Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

nghiên cứu khoa học ngành văn học các tác phẩm thơ Hồ Xuân Hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.28 KB, 75 trang )

Lời cám ơn
Sau một thời gian dài nghiên cứu cùng với sự giúp đỡ tận tình của cô
Nguyễn Thị Thanh Tâm, tôi đã hoàn thành xong bài tập nghiên cứu khoa
học. Nhân đây tôi xin chân thành gửi đến cô Nguyễn Thị Thanh Tâm lời
biết ơn sâu sắc và chân thành nhất.
Trong suốt thời gian thực hiện bài tập nghiên cứu khoa học, cô luôn
nhiệt tình chỉ dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi. Đồng thời tôi cũng
gửi lời biết ơn đến quý thầy cô trong khoa Xã hội đã động viên và giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian qua. Không những thế tôi còn được sự giúp đỡ của
rất nhiều bạn bè. Họ luôn tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện bài
nghiên cứu. Cho phép tôi gửi đến bạn bè những tình cảm tốt đẹp nhất.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cám ơn tất cả các thầy cô trường Cao
đẳng Hải Dương, ngôi trường thân yêu đã ươm mầm bao tốt đẹp. Cám ơn
tất cả các thầy cô, những người đang cống hiến một cách thầm lặng vì sự
nghiệp trồng người.
Dù đã có rất nhiều cố gắng, tuy nhiên do trình độ viết còn hạn chế
nên bài tập nghiên cứu khoa học này sẽ có nhiều điều thiếu sót và chưa thật
tốt lắm. Rất mong sự đóng góp, chỉ dẫn tận tình của quý thầy cô
Trường Cao đẳng Hải Dương, tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Oanh
1
Mục lục
A: Phần mở đầu …………………………………………………
I. Lý do chọn đề tài ………………………………………
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu …………………………………
III. Lịch sử nghiện cứu vấn đề ………………………………………
IV. Nhiệm vụ của bài tập khoa học và những đóng góp mới ……………
V. Cấu trúc của bài tập khoa học ……………………………………………
B. Phần nội dung …………………………………………………………
Chương I: Con người cá nhân trong văn học Việt Nam ……………


I. Vài nét về tác giả Hồ Xuân Hương ……………………………………….
II. Thống kê một số thơ Hồ Xuân Hương
III. Giá trị nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương
Chương II: Biểu hiện của con người cá nhân trong thơ Nôm truyền tụng Hồ
Xuân Hương ……………………………………………
I. Hồ Xuân Hương với tiếng nói bản năng ………………………………
II. Người phụ nữ với tiếng thét khẳng khái đòi quyền hạnh phúc ………….
Chương III. Phương thức biểu hiện con người cá nhân trong thơ Nôm
truyền tụng Hồ Xuân Hương ………………………………………
I. Nghệ thuật trào phúng thể hiện con người cá nhân trong thơ Hồ Xuân Hương …
II. Con người cá nhân thể hiện qua hình tượng nghệ thuật ……………
C. Kết luận …………………………………………
Danh mục tài liệu tham khảo …………………………………
2
A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo trong văn học trung đại
Việt Nam nói riêng và lịch sử văn học Việt Nam nói chung. Về văn học sử,
có thể coi đây là một trong những tác giả lớn nhất của nền văn học nước
nhà. Trên phương diện nghiên cứu Hồ Xuân Hương cũng là đề tài từ trước
đến nay gây nhiều tranh cãi gay gắt. Bất kì ai kể cả những nhà nghiên cứu
nước ngoài khi tìm hiểu về văn học Việt Nam đều ít nhiều đề xuất một cách
đánh giá lí giải thơ Hồ Xuân Hương.
Đi tìm một tiếng nói thống nhất chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên
cứu cùng nhất trí cho rằng trong sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương có hai
phong cách cùng song song tồn tại: trữ tình và trào phúng.
Điểm chung nhất là dù nhà thơ viết theo phong cách nào thì vẫn nổi
bật hình tượng một người phụ nữ tài hoa mà bất hạnh, cảm xúc mà khát
khao yêu đương nhưng trác trở tình trường. Cùng với quan điểm nghệ thuật
độc đáo, với vốn văn hóa dân gian Hồ Xuân Hương đã đứng trên tầm mọi

