Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.23 KB, 24 trang )

Đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh
doanh
Biên tập bởi:
Hoàng Tuấn Khanh
Đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh
doanh
Biên tập bởi:
Hoàng Tuấn Khanh
Các tác giả:
Hoàng Tuấn Khanh
Phiên bản trực tuyến:
/>MỤC LỤC
1. Đầu tư và phát triển
2. Phân loại và tác động của các hoạt động đầu tư phát triển trong sản xuất kinh doanh
3. Vai trò của hoạt động đầu tư
4. Vốn đầu tư và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp
Tham gia đóng góp
1/22
Đầu tư và phát triển
Đầu tư:
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó
nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn
lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là
đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải
gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Các nguồn lực phải hy sinh cho hoạt động đầu tư có thể là tiền , tài nguyên thiên nhiên,
là sức lao động và trí tuệ của con người.
Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật
chất( nhà xưởng, đường xá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí tuệ( trình độ văn hoá,
chuyên môn, quản lí, khoa học kĩ thuật ) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc


với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh các tài
sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi
lúc mọi nơi, không chỉ với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết
quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng. Chẳng hạn
một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng
thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được tăng thêm.
Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho người đầu tư là lợi nhuận
còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và cho sinh hoạt) tăng
thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách , giải quyết việc làm cho lao động
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ có lợi cho
chính họ (trong việc có thu nhập cao và địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn
lực có kĩ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp
phần nâng cao trình độ công nghệ và kĩ thuật của nền sản xuất quốc gia.
Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ cho người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội
được hưởng thụ trên đây, không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người chủ đầu tư mà
cả của nền kinh tế xã hội chính là đầu tư phát triển. Ngoài ra, còn có các loại hình đầu
tư khác mà chỉ làm tăng tài sản, lợi ích của cá nhân người đầu tư và không làm tăng tài
sản và lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế, đó chính là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
Tuy nhiên, do đặc điểm của đầu tư phát triển nên đây cũng là loại đầu tư quyết định trực
2/22
tiếp sự phát triển của xã hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng, là điều kiện tiên quyết cho
sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Đầu tư phát triển:
Đầu tư phát triển chính là một phạm trù hẹp của đầu tư chỉ những hoạt động sử dụng các
nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Nghĩa là, người có tiền
bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng
tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo
việc làm nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra

để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt
chúng trên bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên
gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các
cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Xét trong phạm vi quốc
gia thì đó là những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các
tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài
sản và nguồn nhân lực sẵn có.
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển chính là quá trình chi tiêu để duy trì sự phát
huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho nền kinh tế, tạo nền
tảng cho sự tăng trưởng và phát triển xã hội trong dài hạn.
3/22
Phân loại và tác động của các hoạt động đầu
tư phát triển trong sản xuất kinh doanh
Có nhiều cách phân loại hoạt động đầu tư tuỳ theo bản chất , phạm vi lợi ích do hoạt
động đầu tư đem lại, tuỳ theo thời hạn đầu tư, phương thức đầu tư.
Theo bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân
biệt đầu tư thành các dạng sau:
Đầu tư tài chính:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để
hưởng lãi suất định trước ( gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ
thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành( mua cổ phiếu
hoặc trái phiếu công ty). Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh
tế quốc dân( nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá
trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư (đánh bạc, đánh đề cũng là một hình
thức đầu tư tài chính nhưng không được pháp luật cho phép do gây nên các tệ nạn xã
hội). Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển
dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái
phiếu, cổ phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư.
Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là nguồn
cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.

Đầu tư thương mại:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá
cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại hình đầu tư này
cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ
làm tăng tài sản của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở
hữu hàng hoá giữa người bán và người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ.
Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất
do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng
tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội
nói chung( Chúng ta cần lưu ý là đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư thương mại
xét về bản chất, nhưng bị pháp luật cấm vì gây ra tình trạng thừa thiếu hàng hoá một
cách giả tạo, gây khó khăn cho việc quản lí lưu thông phân phối, gây mất ổn định cho
sản xuất, làm tăng chi phí của người tiêu dùng).
4/22
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra
tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã
hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo ra việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân
trong xã hội. Đó là việc bỏ tiền ra xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng,
mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực,
thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm
duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh
tế xã hội. Loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư phát triển.
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để duy trì sự phát huy tác
dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho nền kinh tế, tạo nền tảng
cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong dài hạn.
Theo thời hạn đầu tư, hoạt động đầu tư phát triển được phân thành các loại
sau:
Đầu tư dài hạn:
Là kế hoạch đầu tư mang tính chất lâu dài, định hướng sự phát triển của công ty, thường

