của các giống
đậu tương thí nghiệm 48
Bảng 3.8: Tình hình sâu hại đậu tương thí nghiệm 51
Bảng 3.9: Các yếu tố cấu thành năng suất của các giống đậu tương 53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
1
MỞ ĐẦU
Cây đậu tương (Glycine max (L) Merrill) còn gọi là cây đậu nành là
một cây trồng cạn có tác dụng rất nhiều mặt và là cây có giá trị kinh tế cao.
Sản phẩm của nó cung cấp thực phẩm cho con người, nguyên liệu cho chế
biến, thức ăn gia súc gia cầm và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Ngoài ra
đậu tương còn là cây cải tạo đất rất tốt (Ngô Thế Dân và các cs, 1999) [2].
Đậu tương là một trong những cây có dầu quan trọng bậc nhất trên
thế giới và là cây trồng đứng vị trí thứ tư trong các cây làm lương thực thực
phẩm sau lúa mỳ, lúa nước và ngô. Hạt đậu tương là loại sản phẩm duy
nhất mà giá trị của nó được đánh giá đồng thời cả protein và lipit. Trong đó
protein chiếm khoảng 36 - 46%, lipit biến động từ 16 - 24% tuỳ theo giống
và điều kiện khí hậu. Protein đậu tương có giá trị cao không những về hàm
lượng lớn mà nó còn đầy đủ và cân đối các loại axit amin, đặc biệt là các
loại axit amin không thay thế như: Xystin, Lizin, Valin, Izovalin, Leuxin,
Methionin, Triptophan có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của cơ
thể trẻ em và gia súc. Ngoài ra trong hạt đậu tương còn chứa nhiều loại
vitamin như vitamin PP, A, C, E, D, K, đặc biệt là vitamin B
1
và B
2
(Phạm
Văn Thiều, 2006) [11].
Trong y học, đậu tương còn là vị thuốc chữa bệnh, đặc biệt là đậu
tương đen có tác dụng tốt cho người bị đái tháo đường, thấp khớp, thần
kinh suy nhược và suy dinh dưỡng (Ngô Thế Dân và các cs, 1999) [2].
Đậu tương là cây nguyên liệu của nhiều ngành công nghiệp như công
nghiệp chế biến sơn, cao su nhân tạo, mực in, xà phòng chất dẻo, tơ nhân
tạo, dầu bôi trơn trong ngành hàng không (Phạm Văn Thiều, 2006) [11].
Với giá trị nhiều mặt nên sản xuất đậu tương trên thế giới tăng rất
nhanh cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Năm 1960 diện tích trồng
đậu tương trên thế giới là 21 triệu ha thì đến năm 2010 đã tăng lên đạt
102,39 triệu ha, năng suất đạt 25,55 tạ/ha, sản lượng đạt 261,577 triệu tấn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
2
(FAO, 2012) [20]. Ở Việt nam đậu tương được phát triển rất mạnh mẽ cả về
diện tích, năng suất và sản lượng. Trước cách mạng tháng 8/1945 diện tích
đậu tương còn rất ít mới đạt 32,00 nghìn ha (1944), năng suất thấp 4,1 tạ/ha.
Sau khi đất nước thống nhất (1976) diện tích trồng đậu tương bắt đầu được
mở rộng 39,40 nghìn ha và năng suất đạt 5,3 tạ/ha. Sau đó diện tích tăng lên
rất nhanh, đến năm 1996 là 110,30 nghìn ha, năng suất đạt 11,1 tạ/ha (Ngô
Thế Dân và các cs, 1999) [2], đến năm 2010 nước ta trồng được 197,8 nghìn
ha đậu tương với năng suất bình quân 15,01 tạ/ha, sản lượng đạt 296,9 nghìn
tấn (FAO, 2012) [20].
Hà Giang là tỉnh miền núi phía Bắc diện tích sản xuất đậu tương qua
các năm đều tăng về năng suất và sản lượng, trong những năm gần đây tỉnh
Hà Giang đã xác định cây đậu tương là cây có giá trị kinh tế cao cần phát triển
mở rộng để trở thành hàng hóa. Từ năm 2006 đến 2010, diện tích đậu tương
toàn tỉnh hàng năm tăng gần 5.000 ha. Năm 2006 diện tích là 15.893,6 ha
đến năm 2010 diện tích đạt 20.810,3 ha. Năm 1012 diện tích đậu tương
toàn tỉnh là 21.279,9 ha. Nguyên nhân là do các huyện chuyển đổi diện
tích trồng cây lạc và cây trồng khác sang trồng cây đậu tương, phù hợp
với điều kiện thời tiết khí hậu, đất đai, dễ gieo trồng và cho hiệu quả
kinh tế cao hơn.
Mặc dù diện tích tăng nhanh như vậy nhưng năng suất đậu tương ở Hà
Giang tăng chậm và năng suất bình quân toàn tỉnh còn thấp hơn năng suất
bình quân khu vực và thấp hơn nhiều so với tiềm năng năng suất của giống.