thế lực thống trị để phê phán, chế giễu sâu cay, cất lên tiếng cười mỉa mai
những thói hư tật xấu, những áp lực bất công đè nén con người, đặc biệt là
người phụ nữ. Tiếng nói đòi quyền sống ấy cũng chính là tiếng nói của con
người ca nhân bị giam hãm, cầm tù suốt mấy mươi thế kỉ.
Mục đích của bài tập khoa học này là đi sâu vào tìm hiểm có hệ
thống con người cá nhân trong thơ Hồ Xuân Hương. Với khuôn khổ của
một bài tập khoa học, thời gian nghiên cứu không dài cộng với năng lực cá
nhân có hạn, tôi cố gắng hệ thống lại các ý kiến của các nhà nghiên cứu đi
trước và đưa ra những kết luận mới nhằm tiếp cận một cách toàn diện hơn,
sâu sắc hơn về thơ của Hồ Xuân Hương.
Giải quyết đề tài nghiên cứu của bài tập khoa học tôi lưu ý mục đích
và ý nghĩa sau:
- Về khoa học cơ bản
3
Góp một tiếng nói khẳng định hướng đi đúng đắn của nghiên cứu và phê
bình hiện nay là đi sâu vào văn bản thơ Hồ Xuân Hương tìm ra ý nghĩa nội
dung và phương thức nghệ thuật của nó, góp phần khẳng định tài năng và
cá tính Hồ Xuân Hương.
- Về nghiệp vụ
Trên cơ sở đã nêu, báo cáo hi vọng góp thêm tài liệu với các bạn sinh viên,
để cùng nhau đi vào tìm hiểu con người cá nhân trong thơ Nôm Hồ Xuân
Hương. Nhưng trước hết, bài tập khoa học sẽ giúp ích cho tôi có thao tác và
kĩ năng, tri thức để học tập và giảng dạy tốt hơn văn học trung đại Việt
Nam nói chung và Hồ Xuân Hương nói riêng.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như tên gọi của đề tài, tôi lấy thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương
làm đối tượng nghiên cứu cơ bản. Để làm nổi bật con người cá nhân trong
thơ Hồ Xuân Hương, một thao tác cần thiết là phản đối chiếu so sánh. Nói
cách khác là đặt thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương trong mạch văn thơ
của dân tộc từ cội nguồn và sự tiếp nối sau này, đặc biệt là trong văn học

trung đại Việt Nam.
Văn bản thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn chưa có sự
thống nhất trong giới thiệu nghiên cứu. Trong bài tập khoa học này, tôi chủ
yếu khảo sát văn bản trong tuyển tập:
“ Hồ Xuân Hương thơ và đời” do Lữ Huy Nguyên ( tuyển soạn, giới
thiệu) . NXB Văn học 1996.
III. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hồ Xuân Hương là một hiện tượng văn học độc đáo và cá tính bậc
nhất trong văn học sử nước ta thời trung đại, lẽ đó thơ Hồ Xuân Hương đã
được rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu. Đã
có rất nhiều công trình quy mô viết về thơ và đời của Hồ Xuân Hương,
nhiều luận án, luận văn, báo cáo lấy thơ Hồ Xuân Hương làm đề tài nghiên
cứu. Do chỉ khảo sát thế giới thơ Nôm truyền tụng, lại đi sâu vào một
4
phương diện biểu hiện là con người cá nhân trong thơ Nôm truyền tụng Hồ
Xuân Hương nên tôi xin điểm lại một số ý kiến có liên quan tới đề tài này.
Cũng cần nói thêm rằng các ý kiến đánh giá trên nhiều phương diện, có
nhiều điểm tương đồng nhưng cũng rất khác nhau, thậm chí ở một vài khía
cạnh còn có sự đối lập.
Như vậy, qua lịch sử nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương chúng ta thấy
được sức hút của thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương đối với giới nghiên
cứu. Đã có rất nhiều công trình khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới thơ Nôm
truyền tụng Hồ Xuân Hương, dưới nhiều góc độ: ý nghĩa xã hội, cái “ Dâm
tục”, cấu trúc biểu đạt, nghệ thuật trào phúng, đối tượng trào phúng, ngôn
ngữ và bút pháp, cá tính sáng tạo… Tuy nhiên chưa có một công trình nào
chuyên sâu về vấn đề con người cá nhân trong thơ Nôm truyền tụng Hồ
Xuân Hương. Quá trình khảo sát các công trình nghiên cứu này đã đem đến
cho tôi nhiều tri thức về đối tượng nghiên cứu. Quan điểm của tôi là dựa
trên sự kế thừa thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, hệ thống lại, trên
cơ sở đó bổ sung cách lí giải mới của mình.

IV. Nhiệm vụ của bài tập khoa học và những đóng góp mới.
Nhiệm vụ hàng đầu của bài tập khoa học là đi sâu tìm hiểu biểu hiện
của con người cá nhân trong thơ Nôm truyên tụng Hồ Xuân Hương thể
hiện ở nôi dung và phương thức biểu hiện… Trên cơ sở đó, bài tập khoa
học sẽ góp phần khẳng định đóng góp quan trọng của Hồ Xuân Hương và
thơ Nôm truyền tụng của bà trong sự phát triển của con người cá nhân
trong văn học trung đại Việt Nam.
V. Phương pháp nghiên cứu.
1. Phương pháp khoa học đầu tiên mà bài tập khoa học vận dụng là phương
pháp thống kê phân loại. Phương pháp này sẽ cho tôi một cái nhìn tổng hợp
về thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương theo những đề tài phản ánh riêng.
Việc phân loại càng chi tiết càng dễ dàng cho việc tìm ra các luận điểm của
bài tập khoa học. Trong quá trình phân loại, tôi cũng đã tham khảo hướng
5
phân loại của các nhà nghiên cứu đi trước làm cơ sở cho việc phân tích
được chính xác hơn.
2.Phương pháp thứ hai là phân tích tổng hợp. Quá trình phân tích được tiến
hành trên cả hai phương diện; nội dung và phương thức biểu hiện. Sau khi
phân tích, bài tập khoa học sẽ tổng hợp và khái quát vấn đề, trên cơ sở đó
rút ra kết luận.
3. Bên cạnh đó, bài tập khoa học còn sử dụng phương pháp đối chiếu, so
sánh với các tác giả cùng thời và trong cả hành trình văn học trung đại để
thấy được đóng góp mới của Hồ Xuân Hương về vấn đề con người cá nhân
trong văn học.
VI. Cấu trúc của bài tập khoa học
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung sẽ chia làm 3 chương:
Chương I: Vài nét về tác giả Hồ Xuân Hương và con đường thơ của Hồ
Xuân Hương.
Chương II: Biểu hiện con người cá nhân trong thơ Nôm truyền tụng Hồ