kế hoạch đầu tư dài hạn có thời gian đầu tư từ 10 năm trở nên và có quy mô thường to
lớn. Do có thời hạn đầu tư dài và mang ý nghĩa định hướng lâu dài trong chiến lược phát
triển của doanh nghiệp nên đầu tư dài hạn có khối lượng tài sản số lượng lao động huy
động là rất lớn.
Đầu tư dài hạn là hoạt động chủ yếu nhằm xây dựng cơ sở vật chất lâu dài cho nền kinh
tế, cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đồng thời dựa trên các mục tiêu kế hoạch
của đầu tư dài hạn, doanh nghiệp, nền kinh tế sẽ đào tạo xây dựng được một đội ngũ
cán bộ công nhân viên kĩ thuật, cán bộ quản lí có trình độ cao hơn. Thông qua các kế
hoạch dài hạn, doanh nghiệp sẽ có chiến lược mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu
cho mình. Kế hoạch đầu tư dài hạn đòi hỏi những người lập kế hoạch đầu tư dài hạn của
công ty phải rất cẩn thận và có tầm nhìn chiến lược thật tốt nếu không sẽ làm cho kế
hoạch đầu tư không được thành công và kéo theo là sự sụp đổ của doanh nghiệp hoặc
làm cho doanh nghiệp không thể phát triển được. Do thời hạn của đầu tư dài hạn là rất
dài so với sự thay đổi của tình hình phát triển của nền kinh tế thị trường nên bên cạnh
các kế hoạch đầu tư dài hạn có tính chất định hướng, doanh nghiệp còn luôn luôn phải
đề ra những kế hoạch ngắn hạn nhằm từng bước hiện thực hoá kế hoạch đầu tư dài hạn,
tránh sự phát triển lệch lạc và bám sát hơn với sự phát triển của nền kinh tế.
5/22
Đầu tư ngắn hạn:
Là kế hoạch đầu tư có thời gian đầu tư ngắn, thường là dưới 10 năm. Đầu tư ngắn hạn
có tác dụng tạo lực đẩy cho sự phát triển của công ty tuỳ theo mỗi thời kì ngắn. Là cách
mà doanh nghiệp có thể bổ trợ, củng cố kế hoạch dài hạn. Thông qua đầu tư ngắn hạn,
doanh nghiệp sẽ có đối sách tốt hơn, phản ứng nhanh nhạy hơn với sự biến động của
thị trường. Đầu tư ngắn hạn của doanh nghiệp sẽ sớm thu hồi vốn và lợi nhuận hơn so
với đầu tư dài hạn. Đầu tư ngắn hạn không yêu cầu phải huy động một khối lượng vốn
đầu tư lớn và một số lượng nhân lực nhiều nhưng đòi hỏi những nhà quản lí của doanh
nghiệp phải có một cái nhìn, một phản ứng nhanh nhạy đối với thị trường trong mỗi sự
biến động của thị trường.
Đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn bổ sung những khuyết điểm của nhau và tạo cho sự
phát triển thông thoáng nhanh nhạy của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường đầy

biến động. Các kế hoạch đầu tư tạo cho doanh nghiệp hoạt động một cách trơn tru và
phản ứng tốt với biến động của thị trường.
6/22
Vai trò của hoạt động đầu tư
Từ việc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các lí thuyêt kinh tế, cả lí thuyết kinh tế
kế hoạch hoá tập trung và lí thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố
quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng.
Tác động của đầu tư phát triển trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất
nước :
Đối với một nền kinh tế, hoạt động đầu tư có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó không
chỉ đóng vai trò trong quá trình tái sản xuất của xã hội mà còn tạo ra những cú hích cho
sự phát triển của nền kinh tế ở những nước đang phát triển thoát khỏi vòng luẩn quẩn
của nợ nần và nghèo đói, tạo ra sự phát triển của các nền kinh tế phát triển.
Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
- Về mặt cầu:
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số
liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24% -28% trong cơ cấu tổng
cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn.
Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường
D dịch chuyển sang D’) kéo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q
0
-Q
1
và giá cả của các
đầu vào của đầu tư tăng từ P
0
-P
1
. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E
0