Năm 2006 năng suất bình quân toàn tỉnh là 8,9 tạ/ha đến năm 2010 đạt 10,2
tạ/ha, Đến năm 2012 năng suất đạt 11,4 tạ /ha trong khi năng suất đậu
tương nước ta đạt 14,5 tạ/ha, điều đó đã dẫn đến sản lượng đậu tương
của tỉnh tăng chậm. Năm 2006 sản lượng đậu tương toàn tỉnh là
14.115,7 tấn, đến năm 2010 đạt 22.991,1 tấn, tăng 8.875,4 tấn. Năm
2012 đạt 24.191,9 tấn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
3
Nguyên nhân dẫn đến năng suất và sản lượng đậu tương của tỉnh còn
thấp là do chưa có được bộ giống đậu tương tốt cho sản xuất và quy trình
thâm canh thích hợp cho từng giống. Mặc dù đã đưa khảo nghiệm và đã
chọn được một số giống mới như: DT84, DT2008, DT 90, DT 92, DT 95,
DT 96,TL 57 có thời gian sinh trưởng ngắn và năng suất cao, phù hợp với
điều kiện địa phương. Tuy nhiên mới dừng lại ở quy mô khảo nghiệm và
mô hình, chưa nhân rộng được trên địa bàn tỉnh. Giống đậu tương truyền
thống là DT84 vẫn được gieo trồng phổ biến chiếm 63,8% diện tích tương
đương 13.281,1 ha, giống DT96 chiếm 0,6% tương đương 118,3 ha, giống
VX 93 chiếm 4% tương đương 838,4 ha. Qua đó cho thấy, công tác giống
chưa được chú trọng, số hộ sử dụng giống địa phương đã bị thoái hoá còn
chiếm tỷ lệ lớn. Việc quản lý và cung cấp giống còn nhiều bất cập dẫn đến
chất lượng giống bị pha tạp, vì vậy chất lượng thương phẩm kém, năng suất
bình quân thấp.
Từ thực tế đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu
khả năng sinh trưởng, phát triển của một số dòng, giống đậu tương tại
Huyện Quản Bạ - Tỉnh Hà Giang” nhằm tìm ra những giống đậu tương có
khả năng thích hợp đưa vào sản xuất trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài nghiên cứu
2.1. Mục đích
Xác định được những giống đậu tương có khả năng sinh trưởng,
phát triển tốt cho năng suất cao và ổn định, phù hợp với vụ Xuân và vụ Hè
Thu để bổ sung vào bộ giống của tỉnh Hà Giang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
4
2.2. Yêu cầu
- Đánh giá khả năng sinh trưởng phát triển của một số giống đậu
tương mới.
- Đánh giá tình hình sâu hại và khả năng chống đổ của các giống đậu
tương thí nghiệm.
- Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống
đậu tương mới trong vụ xuân và vụ Hè Thu năm 2012.
- Chọn ra được 1 - 2 giống có triển vọng xây dựng mô hình
trình diễn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
1.1.1. Cơ sở khoa học của đề tài:
Điều kiện ngoại cảnh có liên quan chặt chẽ tới cây trồng nói chung
và cây đậu tương nói riêng, nó ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng, phát
triển và hoạt động sinh lý, sinh hoá của cây. Sự biểu hiện kiểu hình ra bên
ngoài chính là kết quả của sự tác động giữa kiểu gen với môi trường sống.
Kiểu gen + Môi trường -> Kiểu hình
Sự sinh trưởng phát triển, khả năng cho năng suất của cây trồng chịu
sự tác động của môi trường và điều kiện trồng trọt, song mức độ ảnh hưởng
của môi trường lên các giống là không giống nhau. Trong cùng một điều
kiện trồng trọt một số giống sinh trưởng phát triển tốt và cho năng suất cao
trong khi đó một số giống khác lại sinh trưởng phát triển kém và cho năng
suất thấp, thậm chí không tồn tại được hay không cho thu hoạch. Sở dĩ như
vậy vì chúng có những kiểu gen khác nhau.
Ngày nay cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật,
có rất nhiều phương pháp để chọn tạo giống cây trồng mới như: Gây đột
biến, lai hữu tính, phương pháp nhập nội Các giống được tạo ra chưa được
phổ biến ra sản xuất ngay được mà cần phải được so sánh, đánh giá.