Xuân Hương.
Chương III: Phương thức biểu hiện con người cá nhân trong thơ Nôm
truyền tụng Hồ Xuân Hương.
6
B. Phần nội dung
Chương I: Vài nét về tác giả Hồ Xuân Hương và con đường thơ của Hồ
Xuân Hương
I. Vài nét về tác giả Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ
19 (1772-1822). Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa
thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương
được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam.
1. Tiểu sử
Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh
cãi, thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là
của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có
ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những
bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã
tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:
Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt
và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn – thân sinh của bà – thì dòng họ
này đã suy tàn.
Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn
Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở
làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông thi đậu tú tài năm 24
tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học ông ra dạy
học ở Hải Hưng, Hà Bắc để kiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc
Ninh, họ Hà làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình
duyên đó.

Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức 1772-1822.
Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của
quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
7
Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh
cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động
nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã
hội. Bà ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo, vậy tại sao lại có chuyện “ cổ
nguyệt đình”?. Bà không dùng chữ Nho cũng đâu thể cho rằng bà ít chịu
ảnh hưởng của Nho giáo, mà phải xem lại xã hội thời đó, bà là một nhà thơ
nên cũng là một minh chứng cho xã hội thời đó về mặt nhân sinh quan
cũng như về phương diện văn chương.
Hồ Xuân Hương là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành
cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với
những người bạn bè ở làng thơ văn, các nhà Nho. Nữ sĩ còn là người từng
đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước. Là một phụ nữ có tài
hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân
Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả
hai đều ngẵn ngủi và không có hạnh phúc.
2. Tác phẩm
Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ
yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.
Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của
Xuân Hương trên báo Văn nghệ viết về Vịnh Hạ Long. Đến năm 1983.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này ( bao gồm:
Độ Hoa Phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thủy vân
hương) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng trên
tập san Khoa học xã hội tại Paris vào năm 1984. Ngoài ra Hồ Xuân Hương
còn viết bài “ Bánh trôi nước” rất nổi tiếng.
Năm 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mai phát hiện một tập thơ

nữa tên là Lưu hương ký, theo những nghiên cứu đến nay nhiều người tán
thành rằng những bài thơ trong đó là của Hồ Xuân Hương. Lưu hương ký
là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó không thể hiện rõ cá
8
tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương cho nên việc nghiên cứu giá trị thơ Hồ
Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng
của bà.
II. Thống kê một số tác phẩm thơ Hồ Xuân Hương
1.Tranh tố nữ
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh.
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách người thợ vẽ khéo cô tình.
Xiếu ( phiếu) mai: Quả mai rụng. Trong Kinh Thi có nói “ Quả mai rụng
mười phần còn bảy… mười phần còn ba”, ví với người con gái đã muộn
thì, cần có một người chồng. Câu này dùng chữ “ xiếu mai” để nói người
con gái sợ lỡ thì nên chuyên tâm vào việc kén chồng, không dám nghĩ đến
chuyện trăng hoa nữa. Nhưng người đẹp trong tranh thì tính sao được việc
chồng con? Nên cứ đành mãi mãi giữ thân phận mỏng manh, son sẻ.
2. Giếng thơi
Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,
Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lung.
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng.

Giếng ấy thanh tân ai cũng biết,
Đố ai dám thả nạ dòng dòng.
(*) Giếng thơi : Giếng sâu
9
Thanh thơi : Trong và sâu
Thả nạ dòng dòng: Tục ngữ có câu “ Dòng dòng theo nạ”. Dòng dòng hay
đòng đòng là thứ cá con rất nhỏ, nạ nghĩa là mẹ. Cái giếng trong và sâu kia,
ai dám thả vào đấy một đàn “ dòng dòng theo nạ”. Ví như người con gái
thanh tân tươi non, ai cũng biết cả đấy, song ai đã dám cầu xin cô làm vợ để
cô sẽ trở thành người mẹ quấn quýt với những đứa con, vì cô cao giá quá!
3. Bánh trôi
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Bánh trôi khi luộc trải qua chìm nổi mấy lần trong nước mới chin.
Tấm lòng son: Bánh trôi khi luộc chín thì nhân đường của bánh trôi ở giữa
đỏ thắm như son, ví với người con gái dù có long đong ba chìm bảy nổi vẫn
giữ tấm lòng thành thực trong tình yêu.
4.Quả mít
Thân em như quả mít trên cây,
Vỏ nó xù xì, múi nó dày.
Quân tử có yêu thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
5. Ốc nhồi
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.
Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.
6. Đồng tiền hoẻn