-E
1
.
-Về mặt cung:
Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng
cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên( đường S dịch chuyển sang S’), kéo theo
sản lượng tiềm năng tăng từ Q
0
-Q
1
và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P
0
-P
1
. Sản lượng
tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích
thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát
triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành
viên trong xã hội.
7/22
Đầu tư tác động đến sự ổn định của nền kinh tế theo 2 mặt:
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với
tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều
cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền
kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng
hoá có liên quan tăng( giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức
độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình
trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn,
thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của

các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các nghành này phát triển, thu hút thêm lao
động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lâo động, giảm tệ nạn
xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư( như Việt Nam thời kì 1982-1989) cũng dẫn đến tác động 2 mặt, nhưng
theo chiều hướng ngược láio với tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền
kinh tế, các nhà hoạch định chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các
chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự
ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con dường tất yếu có thể tăng trưởng
nhanh tốc độ mong muốn ( từ 9-10% ) là tăng trưởng đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở
khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các nghành nông, lâm, ngư nghiệp do những
hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là
8/22
rất khó khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở
các nước nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa
các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kếm phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát
huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị những vùng
có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát
triển.
Đầu tư làm tăng khả năng khoa học và công nghệ của đất nước :
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát
triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các
chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế
giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới thành
7 giai đoạnthì Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình
độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó
khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững
chắc.

Chúng ta đều biết rằng có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát
minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự nghiên cứu hay nhập từ
nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công
nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
Đầu tư tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế:
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức
trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi
nước.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng trưởng của GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
9/22
Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được
sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn
ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và
cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá
rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát
triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Số liệu thống kê trong những năm qua của
các nước và lãnh thổ về ICOR như sau:
CHỈ TIÊU ICOR CỦA CÁC NƯỚC
Các nước Thời kì 1963-1973 Thời kì 1973-1981 Thời kì 1981-1988
Hồng Kông 3,6 3,4 3,9
Hàn Quốc 2,0 4,0 2,8
Singapo 3,1 5,0 7,0
Đài Loan 1,9 3,7 2,8
Nguồn : Bela Balassa, Policy Choices in the Newly Industrializing Contries . Working
papers of the Wold Bank WPS 432.1990,tr.5
Đầu tư tác động đến các cơ sở sản xuất kinh doanh:
Đối với mỗi doanh nghiệp thì đầu tư có vai trò quyết định dến cả sự ra đời, tồn tại và
phát triển của mỗi cơ sở. Khi tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho sự ra đời của bất kì cơ
sở nào cũng cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị

máy móc trên nền bệ, tiến hành công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác
gắn liền với sự hoạt động trong một chu kì của các cơ sở vật chất kĩ thuật vừa được tạo
tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh
doanh dịch vụ đang tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kĩ thuật của
các cơ sở này đã hao mòn, hư hoảng. Để duy trì dc sự hoạt động bình thường cần định
kì tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của
sự phát triển khoa học kĩ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua
sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là
phải đầu tư.
10/22
Đối với các cơ sở vô vị lợi ( hoạt động không thể thu lợi nhuận cho bản thân
mình) :
Để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kì các cơ sở vật chất- kĩ thuật
còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều
là những hoạt động đầu tư.
Như vậy, hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng và tác động đến mọi đối tượng kinh tế
của xã hội. Hoạt động đầu tư phát triển là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế, tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, duy trì và phát triển cơ sở vật chất của
nền kinh tế.
11/22
Vốn đầu tư và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
của vốn đầu tư
Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là khái niệm dùng để chỉ các nguồn lực hiện tại chi dùng cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh nhằm thu về một nguồn lực mới có khối lượng và giá trị lớn hơn
nguồn lực đã bỏ ra. Đối với đầu tư phát triển nói riêng thì vốn đầu tư chính là các khoản
tiền, khoản của cải vật chất, nguyên nhiên vật liệu và hàng hoá chi dùng cho hoạt động
sản xuất kinh doanh để thu về khoản lợi nhuận lớn hơn trong tương lai.
Đối với một doanh nghiệp thì vốn đầu tư xuất hiện từ khi doanh nghiệp còn chưa hình
thành và sẽ tiếp tục phát triển đến khi nào doanh nghiệp dừng hoạt động. Hiện nay, vốn