Do vậy công tác so sánh, khảo nghiệm, đánh giá giống là việc làm
cấn thiết không thể thiếu, đồng thời quyết định sự thành công của công tác
chọn tạo giống để đưa giống mới vào sản xuất.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Năng suất đậu tương nước ta thấp hơn so với trên thế giới và khu
vực. Năm 2010 năng suất bình quân của Việt Nam đạt 15 tạ/ha trong khi đó
năng suất bình quân của thế giới đạt 23,78 tạ/ha. Có nhiều nguyên nhân dẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
6
đến năng suất đậu tương của Việt Nam thấp, một trong những nguyên nhân
chính là chưa có bộ giống thích hợp với từng vùng, đặc biệt là vùng Trung
du miền núi. Hiện nay sản xuất đậu tương ở Hà Giang nói chung và huyện
Quản Bạ nói riêng chủ yếu sử dụng giống cũ, người dân tự để giống từ vụ
này sang vụ khác nên chất lượng giống không đảm bảo dẫn đến năng suất,
sản lượng đậu tương của tỉnh thấp. Do đó cần khảo nghiệm để chọn được
bộ giống đậu tương tốt phục vụ cho sản xuất.
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu đậu tƣơng trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu đậu tương trên thế giới
1.2.1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới
Đậu tương là một trong những cây trồng có vị trí quan trọng trong
hệ thống nông nghiệp ở nhiều quốc gia trên thế giới và lâu đời nhất của
nhân loại, có lịch sử trồng trọt khoảng 5.000 năm. Cây đậu tương có nguồn
gốc từ Đông Bắc Trung Quốc, sau đó được trồng ở Nhật Bản, Triều Tiên
và các nước trên thế giới.
Hiện nay, có khoảng trên 80 Quốc gia và vùng lãnh thổ trồng và phát
triển rất mạnh cây đậu tương và châu Á là nơi nguyên sản của cây đậu tương
nhưng nó lại được trồng tập trung ở châu Mỹ (70,03%), châu Á (23,5%).
Từ những năm 1970 sản lượng đậu tương của thế giới đã tăng gấp 2
lần so với cây lấy dầu khác và trở thành mặt hàng xuất khẩu đem lại lợi
nhuận cao cho nhiều nước và trở thành có giá trị kinh tế cao ngoài việc sử
dụng làm thực phẩm cho con người, còn được làm nguyên liệu chế biến
phục vụ cho ngành chăn nuôi. Tình hình sản xuất đậu tương hiện nay được
thể hiện qua bảng sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
7
Bảng 1.1: Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới
trong những năm gần đây
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
2006
95,30
32,29
221,983
2007
90,15
24,36
219,707
2008
96,48
23,98
231,392
2009
99,50
22,43
223,184
2010
102,39
25,55
261,577
2011
103,60
25,29
262,037
2012
106,62
23,74
253,137
Nguồn: Số liệu thống kê của FAO - 2012) [20]
Qua bảng 1.1 ta thấy:
Về diện tích: Từ năm 2006 - 2012 diện tích trồng đậu tương trên thế
giới tăng dần và dao động trong khoảng 90,15 – 106,62 triệu ha. Trong đó
diện tích trồng đậu tương tăng mạnh nhất vào năm 2012 với 106,62 triệu
ha. Năm 2007 diện tích trồng đậu tương giảm xuống còn 90,15 triệu ha,
giảm 12,24 triệu ha so với năm 2010. Diện tích trồng đậu tương trên thế
giới có xu hướng tăng là do giá tương đối ổn định, nhu cầu tăng, mặc dù yếu
tố thời tiết và giá phân bón có ảnh hưởng nhưng không đáng kể.
Về năng suất: Qua bảng ta thấy năng suất đậu tương trên thế giới trong
những năm gần đây có xu hướng giảm đáng kể, từ 32,29 tạ/ha – 22,43 tạ/ha.
Giảm 9,86 tạ/ha, giảm mạnh nhất là năm 2009 chỉ đạt 22,43 tạ/ha.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
8
Về sản lượng: Sản lượng đậu tương trên thế giới có xu thế tăng
liên tục qua các năm. Năm 2006 sản lượng đậu tương là 221,983 triệu
tấn, tăng dần và đạt cao nhất năm 2011 là 262,037 triệu tấn.
Hiện nay sản xuất đậu tương lớn nhất trên thế giới là 4 nước Mỹ,
Brazil, Argentina và Trung Quốc. Sản lượng đậu tương của 4 nước này
chiếm khoảng 90 - 95% sản lượng đậu tương của toàn thế giới.
Bảng 1.2: Diện tích, năng suất, sản lượng đậu tương
của một số nước đứng đầu thế giới
Tên nƣớc
Năm 2011
Năm 2012
Diện tích
(triệu ha)
Năng
suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
Diện tích
(triệu ha)
Năng
suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
Mỹ
29,85
28,19
84,19
30,78
26,6
82,054
Brazil
23,96
31,21
74,81
24,93
26,3
65,7
Argentina
18,76
26,04
48,87
19,35
26,6
51,5
Trung Quốc
7,88
18,36
14,44
6,75
16,9
12,8
(Nguồn: Số liệu thống kê của FAO - 2012) [20].