Cũng lò cũng bễ cũng be than,
Mở mặt vuông tròn với thế gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Đủ đồng ắt cũng đáng nên quan.
10
(*) Đồng tiền hoẻn: Đồng tiền bé, tức tiền kẽm, đơn vị tiền nhỏ nhất trong
tiền tệ của ta thời xưa.
Quan: Quan tiền là đơn vị tiền lớn, thông dụng, gồm nhiều xâu tiền kẽm.
Đồng kẽm nếu tính cho đủ số, cũng sẽ thành một quan tiền hẳn hoi.
7. Cái quạt (I)
Mười bảy hay là mười tám đây,
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc,
Rộng hẹp dường nào, cắm một cay.
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu, vua yêu một cái này.
Mười bảy, mười tám: Số nan quạt giấy, cũng nói tuổi của thiếu nữ.
Cay: cái suốt của quạt giấy, hai đầu có mảnh kim loại (nhài quạt) hình tròn
để chốt các nan lại ở hai nan cái
Cậy: Giống cây hồng, quả bé và chát, nhựa dùng để phất quạt. “ Má hồng
không thuốc mà say”
Cái quạt (II)
Một lỗ xâu, xâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dán tự bao giờ.
Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.

Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
Lỗ xâu: Các nan quạt đều có một cái lỗ để xâu bằng cái suốt.
11
Dinh dán: Cái nhài quạt chốt các nan quạt lại cho khỏi xổ, để có thể mở ra,
khép vào. Dính dán ở đây có nghĩa là kết dính hoặc kết tạo, chứ không phải
“ dính dáng” với nghĩa liên can.
8. Tát nước
Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếu gầu ba góc chụm,
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,
Nhấp nhỏm bên ghềnh đít vắt ve.
Ham việc làm ăn quên cả mệt,
Dạng hang một lúc đã đầy phè.
Ba góc chụm: Nhìn nghiêng thì cái gầu dây có thể quy vào hình tam giác,
khác với gầu sòng có hình thang.
Bốn bờ be: Tát nước thì phải be bờ
9. Dệt cửi
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,
Con cò mấp máy suốt đêm thau.
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả,
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ,
Chờ đến ba thu mới dãi màu.
Con cò: Con cò đặt ở trên và chính giữa khung dệt để thắng sợi, làm chuẩn
cho cái go khỏi lệch theo.

Suốt: Ông suốt cuốn chỉ, nằm trong ruột con thoi để nhả sợi
Ngâm cho kỹ: Sợi vảo hồ bằng nước cơm đem ngâm lâu cho bền và óng
màu hồ.
12
Chờ đến nắng hanh của ba tháng thu, nhấn nâu đem dãi nhiều lượt vải
nhuộm mới lên màu sẫm dần lại.
10. Thiếu nữ ngủ ngày
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm,
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở ở không xong.
Nương long: Ngực phụ nữ. Tục ngữ có câu: “ Nương long mỗi ngày một
cao; Má đào mỗi ngày một đỏ”, nói sự phát triển của người thiếu nữ ở tuổi
dậy thì.
Bồng Đảo tức Đảo Bồng Lai; Đào Nguyệt: Nguồn Đào; các tên riêng trong
văn học và là hình ảnh vẻ đẹp thần tiên. Thành ngữ có câu: Đẹp như tiên
non Bồng”. Hồ Xuân Hương dùng ca ngợi vẻ đẹp thanh tân của cơ thể
thiếu nữ
11. Phường lòi tói
Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói nói không nên.
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống đem vôi quét trả đền!
Lòi tói: Dây sắt gồm nhiều vòng móc vào nhau. Cách chấm thơ văn xưa
thường là khuyên và sổ, song cũng có lúc đùa mà khuyên móc xích nhiều
vòng gọi là khuyên lòi tói khi gặp những đoạn văn ẩu. Bọn học trò mới

lớn kéo nhau đi vãn cảnh chùa, cũng học ăn học nói, đề bậy chữ nghĩa
lên tường chùa. Hồ Xuân Hương không chịu nổi việc đó nên nặng lời
quở trách.
13
12. Xướng họa với chiêu hổ
Xướng(I)
Anh đồ tỉnh, anh đồ say,
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này chị bảo cho mà biết,
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
Chiêu Hổ họa lai
Này ông tỉnh! Này ông say!
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!
Hang hùm ví bằng không ai mó,
Sao có hùm con bỗng tróc tay?
Cuộc xướng họa giữa Hồ Xuân Hương và Chiêu Hổ thực là khôn tiền
khoáng hậu trong lịch sử văn chương của ta. Sức trẻ và tình yêu sự sống,
văn tài và cá tính, lối nói toạc móng heo, không úp mở bóng gió nhiều,
không dùng biểu tượng hai mặt, ít tử vận ( vần chết không họa được) mà
chỉ có lộng ngữ ( bỡn chữ). Chỉ có ba bài thơ mà đã đi thẳng vào dân chúng
và từ lâu đã nảy sinh nhiều giai thoại. Cả đôi bạn đều cân xứng về tài nghệ
thơ Nôm, và cũng thật tri âm, tri kỷ, không có một chút gì ngăn cách giữa
đôi bạn thanh niên nam nữ.
Ví bẵng: Tức ví bằng, đọc theo âm trắc của thơ
Bồng: tức là bồng, đọc theo âm trắc của thơ, mới đúng âm luật.
Xướng(II)
Sao nói rằng năm lại có ba?
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Nhớ hái cho xin nắm lá đa.