đầu tư là một trong những nhân tố tiên quyết trong sự phát triển của bất kì một doanh
nghiệp nào
Nguồn vốn đầu tư :
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối cho đầu tư
phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu
tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.
Xét về bản chất thì nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà
nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội.
Các nguồn huy động vốn:
Vốn trong nước :
Nguồn vốn Nhà nước:
Bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước .
-Nguồn vốn ngân sách Nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho
đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội của mỗi quốc gia. Đây chính là nguồn vốn dùng để đầu tư xây dựng các công trình
công cộng, các hạng mục công trình an ninh quốc phòng và đầu tư cho các cơ sở phúc
lợi xã hội Nguồn vốn này được hình thành chủ yếu từ nguồn thu của ngân sách Nhà
nước thông qua việc thu thuế, bán tài nguyên, thu lệ phí
12/22
-Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Nền kinh tế đất nước càng phát triển thì
vốn tín dụng của Nhà nước càng đóng vai quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội. Nguồn vốn này có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực
tiếp của Nhà nước. Với cơ chế này, các đơn vị sử dụng phải đảm bảo nguyên tắc hoàn
trả vốn vay, vì vậy đòi hỏi các chủ đầu tư phải cân nhắc kĩ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn
tiết kiệm hơn. Thông qua nguồn vốn này, Nhà nước thực hiện việc quản lí và điều tiết
kinh tế vĩ mô, thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế của các ngành, các vùng,
miền. Góp phần tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá- hiện đại hoá.
-Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp Nhà nước: Các doanh nghiệp Nhà nước là thành phần

chủ đạo trong nền kinh tế nước ta, do vậy, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một
khối lượng lớn vốn. Đây chính là nguồn vốn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết
nền kinh tế theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Hiện nay, với chủ trương tiếp tục
dổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng
được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng
góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân:
Bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các
hợp tác xã. theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vẫn sở hữu một lượng
vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để. Hiện nay, do tập tính tiêu dùng
của dân cư nước ta là tiết kiệm dành những khi gặp rủi ro, nên lượng vốn này tích luỹ
trong dân còn chưa được khai thác triết để, chưa được huy động một cách tích cực để
bù đắp nhu cầu về vốn của nền kinh tế đất nước. Mấy năm gần đây, khi nền kinh tế có
những bước phát triển khả quan, các doanh nghiệp tư nhân càng ngày càng được tự do
hơn trong hoạt động nên hoạt động đầu tư trong khu vực tư nhân ngày càng gia tăng,
vốn trong dân cũng được sử dụng một cách có hiệu quả hơn.
Thị trường vốn:
Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có
nền kinh tế thị trường. Đây là kênh bổ sung chủ yếu các nguồn vốn trung và dài hạn cho
các chủ đầu tư bao gồm cả Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp, là cái van điều tiết
hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nới sử dụng có hiệu quả hơn.
Trên thị trường vốn, bất kì các khoản vốn sử dụng nào cũng đều phải trả gia, vì vậy các
chủ đầu tư muốn sử dụng vốn phải cân nhắc kĩ lưỡng về hiệu quả đầu tư và việc sử dụng
tiết kiệm các nguồn vốn huy động từ thị trường vốn.
13/22
Nguồn vốn nước ngoài:
- Vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài
cung cấp với mục tiêu tài trợ các nước đang phát triển. Đây chính là nguồn vốn mang
tính ưu đãi nhiều nhất đối với các nước đi vay, ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất,
thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn lớn, bao giờ ODA cũng có thêm yếu tố không hoàn