Mỹ vẫn là nước đứng đầu trên thế giới về diện tích và sản lượng
đậu tương. Diện tích năm 2011 là 29,85 triệu ha, năng suất bình quân đạt
28,19 tạ/ha, sản lượng 84,19 triệu tấn. Năm 2012 diện tích tăng gần 01
triệu ha, năng suất năm 2012 giảm 1,5 tạ/ha so với năm 2011.
Brazil là nước mới đứng vào hàng ngũ sản xuất đậu tương nhưng là
nước có triển vọng. Năm 2011 diện tích là 23,96 triệu ha, sản lượng 74,81
triệu tấn năng suất bình quân đạt 31,2 tạ/ha. Từ 2000 đến 2005 diện tích
tăng rất nhanh và đạt cao nhất vào năm 2005, diện tích là 22,95 triệu ha,
năng suất bình quân đạt 22,3 tạ/ha, sản lượng 51,18 triệu tấn. Diện tích
trồng đậu tương năm 2006 - 2007 của Brazil đạt 21,57 triệu ha, giảm so với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
9
22,95 triệu ha của năm 2005 là 1,064 lần. Nhưng năng suất tăng đạt 26
tạ/ha. Do vậy sản lượng đậu tương của Brazil năm 2006 - 2007 vẫn đạt kỷ
lục 57,9 triệu tấn tăng 6,72 triệu tấn. Năm 2010 là năm sản lượng đậu
tương của Brazil tăng mạnh nhất đạt 68,518 triệu tấn .
Nước đứng thứ 3 thế giới về sản xuất và xuất khẩu đậu tương là
Argentina và đứng thứ 4 là Trung Quốc. Trước năm 2000 Trung Quốc
được xếp ở vị trí thứ 3 sau Mỹ và Brazil nhưng từ năm 2000 trở lại đây
Argrentina đã vượt Trung Quốc cả về diện tích, năng suất cũng như sản
lượng. Năm 2009 diện tích đậu tương của Argrentina là 16,77 triệu ha,
trong khi đó Trung Quốc là 9,19 triệu ha. Đặc biệt năm 2012 năng suất
đậu tương của Argentina đạt 26,6 tạ/ha cao hơn so với của Trung Quốc
là 16,9 tạ/ha.
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu đậu tương trên thế giới
Do có vai trò và tác dụng nhiều mặt đối với đời sống con người nên
đậu tương đã được trồng từ rất lâu và giữ một vị trí quan trọng trong sản
xuất nông nghiệp. Để nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế trong sản xuất
đậu tương thì công tác nghiên cứu chọn tạo giống đóng vai trò quan trọng.
Hiện nay nguồn gen đậu tương được lưu giữ chủ yếu ở 15 Quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới: Đài Loan, Australia, Trung Quốc, Pháp,
Nigeria, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Triều Tiên, Nam Phi, Thụy Điển,
Thái Lan, Mỹ và Liên xô (cũ) với tổng số 45.038 mẫu (Trần Đình Long,
1991) [6].
Những năm gần đây, nhiều trung tâm, viện nghiên cứu đã được
thành lập như: Viện nghiên cứu nông nghiệp nhiệt đới (The International
Institute of Tropical Agriculturre: TITA), Trung tâm nghiên cứu và phát
triển rau màu châu Á (The Asian Vegetable Rearch and Development Center:
AVRDC), Trung tâm đào tạo và nghiên cứu nông nghiệp cho vùng Đông nam
châu Á (The Southeast Asian Regional Center for Graduatestady and
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
10
Ressearch in Agriculture: SEARCA), Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI).
Qua đó cho ta thấy việc nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương trên thế giới
rất được quan tâm nhằm các mục đích sau:
- Nhập nội giống, tiến hành chọn lọc, thử nghiệm với điều kiện của
các vùng sinh thái khác nhau.
- Khảo nghiệm giống ở các vùng sinh thái khác nhau tìm ra các
giống có khả năng thích ứng với các vùng sinh thái đó.
- Tạo giống bằng phương pháp lai hữu tính và dùng các tác nhân vật
lý, hoá học gây đột biến để tạo giống mới có nhiều đặc trưng đặc tính tốt.
- Thu thập nguồn vật liệu, tiến hành lai hữu tính sau đó chọn lọc ra
những giống tốt phục vụ cho sản xuất.
- Xác định các địa bàn trồng đậu tương trên thế giới và các nước
trồng đậu tương đạt năng suất, sản lượng cao.
Để tạo ra giống mới người ta dùng nhiều phương pháp khác nhau
như gây đột biến, lai hữu tính, nhập nội nhằm tạo ra các kiểu gen mới có
nhiều ưu điểm hơn bố mẹ và thông qua phương pháp chọn lọc để tạo ra các
dòng giống mới.