Chiêu Hổ họa lai
Rằng gián thì năm, quý có ba,
Bởi người thục nữ tính không ra
Ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt,
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
14
Theo truyền thuyết trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc.
Cuội còn là một nhân vật trong truyện cổ dân gian có tính đã trở thành
thành ngữ “ Nói dối như Cuội”. Ở đây nhắc chuyện lên chơi cung trăng và
nhờ Chiêu Hổ hái cho Xuân Hương nắm lá đa, có ý nói Chiêu Hổ cũng
chẳng khác gì Cuội
Tiền gián ăn 36 đồng kẽm. Tiền quý ăn 60. Như vậy 5 đồng gián hay 3
đồng xu đều bằng 180 đồng kẽm. Có thể cách hỏi vay của Hồ Xuân Hương
với Chiêu Hổ không giao hẹn rõ ràng, cũng có thể cách trả lời chỉ là chữa
khéo của Chiêu Hổ.
Xướng(III)
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe,
Nhắn nhe toan những sự gùn ghè.
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám,
Chưa dám cho nên phải rụt rè.
Chiêu Hổ họa lai
Hỡi hỡi cô bay tố hão nhe,
Hão nhe không được, gậy ông ghè.
Ông ghè không được, ông ghè mãi,
Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè.
Gùn ghè: Gạ gẫm
Tố hão: Cáo tố hão huyền. Ở đây in theo bản Hồ Xuân Hương, giai thoại
thơ của Sở Văn hóa Vĩnh Phúc- 1989. Hai chữ này gắn với cách đá đáp của
hai bài họa, khác với nhiều bản vẫn chép là “ tới bảo”.
13. Không chồng mà chửa

Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng.
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
15
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan!
Ở đây dùng lối nói chơi chữ Hán. Chữ Thiên là trời nhô đầu lên thì thành
chữ Phu là chồng, chữ Liễu là rõ hoặc hết, đồng âm với cây liễu chỉ người
con gái, nếu thêm một nét ngang thì thành chữ Tử là con. Hai câu này có ý
ói: Gái chưa chồng mà sao đã có con trong bụng?
Tình và nghĩa gắn liền là đặc tính truyền thống của dân ta. Hồ Xuân Hương
nhấn mạnh cái nghĩa, cái trách nhiệm mà người đàn ông nào đó thường vô
tâm trước hậu quả để lại cho người phụ nữ.
Tác giả đứng về phía người con gái mà dùng ý một câu ca dao: Không
chồng mà chửa mới ngoan; Có chồng mà chửa thế gian sự thường!”
14. Dỗ người dàn bà khóc chồng
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng,
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em bé,
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung.
Tục ngữ có câu: “ Xấu máu đừng them ăn của độc”,.
Khém: Ăn kiêng khi mới ở cữ, nên thường nói kiêng khem hoặc kiêng cữ.
Miếng đỉnh chung: Của ngon vật lạ thường có ở những nơi quyền quý cao
sang. Ý cả câu: Nếu đã xấu máu mà gặp phải của ngon vật lạ có them quá
không nhịn được thì dùng ít thôi. Ở đây có ý dỗ dành khuyên nhủ và nói bỡn.
15. Bỡn bà lang khóc chồng
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì,

Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng chàng ơi vị quế chi.
Thạch nhũ, trần bì sao để lại,
Quý thân, liên nhục tẩm mang đi.
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ?
Sinh kỳ chàng ơi! Tử tắc quy.
16
Cam thảo: Cỏ ngọt, tên vị thuốc ta.
Quế chi: Cành quế vị cay, tên vị thuốc ta.
Thạch nhũ nghĩa đen là vú đá, trần bì là vỏ quýt khô; đều dùng làm thuốc.
Quy thân: Vị đương quy có ba phần đầu, thân và đuôi, có tính dược khác
nhau; quy thân là phần củ của đương quy. Liên nhục: hạt sen, cũng dùng
làm thuốc. Vì ông chồng là thầy lang nên tác giả dùng những tên vị thuốc.
Ý hai câu: Giờ thì kẻ mất người còn, “ của anh anh mang, của nàng nàng
xách”. Bỡn cợt bà lang là ở hai câu này.
Dao cầu: Dao dùng riêng trong nghề thuốc, tác dụng thái thuốc mạnh và
nhanh hơn dao thường. Sinh ký tử quy: sống gửi thác về. Ở đây tác giả vận
dụng linh hoạt thành ngữ này. Người phụ nữ góa trẻ này nếu không ở vậy
được mà phải qua hai lần đò “ thì kỷ vật này sẽ trao lại cho ai? Chàng ơi!
Trong cuộc sống tạm bợ này, chỉ có lúc chết đi thì mới có thể về nơi ở mãi
mãi cùng chàng được”.
16. Cảnh thu
Thánh thót tàu tiêu mấy giọt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt nặng vĩ thơ.
Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ,

Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ,
Tiêu sơ: Cảnh sắc sơ sài mà thanh nhã.
Chất men say của bầu non sông dốc cạn vào tâm hồn thi sĩ còn say hơn
rượu nhiều, không cần phải mượn rượu để tăng cảm xúc nữa. Non sông là
bầu rượu lớn của nhà thơ.
Túi thơ: Túi bằng lụa đựng những mảnh giấy ghi lại những tứ thơ hoặc bài
thơ của tác giả. Túi thơ tuy nhẹ và tư liệu đựng cũng không đầy, song tình
17
thơ chất chứa trong đó ghi lại cảnh vật gió trăng của thiên nhiên cần phải
ghi lại bằng những tứ thơ, câu thơ, bài thơ tuyệt tác.
17. Mời trầu
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá bạc như vôi!
“ Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Từ xưa, chuyện ăn trầu, mời trầu đã trở
thành một nét sinh hoạt văn hóa của dân tộc. Người ta mời trầu nhau trong
lễ hội, vào năm mới hay các cuộc vui gia đình. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng
đã một lần đưa chuyện trầu cau trong thơ nhưng không phải cách mời trầu
thông thường mà khác lạ.
Miếng trầu của Xuân Hương chẳng phải “ trầu quý, trầu thơm”, chẳng
phải quả cau to, đẹp mà là “ quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi”. Một miếng
trầu thật đạm bạc.
Câu thơ mở đầu khiến người đọc phải suy nghĩ. Phải chăng đó là chủ
ý của tác giả: trong chuyện tình duyên, điều quan trọng không phải là hình
thức; quan trọng là sự gắn bó thắm thiết, thủy chung… Miếng trầu mà nữ sĩ
giới thiệu đã phần nào thể hiện được tính cách ngang tang, bướng bỉnh của
người mời. Chưa hết, hãy quan sát cách mời trầu của chủ nhân:
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Đây không phải là kiểu mời trầu mềm mỏng, dịu dàng và bẽn lẽn như

tập tục mà dõng dạc xưng tên. Thời phong kiến người ta vẫn có cái nhìn
khắt khe về cái tôi cá nhân. Ngày ấy, trong phép xã giao, thái độ của người
có lễ giáo là phải giấu cái tôi của mình đi, hoặc hạ nó xuống đến mức thấp
nhất. Đối với phụ nữ, phép tắc ấy lại càng phải coi trọng hơn nữa. Vậy mà
nhà thơ nữ của chúng ta lại dõng dạc: “ Này của Xuân Hương” – như một
hành động thách thức táo bạo. Với câu thơ này, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã
đóng dấu ấn cá nhân vào miếng trầu.
18
Đọc lần nữa, ta lại ngẫm: Sao Hồ Xuân Hương không bảo là “ têm” mà nói
là “ quệt”. Có cái gì đó nghe mạnh mẽ, mộc mạc, bướng bỉnh và ngang
ngược hơn. Nhưng cũng lạ thay, trong thái độ và cử chỉ có vẻ xấc xược ấy
vẫn lấp lánh một vẻ đẹp chân tình quen thuộc. Phải chăng, đó chính là trái
tim nồng nhiệt trong lời cầu duyên:
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.
Hai câu thơ vừa chứa đựng hành động hỏi, cầu khiến, vừa có hành động
bộc lộ. Dường như tất cả tâm tư thầm kín của thi sĩ, của người phụ nữ đều
được gói gọn vào dòng thơ. Cũng như âm hưởng của hai câu thơ trên, lời
thơ ở đây đọc lên nghe dứt khoát. Mời mà lại răn đe gay gắt cái nhân tình
thế thái: “ Đừng xanh như lá, bạc như vôi”. Quả là một Xuân Hương với cá
tính ngang tang không chịu khuất phục.
Tuy nhiên, lời thơ không chỉ thể hiện cá tính ngang tàng của Xuân
Hương. Ở cái thời phong kiến trai thì năm thê, bảy thiếp, gái chính chuyên
chỉ có một chồng, tìm được tình yêu chung thủy ở người đàn ông thật khó.
Xuân Hương biết vậy nên sau lời cầu duyên cũng là một lời thách thức. Éo
le thay mời trầu của bà lại là sự trao duyên và cầu hôn. Ta biết rằng Xuân
Hương vốn là con người không chịu khuất phục một ai, nhưng đối với tình
yêu thì bà luôn khao khát, dù đã bao lần bị bạc bẽo và phụ bạc. Nhưng biết
làm sao khi trái tim vẫn đang sôi nổi, khát khao! Cho nên đọc kỹ, lắng nghe
bài thơ, đằng sau cái đanh đá, chua ngoa, đáo để, ta vẫn bắt gặp một tấm

lòng thiết tha: “ Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Một giọng khiêm tốn,
nhún nhường: “ Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi”. Một sự xót xa cay đắng
“ Đừng xanh như lá, bạc như vôi”… Một tấm lòng son nổi lên giữa dòng
đời đen bạc, một tình yêu chân thật đối diện với một cuộc sống phũ phàng.
Có thể nói, bài thơ “ Mời trầu” đã thể hiện rõ cá tính, cuộc đời, số phận của
nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Đọc lại bài thơ, ta hiểu hơn một Hồ Xuân Hương
với tấm lòng tươi rói trẻ trung, đầy ắp xuân tình đi liền với bao cay đắng,
19
tủi hờn của số phận. Tiếng nói vọng lên từ sau lớp vỏ ngôn ngữ chua chat là
tiếng nói khát khao. Đó chính là bức thông điệp gói trọn tâm tư, ước vọng
của nữ sĩ đa tài.
18. Tự tình (II)
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mõi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thềm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!
Chẳng phải ngẫu nhiên mà những vần thơ tự tình này lại lấy không gian cô
liêu và thời gian vắng lặng của một đêm sắp tàn; thời gian và không gian ấy
đã nói với chúng ra rất nhiều. Chả là Nguyễn Du đã từng tả tâm trạng xót
xa cay đắng của Thúy Kiều trong một cảnh ngộ tương tự:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Âm hưởng của bài thất ngôn bát cú này không buồn buồn như một nỗi nhớ
nhà nhớ nước bàng bạc của một di thần trong thơ Bà Huyện Thanh Quan “
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn, Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn”
( Chiều hôm nhớ nhà) mà tạo nên cảm giác hờn dỗi bức bối bởi tác động