lại đạt ít nhất 25%.
- Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại, tuy không có lãi suất ưu đãi và dễ
dàng như nguồn vốn ODA, nhưng nó lại có ưu điểm là không gắn với các ràng buộc
về chính trị xã hội. Vì lãi suất cao và không dễ dàng để có thể vay nguồn vốn này nên
nguồn vốn này thường chỉ được sử dụng trong việc đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và
thường là ngắn hạn. Đối với nguồn vốn này hiện nay đối với Việt Nam vẫn còn khá hạn
chế.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI ) là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và
phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển.
Đây là nguồn vốn mà việc tiếp nhận không phát sinh nợ đối với các nước tiếp nhận, thay
vì nhận lãi suất trên vốn, nhà đầu tư sẽ được nhận phần lợi nhuận thích đáng khi dự án
đi vào hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, nguồn vốn này còn mang theo toàn bộ tài
nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển nghành nghề
mới, đặc biệt là các dây chuyền công nghệ đòi hỏi kĩ thuật cao hay cần nhiều vốn.Vì
vậy, nguồn vốn này có vai trò cực kì quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá-hiện
đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận.
- Thị trường vốn quốc tế: Với xu hướng toàn cầu hoá nhanh chóng hiện nay, mối liên
kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã
tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu
chuyển trên phạm vi toàn thế giới. Đối với nước ta hiện nay, để thúc đảy kinh tế phát
triển nhanh chóng và bền vững, nhằm mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Nhà
nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vổntong và ngoài nước để đầu tư phát triển
sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn huy
động qua thị trường vốn cũng được chính phủ rất quan tâm, tuy rằng đây là một nguồn
vốn còn mới mẻ và rất phức tạp đối với Việt Nam.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư:
Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh
tế-xã hội đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phải bỏ ra để có được các kết quả đó
trong một thời kì nhất định. Có nhiều cáchđánh giá theo các chỉ tiêu đánh giá khác nhau
về hiệu quả đầu tư tuỳ theo tính chất và kết quả cuối cùng của hoạt động đầu tư đem lại

cho nhà đầu tư.
14/22
Đánh giá hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư:
Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động
sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ sở
sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở số vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kì
khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung.
Các kết quả mà cơ sở thu được do thực hiện đầu tư
E
tc
=
Số vốn đầu tư mà cơ sở đã thực hiện để tạo ra các kết quả trên
E
tc
được coi là hiệu quả khi E
tc
E
tc0
Trong đó: E
tc
- Chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kì khác mà cơ sở đã
đạt được chọn làm cơ sở so sánh, hoặc của đơn vị khác đã đạt tiêu chuẩn hiệu quả.
Để đánh giá hiệu quả tài chính của một dự án người ta sử dụng hệ thống chỉ tiêu
sau:
Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án:
Đây là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối của dự án đầu tư, chỉ tiêu lợi nhuận thuần
tính cho từng năm của đời dự án, phản ánh hiệu quả hoạt động trong từng năm của đời
dự án, hoặc hiệu quả hoạt động của toàn bộ công cuộc đầu tư.
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư ( hệ số thu hồi vốn):
Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm

(
RR
i
=
W
ipv
I
v0
)
trên một đơn vị vốn
đầu tư và mức thu nhập thuần được tính cho 1 đơn vị vốn đầu tư
(
npv =
NPV
I
v0
)
.
Trong đó:
• I
vo
- Vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại( dự án bắt đàu hoạt động).
• W
ipv
- Lợi nhuận thuần năm i tính chuyển về thời điểm hiện tại.
• NPV- Thu nhập thuần tính chuyển về thời điểm hiện tại.
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn tự có (rE):
Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thuần từng năm tính trên 1 đơn vị vốn tự có bình
quân của năm đó.
15/22

r
E
=
W
i
E
i
Trong đó: r
E
- Tỷ suất sinh lời vốn tự có.
E
i
-Vốn tự có bình quân năm i.
W
i
- Lợi nhuận thuần năm i.
Nếu tính cả đời dự án(npv
E
) chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập thuần của cả đời dự án
tính cho một đơn vị vốn tự có bình quân năm của cả đời dự án.
Npv
E
=
NPV
E
pv
Chỉ số vòng quay của vốn lưu động:
Vốn lưu động là một bộ phận của vốn đầu tư, vốn lưu động quay vòng càng nhanh, càng
cần ít vốn và trong điều kiện khác không đổi thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
L