Thí nghiệm quốc tế về đánh giá giống đậu tương thế giới (isvex) lần
thứ nhất vào năm 1973 đã tiến hành thí nghiệm trong phạm vi từng vùng
trên thế giới với quy mô là 90 điểm thí nghiệm đã được bố trí ở 33 nước đại
diện cho các đới môi trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Trong phạm vi
các địa điểm thí nghiệm từ xích đạo đến vĩ tuyến 30
0
và độ cao dưới 500m
so với mặt nước biển, năng suất trung bình và trọng lượng hạt giảm khi vĩ
tuyến tăng. Tuy vậy, chiều cao cây không đạt mức tối ưu ở tất cả các đới.
Mức đổ cây giảm khi vĩ tuyến tăng. Mức tách quả dụng hạt đều không nặng
ở tất cả các đới (DK Wigham, 1976) [19].
Trung tâm nghiên cứu và phát triển rau màu châu Á (The Asian
vegetable Research and Development center: AVRDC) đã thiết lập hệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
11
thống đánh giá (Soybean - Evaluationtrial - Aset) giai đoạn 1 đã phân phát
được trên 20.000 giống đến 546 nhà khoa học của 164 nước nhiệt đới và Á
nhiệt đới. Kết quả đánh giá giống của Aset với các giống đậu tương đã đưa
vào trong mạng lưới sản xuất được 21 giống ở trên 10 quốc gia (Nguyễn Thị Út,
1994) [14].
Mỹ là quốc gia luôn đứng đầu về năng suất và sản lượng đậu tương,
nhờ các phương pháp nhập nội, chọn lọc, gây đột biến và lai tạo Mỹ đã tạo ra
nhiều giống đậu tương mới. Thí nghiệm đầu tiên của Mỹ được tiến hành vào
năm 1804 tại bang Peleci buanhia, đến năm 1893 Mỹ đã có trên 10.000 mẫu
của đậu tương thu nhập từ các nước trên thế giới. Giai đoạn 1928 - 1932
trung bình mỗi năm Mỹ nhập nội trên 1190 dòng, giống đậu tương và đã lai
tạo ra một số giống có khả năng chống chịu bệnh tốt và có khả năng thích
ứng rộng như : Amsoy 71, Lec 36, Clark 63, Herkey 67. Mục tiêu của công
tác chọn giống đậu tương của Mỹ là chọn ra những giống có khả năng thâm
canh, phản ứng với quang chu kỳ, chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh bất
thuận, hàm lượng protein cao, dễ bảo quản và chế biến (Johnson H.W and
Bernard R.L, 1976) [22].
Hiện nay ứng dụng công nghệ gen là một hướng mới trong công tác
chọn tạo giống đậu tương của Mỹ và các nước trên thế giới. Trong những
cây trồng chuyển gen thì đậu tương chuyển gen được trồng với diện tích
lớn nhất trên toàn thế giới tới 60% diện tích. Thành tựu chủ yếu của ứng
dụng công nghệ chuyển gen là tạo ra các giống đậu tương chống chịu thuốc
diệt cỏ dại, làm giảm thiệt hại do cỏ dại gây ra. Một số gen chống chịu với
thuốc diệt cỏ đã được xác định và phân lập. Ví dụ như gen trội Hb trên
giống Clark 63 cho phản ứng chống chịu với Benard and Bentazon, giống
Hook có alen Hm mang tính chống chịu tốt với thuốc Metribuzin (Ngô Thế
Dân và các cs, 1999) [2].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
12
Trung Quốc trong những năm gần đây đã tạo ra nhiều giống đậu
tương mới. Bằng phương pháp đột biến thực nghiệm đã tạo ra giống
Tiefeng 18 do xử lý bằng tia gama có khả năng chịu được phèn cao, không
đổ, năng suất cao, phẩm chất tốt. Giống Heinoum N
0
6, Heinoum N
0
16 xử
lý bằng tia gama có hệ rễ tốt, lóng ngắn, nhiều cành, chịu hạn, khả năng
thích ứng rộng (Viện khoa học kỹ thuật Việt Nam, 1995) [16].
Đài Loan bắt đầu chương trình chọn tạo giống đậu tương từ năm
1961 và đã đưa vào sản xuất các giống Kaoshing 3, Tai nung 3, Tai nung 4
cho năng suất cao hơn giống khởi đầu và vỏ quả không bị nứt. Đặc biệt
giống Tai nung 4 được dùng làm nguồn gen kháng bệnh trong các chương
trình lai tạo giống ở các cơ sở khác nhau như trạm thí nghiệm Marjo (Thái
Lan), Trường Đại học Philippine (Vũ Tuyên Hoàng và các cs, 1995) [5].
Năm 1963 Ấn Độ đã bắt đầu khảo nghiệm các giống địa phương và
nhập nội tại trường đại học tổng hợp Pathaga. Năm 1967, thành lập chương
trình đậu tương toàn Ấn Độ với nhiệm vụ lai tao và thử nghiệm giống mới
và đã tạo ra được một số giống mới có triển vọng như: Birsasoil, DS 74-24-2,
DS73-16. Tổ chức AICRPS (The All India Cooordinated Research Project
on Soybean) và NRCS (Nationnal Research Center for Soybean) đã tập
trung nghiên cứu về genotype và đã phát hiện ra 50 tính trạng phù hợp với
khí hậu nhiệt đới, đồng thời phát hiện những giống chống chịu cao với
bệnh khảm virus (Brown D.M.,1960) [18].