của vần om ( bom, chòm, om, móm, tom) được coi là tử vận, khổ độc. Cái
ấn tượng chung về một chặng đường đời truân chuyên của một người đàn
bà bất hạnh là như thế đó. Mạch thơ mộc mạc mà tràn đầy cảm xúc như
tuôn ra từ một cuộc đời thực vốn có.
Hai câu đề hằn lên như một nỗi niềm vừa cô quạnh ( tiếng gà gáy sáng
xa xa ( văng vẳng) dội lại làm sực tỉnh người trong cuộc), vừa bất bình ngao
ngán cho thân phận thiệt thòi quá lớn: oán hận bấy lâu nén chặt trong lòng giờ
đây dường như đang trùm lên mọi nơi khắp chốn ( khắp mọi chòm).
20
Hai câu thực không trực tiếp tả thực về những oán hận cụ thể, nữ sĩ
dùng biện pháp tu từ tả khách hình chủ- mượn hình ảnh khách quan để vận
vào mình – để lột tả nỗi giận hờn khó kìm lại được: mô thảm chuông sầu
không gõ nhịp, không ngân nga, nó vang lên khô khốc ( cốc) thảm đạm
(om) đến não lòng xót ruột! Vận dụng thể đối cân chỉnh ( từ đối từ, thanh
đối thanh, ý đối ý, lời đối lời), nhà thơ đã khắc họa nỗi đau dường như
không duyên cớ (mõ thảm không khua, chuông sầu chẳng đánh) mà sao
đắng lòng đến thế? Câu hỏi buông ra không hề có tiếng vọng lại.
Hai câu luận theo thể bình đối (hai vế đối nhau) có làm sáng tỏ phần
nào chuyện bất hạnh kể trên. “ Trước nghe những tiếng thềm rầu rĩ”. Tiếng
gì vậy? – Lời đồn đại, chuyện đơn sai chăng? Miệng thế gian biết đâu mà
lường! Nhưng làm sao tránh khỏi? Bởi những chuyện chẳng đâu vào đâu
mà nỗi buồn phiền cứ dồn dập ập đến ( thềm rầu rĩ). Từ chuyện nhân thế
chuyển về chuyện riêng tư “ Sau giận vì duyên để mõm mòm”. Cũng
không phải tại mình mà duyên phận cứ nổi nênh bạc bẽo: Cảnh quá lứa lỡ
thời chua chat biết bao! “ Để mõm mòm” cực tả tâm trạng chua chat đó.
Hai câu kết không bình thường như mọi người chờ đợi. Kẻ bất hạnh ở
đây không nhắm mắt buông theo số phận “ an bài” như những tiếng thở dài
não ruột mà ta thường gặp. “ Cây khô xuống nước cũng khô; Phận nghèo đi
đến nơi mô cũng nghèo”. Đó là một lời trách cứ, thách thức với tư thế đối
diện với mọi dư luận, những lời ong tiếng ve đã kể trên, mọi thế lực ( kể cả

hạng thượng lưu – tài tử văn nhân) – Lòng tư tin hiếm có ấy đã làm nên cá
tính sắc sảo, độc đáo, vốn là mạch sống, là phong cách tiêu biểu trong
Xuân Hương thi tập.
19. Kẽm trống
Hai bên thì núi, giữa thì sông,
Có phải đây là Kẽm Trống không?
Gió giật sườn non khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong,
21
Ở trong hang núi còn hơi hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Qua cửa mình ơi! Nên ngắm lại,
Nào ai có biết nỗi bưng bồng.
Đọc xong bài Kẽm trống, người đọc cảm nhận như thế nào về bài thơ và
tác giả?
Trước tiên, bài thơ Kẽm trống là tả về cảnh thiên nhiên nơi địa dư
Kẽm Trống, với một lối tả cảnh “nghịch ngơm”!
Đi xa hơn, người đọc cảm giác là tác giả muốn lồng vào một ý khác. Một
hình ảnh thiên nhiên, người đọc có thể suy ra “ cái này” hoặc “ cái kia”
nhưng hiểu là tác giả nhằm mục đích đả kích hoặc khuyên răn…
Hãy đi xa hơn nữa, trong vai một phụ nữ, một người Mẹ, chúng ta thấy
được ẩn ý sâu xa của tác giả. Chúng ta thấy tại sao giai điệu thơ luôn bị “
nẩy lên”.
Gió giật sườn non >< khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước >< vỗ long bong
Ra khỏi đầu non >< đã rộng thùng
Trong ba câu thơ trên, hết tứ chữ đầu là chúng ta bị “ hẫng”. Nếu chỉ
cho đó là một lối tả cảnh “ nghịch ngợm” của tác giả thì chưa đủ! Sự “
chuyển gam” đột ngột trên, chính là tâm trạng của tác giả, là nghệ thuật và
khoa học dùng từ của tác giả. Sự lắt léo và tính chính xác các từ ngữ dùng,