Wci
=
O
i
W
ci
Trong đó: O
i
- Doanh thu thuần năm i
W
ci
- Vốn lưu động bình quân nămi của dự án.
Hoặc:
¯
L
Wc
=
¯
O
pv
¯
Wc
pv
Trong đó:
¯
O
pv
- Doanh thu thuần bình quân năm i của dự án.
¯
Wc

pv
- Vốn lưu động bình quân của cả đời dự án.
Chỉ tiêu tỷ số lợi ích- chi phí ( B/C ):
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ số giữa lợi ích thu được với chi phí phải bỏ ra, dự án có hiệu
quả khi B/C 1. Dự án không có hiệu quả khi B/C 1.
Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư ( T ):
Chỉ tiêu này cho biết thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra từ
lợi nhuận và khấu hao thu được hàng năm. Dự án có hiệu quả khi T tuổi thọ của dự án
hoặc T T định mức. Thời gian thu hồi vốn càng ngắn thì hiệu quả của dự án càng cao.
16/22
Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR):
Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính chuyển
các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu cân bằng với
tổng chi. Dự án có hiệu quả khi IRR r giới hạn và ngược lại. Tỷ suất giới hạn được xác
định căn cứ vào các nguồn vốn huy động của dự án.
Chỉ tiêu điểm hoà vốn:
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ để trang trải các khoản chi phí phải bỏ
ra. Điểm hoà vốn được biểu hiệ bằng chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị. Nếu sản lượng
hoặc doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc doanh thu hoà vốn thì dự án có
lãi và ngược lại. Điểm hoà vốn càng nhỏ càng tốt, mức an toàn của dự án càng cao, thời
gian thu hồi vốn càng ngắn.
17/22
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư
của doanh nghiệp
Môi trường bên ngoài doanh nghiệp:
Đối với một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, môi trường bên ngoài tác động trực tiếp
đến sự tồn vong và phát triển của doanh nghiệp.
Môi trường pháp lí:
Môi trường pháp lí bao gồm các luật và các văn bản dưới luật. Mọi quy định về kinh
doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường

pháp lí tạo ra sân chơi để các doanh nghiệp cùng tham gia hoạt động kinh doanh, vừa
cạnh tranh vừa hợp tác lẫn nhau. Mọi định hướng, mục tiêu của doanh nghiệp khi đưa
ra đều dựa trên cơ sở các luật định của Nhà nước, các doanh nghiệp hoạt động dưới sự
định hướng của Nhà nước thông qua các luật định. Do vậy, hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp trong mỗi thời kì hoạt động nên dựa trên quy định của các văn bản pháp luật, tuỳ
theo định hướng phát triển kinh tế của đất nước để đề ra phương hướng cho đầu tư của
doanh nghiệp mình.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển nhanh chóng, nhu cầu đầu
tư xây dựng cơ bản là rất lớn, do vậy Nhà nước cũng có nhiều những chính sách, những
văn bản pháp luật tạo có tính chất thông thoáng hoặc ưu tiên cho các doanh nghiệp xây
dựng trong nước có nhiều điều kiện để phát triển. Đây chính là một thuận lợi rất lớn mà
môi trường pháp lí mang lại cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng như
công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà. Tuy nhiên, chính môi trường pháp lí đôi khi
vẫn còn có những hiện tượng quan liêu, chồng chéo lên nhau cộng với sự tha hoá của
một số cán bộ làm công tác quản lí Nhà nước đã trở thành rào cản rất lớn đối với quá
trình giải ngân vốn đầu tư hoặc giải phóng mặt bằng xây dựng làm cho các công ty xây
dựng nhiều khi bị ứ đọng vốn tại các công trình, tạo ra sự thất thoát lớn về vốn. Đây
chính là những điều kiện bất lợi mà môi trường pháp lí có thể gây ra cho các công ty
xây dựng, vấn đề này cần phải được giải quyết sớm thì mới tạo sức hút đầu tư đối với
các nhà đầu tư xây dựng và các công ty xây dựng nói riêng.
Môi trường kinh tế:
Các nhân tố kinh tế có vai trò quyết định trong việc hoàn thiện môi trường kinh doanhvà
ảnh hưởng tới hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế là một nhân
tố quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nói chung và
hoạt động đầu tư nói riêng. Môi trường kinh tế vừa tạo ra các cơ hội phát triển cho các
18/22
doanh nghiệp, vừa có thể là nhân tố đầu tiên và chủ yếu trong việc chấm dứt hoạt động
của doanh nghiệp nếu định hướng và hoạt động của doanh nghiệp không tuân theo quy
luật phát triển của nó. Đây chính là nhân tố tác động trực tiếp nhất đến định hướng kinh
doanh và phát triển của doanh nghiệp. Do đó, khi đưa ra một chiến lược đầu tư cho