Thái Lan với sự phối hợp giữa 2 trung tâm MOAC và CGPRT nhằm
cải tiến giống có năng suất cao, chống chịu với một số sâu bệnh hại chính
(gỉ sắt, sương mai, vi khuẩn ) đồng thời có khả năng chịu được đất mặn,
chịu được hạn hán và ngày ngắn (Judy W.H. and Jackobs J.A., 1979) [21].
Hiện nay, công tác nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương trên thế giới
đang được quan tâm và tiến hành với quy mô lớn. Nhiều tập đoàn đậu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
13
tương đã được các tổ chức quốc tế khảo nghiệm ở nhiều vùng sinh thái
khác nhau. Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRRI) ở Philippine trước năm
1975 chủ yếu nghiên cứu về cây lúa. Từ năm 1975 trở lại đây đã mở ra
hướng nghiên cứu về cây đậu tương, đặc biệt là cây đậu tương cho vùng
canh tác lúa nhằm phá vỡ thế độc canh của cây lúa, góp phần cải tạo đất,
cải tạo khẩu phần dinh dưỡng cho người dân.
1.2.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu đậu tương ở Việt Nam
1.2.2.1. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam
Cây đậu tương được trồng ở Việt Nam từ lâu đời và đến nay nó đã
chiếm một vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, nhận thức được vai
trò quan trọng của cây đậu tương trong phát triển kinh tế. Đảng và Nhà
nước ta đã và đang chú trọng vào sản xuất và phát triển cây đậu tương.
Trong văn kiện đại hội V của Đảng cộng sản Việt Nam (tập 2 trang 37) có
ghi: “Đậu tương cần được phát triển mạnh mẽ để tăng nguồn đạm cho con
người, cho gia súc, cho đất đai và trở thành một loại hàng xuất khẩu”.
Chính vì thế đậu tương được trồng ở nhiều vùng khác nhau, trồng nhiều vụ
trong năm. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, diện tích trồng đậu tương
của cả nước chỉ là 30,00 nghìn ha với năng suất rất thấp 4,1 tạ/ha. Sau khi
đất nước thống nhất, diện tích đậu tương cả nước là 39,95 nghìn ha, năng
suất đạt 5,2 tạ/ha. Đến năm 1980, diện tích trồng đậu tương của nước ta đạt
40,00 nghìn ha với năng suất đạt 7 tạ/ha. Trong những năm gần đây Chính
phủ rất chú trọng phát triển cây đậu tương cho nên năng suất, diện tích và
sản lượng đậu tương không ngừng tăng lên và được thể hiện qua bảng 1.3.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
14
Bảng 1.3: Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam
trong những năm gần đây
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(1000ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(1000tấn)
2005
204,10
14,34
292,70
2006
185,60
13,90
258,10
2007
187,40
14,10
275,5
2008
192,10
13.93
267,60
2009
147,00
14,63
215,20
2010
197,80
15,00
296,90
2011
181,3
14,6
266,5
2012
120,7
14,5
175,2
(Tổng cục thống kê năm 2012) [8].
Qua bảng 1.3 ta thấy: Diện tích trồng đậu tương ở Việt Nam từ 2005
đến 2012 có xu hướng giảm, sản lượng giảm 76,8 nghìn tấn. Diện tích đạt
cao nhất năm 2005 là 204,10 nghìn ha. Tuy nhiên đến năm 2010 diện tích
trồng đậu tương có dấu hiệu tăng trở lại nhưng không rõ rệt lại giảm ngay
trong năm 2011 đến năm 2012 giảm xuống còn 120,7 ha, giảm 83,4 nghìn
ha so với năm 2005.
Về năng suất: Năng suất đậu tương của Việt Nam biến động tăng
không đáng kể chỉ dao động từ 13,93 – 15,00 tạ/ha. Năng suất năm 2005 là
14,34 tạ/ha mới chỉ đạt 62,32% so với năng suất bình quân của thế giới
(23,01 tạ/ha). Đến năm 2006 năng suất giảm xuống chỉ còn 13,90 tạ/ha, đến
năm 2010 năng suất đậu tương của nước ta tăng vọt so với các năm trước
đạt 15,00 tạ/ ha.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
15
Về sản lượng: Qua bảng ta thấy sản lượng đậu tương giảm rõ rệt qua
các năm từ 292,70 nghìn tấn năm 2005 xuống còn 215,20 nghìn tấn năm
2009. Trong vòng 5 năm sản lượng đậu tương giảm 77,6 nghìn tấn . Tuy
nhiên đến năm 2010 sản lượng đậu tương nước ta tăng vọt do diện tích trồng
đậu tương được mở rộng và đưa các giống mới có năng suất cao khả năng
chống chịu.