tác giả đã dành trọn vẹn cho chủ đề tư tưởng của mình. Chủ đề tư tưởng
của tác giả còn được thể hiện qua giai điệu thơ rất thiết tha:
Qua cửa mình ơi! Nên ngắm lại,
Nào ai có biết nỗi bưng bồng
Từng hình ảnh, từng hình ảnh của thiên nhiên là tượng trưng của
hình ảnh người Mẹ mạnh mẽ, cao cả và khổ đau trong nỗi bị bạc tình…
Đó chính là chủ đề tư tưởng, là mục đích cao nhất của nghệ thuật thơ
Hồ Xuân Hương
22
Theo logic của toàn bộ bài thơ, thì bài thơ Kẽm Trống là nguyên tác.
Và chỉ một phụ nữ có tầm tư tưởng và rất cao cả mới viết nên được bài thơ
như vậy. Qua bài Kẽm Trống, thấy nét nổi bật bao trùm nhất toát lên từ bài
thơ là tính tư tưởng. Kẽm Trống thể hiện một nghệ thuật dùng chữ và đan ý
rất tài tình. Ý thơ rất phức tạp, là sự kết hợp của tâm huyết và trí tuệ, chứ
không phải chỉ là kết quả của sự đắm mình trong một cảm xúc đơn thuần…
Nghệ thuật thơ thật độc đáo như vậy, nhưng là nghệ thuật vì nhân sinh…
20. Trăng thu
Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.
Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,
Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.
Quế đỏ: Huyền thoại nói trong mặt trăng có cây quế đỏ.
Chiếc bích: Chiếc ngọc bích hình tròn dẹt, giữa có lỗ, người ta gọi mặt
trăng là bích nguyệt.
Người ta thường ví đường cong của mặt trăng như người tráng sĩ giương
cánh cung,

Ca dao “ Thằng Cuội ngồi gốc cây đa; Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời…”. Ở
đây vì tưc tối nên thằng Cuội không ngồi mà đứng.
Bẻ cành quế đỏ (đan quế) trên cung trăng, chỉ người thi đỗ Tiến sĩ.
Hằng Nga: Huyền thoại nói Hằng Nga vợ Hậu Nghệ ăn trộm thuốc tiên của
chồng do bà Tây Vương Mẫu cho, rồi một mình trốn lên ở cung trăng.
23
III. Giá trị nghệ thuật thơ của Hồ Xuân Hương
1 Các dạng thức sử dụng từ ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương
1.1.Sử dụng từ láy
Ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương bình dị như chính cuộc sống
đời thường vậy. Ngôn ngữ trong thơ bà phần lớn dùng ngôn ngữ bình dân,
rất hạn chế sử dụng từ ngữ Hán Việt. Sở dĩ như vậy bởi vì bản thân Hồ
Xuân Hương chất chứa những tố chất thuần Việt của con người Việt Nam
chất phác, mộc mạc; không khoa trương, không xa lạ với thứ ngôn ngữ của
quần chúng nhân dân đa nghĩa, điêu luyện. Thật là tài tình, dân gian mà cổ
điển, điêu luyện mà rất đỗi hồn nhiên. Thực thực, hư hư, đùa mà như thật,
thật mà như đùa Tất cả đã kiến tạo nên một hồn thơ Hồ Xuân Hương
mang đậm phong vị quê hương, mang nhiều âm hưởng của ngôn ngữ dân
gian truyền thống.
Từ láy là từ loại được sử dụng rộng rãi trong dân gian nói chung
và trong thơ Hồ Xuân Hương nói riêng. Theo thống kê của Lã Nhân Thìn
trong tổng số 268 câu thơ có 79 từ láy (chiếm 29,4%). Từ láy trong thơ có
nhiều tác dụng, nó có chức năng hạn chế tính công thức ước lệ, làm cho câu
thơ trở nên biểu cảm hơn, đậm tính dân tộc hơn và góp phần thể hiện phong
cách tác giả. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của sức sống của chân đạp, tay
vung, thơ của nhịp điệu cơ thể và cuộc sống con người, thơ của tâm trạng.
Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương thường có tác dụng biểu lộ tình cảm, thể
hiện con người tác giả.
1.2. Đặc điểm cấu tạo
a. Từ láy hai âm tiết hay láy đôi

a1. Từ láy phụ âm đầu:
- Da nó xù xì, múi nó dày
- Xin đừng mân mó nhựa ra tay
- Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
- Dắt díu nhau lên đến cửa chiền
24
- Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi
- Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
- Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
- Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
- Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
- Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt
- Cha kiếp đường tu sao lắt léo
- Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
- Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
- Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
- Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
- Đầm đìa lá liễu giọt sương reo
- Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
- Giếng tốt thảnh thơi, giếng lạ lùng
- Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác
- Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo
- Khiến người quân tử hiền nhân ngại ngùng
- Con cò mấp máy suốt đêm thâu
- Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
a2. Từ láy phần vần:
- Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
- Ai về nhắn bảo phường lòi tói
- Con thuyền vô trạo cúi lom khom
- Lách khe nước rỉ mó lam nham

- Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
- Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo
- Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
- Cửu son đỏ loét tùm hum nóc
- Một dòng nước biếc cảnh leo teo
- Cỏ gà lún phún leo quanh mép
25

×