Nhìn chung sự phát triển đậu tương ở Việt Nam về diện tích, năng
suất, sản lượng đều còn rất thấp so với bình quân của thế giới. Nguyên
nhân là do:
- Chưa quy hoạch được vùng sản xuất đậu tương và chưa xác định
được giống phù hợp cho từng vùng sinh thái.
- Diện tích đất trồng đậu tương tập trung ở miền núi, cơ sở vật chất
còn nghèo nàn.
- Chưa có bộ giống vượt trội, giá phân bón tăng cao.
1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu đậu tương ở Việt Nam
Đậu tương là cây trồng có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao. Nó giữ
vị trí quan trọng trong cơ cấu cây trồng ở tất cả các vùng sinh thái trong cả
nước. Vì vậy công tác thu thập và chọn tạo giống đậu tương được các cơ
quan nghiên cứu nông nghiệp và các nhà khoa học rất quan tâm và đầu tư
nghiên cứu. Từ năm 1962 Trường Đại học Nông Nghiệp I, Viện cây công
nghiệp và Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành thu
thập, nhập nội và chọn tạo giống đậu tương. Theo Ngô Thế Dân và các cs,
1999 [2]: Hiện nay trong ngân hàng gen cây trồng tại Viện khoa học kỹ
thuật nông nghiệp Việt Nam (VASI) đang lưu giữ 500 mẫu giống. Chủ yếu
là các loại đậu tương trồng được thu thập từ các địa phương và nhập nội từ
các nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
16
Theo Nguyễn Danh Đông (1983) [3] Viện cây trồng nông nghiệp đã
thu thập được 250 mẫu giống. Viện đã tiến hành khảo sát và phân loại theo
thời gian sinh trưởng thành 6 nhóm giống:
+ Nhóm I chín rất sớm gồm các giống có thời gian sinh trưởng dưới 80 ngày.
+ Nhóm II chín sớm có thời gian sinh trưởng 80 - 90 ngày.
+ Nhóm III chín trung bình có thời gian sinh trưởng 90 - 100 ngày.
+ Nhóm IV chín trung bình muộn có thời gian sinh trưởng 100 - 110 ngày.
+ Nhóm V chín muộn có thời gian sinh trưởng 110 - 120 ngày.
+ Nhóm VI chín rất muộn có thời gian sinh trưởng trên 120 ngày.
Do điều kiện ở các vùng sinh thái ở các vùng trồng đậu tương khác
nhau nên cần có bộ giống thích hợp cho mỗi vùng mới khai thác được hết
tiềm năng của giống. Theo Ngô Thế Dân và các cs, 1999 [2], định hướng
chọn tạo giống đậu tương giai đoạn 1996 - 2000 và 2010 là:
+ Tập trung chọn tạo giống đậu tương chín sớm để đưa vào chân đất
2 vụ lúa, 1 vụ đậu tương hè ở Lạng Giang - Bắc Giang. Thời gian sinh
trưởng từ 70 - 75 ngày.
+ Chọn tạo giống đậu tương thích hợp cho vụ đông đối với các tỉnh phía
Bắc, đặc biệt là đồng bằng sông Hồng. Thời gian sinh trưởng từ 80 - 90 ngày.
+ Chọn tạo giống đậu tương thích hợp cho vụ xuân ở vùng đất bãi và
vùng trung du các tỉnh miền núi phía Bắc. Năng suất đạt từ 20 - 25 tạ/ha.
Thời gian sinh trưởng 90 - 100 ngày, chống chịu với bệnh gỉ sắt.
+ Chọn tạo giống đậu tương hè: Thời gian sinh trưởng từ 85 - 90
ngày thích hợp cho các tỉnh miền núi phía Bắc. Năng suất đạt từ 15 - 20
tạ/ha, chịu hạn, ít bị nhiễm vi rus.
+ Chọn tạo giống đậu tương cho vùng Tây Nguyên có tiềm năng
năng suất từ 25 - 27 tạ/ha trong vụ xuân hè bắt đầu từ tháng 3, đậu tương hè
cho vùng Đông Nam Bộ bắt đầu gieo từ tháng 4, vụ đậu tương xuân hè cho
vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
17
+ Chọn giống đậu tương có hàm lượng dầu cao từ 25 - 27% để ép
dầu, sử dụng khô dầu làm thức ăn cho gia súc.
+ Chọn giống đậu tương hạt to, có chất lượng hạt cao phục vụ cho
chế biến thực phẩm và làm rau. Năng suất quả tươi đạt từ 18 - 20 tấn/ha.
+ Tiến tới chọn tạo giống đậu tương thích ứng rộng có thể gieo trồng
được cả 3 vụ xuân, hè và thu đông, có khả năng cố định đạm cao, khả năng
cải tạo đất tốt.
+ Chọn tạo giống đậu tương thích hợp với việc trồng xen và gối vụ
góp phần tăng thu nhập trên đơn vị diện tích, vừa tăng độ phì của đất vừa
tăng hiệu quả hàng hoá của sản xuất nông nghiệp.
Những năm gần đây, công tác giống đậu tương của nước ta phát triển
khá mạnh và thu được những thành tựu đáng kể, nhiều giống đậu tương mới
được đưa vào sản xuất. Đồng thời các phương pháp chọn tạo cũng ngày
càng phong phú. Dưới đây là một số giống đậu tương hiện đang phổ biến ở
các tỉnh miền núi phía Bắc. Một số được chọn tạo từ các tổ hợp lai hữu tính
và xử lý đột biến, nhập nội từ nước ngoài. Có thể phân chia thành các nhóm
giống chính như sau .
+ VX92: Thời gian sinh trưởng 90 - 95 ngày. Giống có hoa màu
trắng, hạt màu vàng sáng, khối lượng 100 hạt từ 14 - 16 gam, năng suất
trung bình 18 - 22 tạ/ha. Trong điều kiện thâm canh có thể đạt 30 tạ/ha.
+ TL57 (ĐT95/VX93): TGST 100 - 110 ngày, hoa trắng, hạt vàng,
khối lượng 100 hạt 15 - 16 gam, năng suất từ 15 - 20 tạ/ha.
+ ĐN - 42 (ĐH4/VX93): TGST 90 - 95 ngày, hoa tím, hạt tròn, vàng
sáng, khối lượng 100 hạt 13 - 14 gam, năng suất từ 14 - 16tạ/ha.
+ AK06 (chọn từ dòng 55): TGST 93 - 95 ngày, hoa tím, hạt có màu
vàng sáng, khối lượng 100 hạt 16 - 18 gam, năng suất từ 25 - 30 tạ/ha.
+ ĐT2000 (nhập từ Đài Loan): TGST 100 - 110 ngày, là giống thâm
canh, hoa tím, cây to cứng, ít đổ, nhiều đốt (18 - 22 đốt/cây), số quả 3 hạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
18
chiếm tới 30%, khối lượng 100 hạt 14 - 15 gam, năng suất từ 30 - 35 tạ/ha
Trong điều kiện thâm canh có thể đạt 40 tạ/ha.
Bộ giống thích hợp cho vụ hè:
+ M103 (đột biến từ V70): TGST 85 ngày, hoa tím, hạt sáng vàng,
khối lượng 100 hạt 18 - 20 gam, năng suất từ 17 - 20 tạ/ha. Trong điều kiện
thâm canh có thể đạt 30 tạ/ha. Chú ý: nếu ở giai đoạn 5 lá, tiến hành ngắt
ngọn sẽ cho năng suất cao.
+ DT84 (đột biến từ dòng lai 8 - 33): TGST 80 - 85 ngày, hoa tím,
hạt sáng vàng, khối lượng 100 hạt 18 - 22 gam. Với mật độ 25 - 30 cây/m
2
tiềm năng năng suất từ 15 - 30 tạ/ha.
+ ĐT93 (dòng 821/134 Nhật Bản): TGST 80 - 82 ngày, hoa tím, quả
khi
chín có màu vàng, có từ 9 - 10 đốt, khối lượng 100 hạt 13 - 14 gam.
Có thể
trồng trong vụ hè giữa hai vụ lúa, năng năng suất từ 15 - 18 tạ/ha.
+ ĐT12 (nhập nội từ Trung Quốc) là giống cực ngắn, vụ Hè từ 70 -
75 ngày, rất thích hợp trong vụ Hè giữa 2 vụ lúa. Có hoa màu trắng, lá hình
tim nhọn, hạt vàng, rốn nâu, quả chín có màu nâu xám. Vỏ hạt màu vàng
sáng, tỷ lệ quả 3 hạt cao từ 20 - 40%. Khối lượng 100 hạt 17 - 19 gam,
năng suất từ 17 - 20 tạ/ha. Trong điều kiện thâm canh có thể đạt 23 tạ/ha.
Trồng tốt nhất trong vụ Hè, có thể trồng Xuân muộn và vụ Thu Đông.
Bộ giống cho vụ Thu Đông:
+ VX93: tuyển chọn từ dòng K7002 (tập đoàn của viện cây trồng
liên bang Nga - VIR) có nguồn gốc từ Philipin: Có hoa màu trắng, TGST
85 - 90 ngày, phân cành khoẻ, quả khi chín có màu nâu. Hạt vàng sáng,
khối lượng 100 hạt 15 - 16 gam, năng suất đạt từ 16 - 20 tạ/ha. Trong điều
kiện thâm canh đạt 25 tạ/ha. Đây là giống có khả năng chịu rét, thích hợp
cho vụ Thu Đông ở Đồng Bằng Bắc Bộ, thích hợp vụ Hè ở các tỉnh miền
núi như: Trùng Khánh, Cao Bằng.