doanh nghiệp mình, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đều phải phân tích kĩ càng các biến
động của môi trường kinh tế mà doanh nghiệp mình tham gia.
Môi trường khoa học công nghệ:
Sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ trên thế giới làm cho các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh ngày càng phải đầu tư thay đổi mới công nghệ mới. Sự thay đổi
nhanh chóng đó đã làm cho tuổi thọ của các thiết bị kĩ thuật ngày càng phải rút ngắn
do công nghệ kĩ thuật của chúng theo thời gian ngày càng không đáp ứng đáp ứng được
với đòi hỏi của thị trường và thời đại. Vì vậy trong định hướng đầu tư của doanh nghiệp
phải có sự suy xét chu đáo, lựa chọn các loại máy móc sao cho vừa phù hợp với trình độ
phát triển và yêu cầu của thời đại vừa phù hợp với kế hoạch phát triển và ngân sách đầu
tư có thể cho phép của doanh nghiệp.
Các nhân tố thuộc môi trường bên trong:
Lực lượng lao động bên trong công ty:
Do sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ và khoa học trên thế giới, nhân tố con người
ngày càng trở nên quan trọng, là nhân tố đảm bảo sự thành công của đơn vị. Các doanh
nghiệp muốn thành công thì cùng với sự đầu tư về máy móc thì doanh nghiệp cũng cần
phải đầu tư cho yếu tố con người. Trong bất cứ thời đại nào thì nhân tố con người cũng
luôn là nhân tố quan trọng nhất trong mỗi khâu sản xuất. Đặc biệt trong thời đại ngày
nay, khi công nghệ khoa học kĩ thuật ngày càng hiện đại thì việc nâng cao trình độ, kinh
nghiệm của đội ngũ nhân lực cho phù hợp với trang thiết bị hiện đại trong mỗi doanh
nghiệp càng trở lên quan trọng hơn hết. Do đó, trong chiến lược đầu tư của bất kì một
doanh nghiệp nào, nhân tố con người cũng phải được đưa lên hàng đầu. Cùng với các
biện pháp đào tạo lại, đào tạo nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên tại doanh
nghiệp thì doanh nghiệp cũng cần phải xây dựng các chính sách, đề ra các biện pháp thu
hút nhân tài cho sự phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần
có các chính sách đãi ngộ , thưởng phạt rõ ràng đối với người lao động để họ gắn bó và
đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Khách hàng :
Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế, tính cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp ngày càng khốc liệt xoay quanh việc giành khách hàng- nhân tố quyết định đến

doanh thu của bất kì một doanh nghiệp nào. Trong chính sách đầu tư của các doanh
nghiệp, đầu tư mở rộng thị trường, chế độ chính sách thu hút khách hàng đến với sản
19/22
phẩm của doanh nghiệp mình luôn được chú trọng đầu tư phát triển. Đối với bất kì các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, việc thu hút chăm sóc khách hàng đã trở thành
nhân tố quyết định sự sống còn của chính doanh nghiệp. Vì vậy, khách hàng chính là
một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến các kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp, là nhân tố
định hướng cho việc đầu tư của doanh nghiệp.
Cơ sở vật chất của doanh nghiệp:
Cơ sở vật chất của doanh nghiệp là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động của mỗi
doanh nghiệp, là nền tảng cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng
với thời gian và sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa học kĩ thuật hiện đại, cơ sở vật chất
của doanh nghiệp cũng ngày càng bị mài mòn, hỏng hóc hoặc không phù hợp để chế tạo
ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thời đại. Do đó, doanh nghiệp muốn mở rộng
sản xuất và hiện đại hoá sản phẩm của doanh nghiệp mình thì trong chiến lược đầu tư
phải chú trọng cả việc hiện đại hoá và mở rộng cơ sở vật chất kĩ thuật phù hợp với định
hướng sản xuất kinh doanh.
Các mục tiêu phát triển của doanh nghiệp:
Trong một môi trường kinh tế phát triển mạnh và luôn biến động như hiện nay, các
doanh nghiệp luôn luôn bị đe doạ bởi các nguy cơ tiềm ẩn từ môi trường kinh tế, doanh
nghiệp nào biết cách làm chủ những biến động đó thì sẽ hoạt động an toàn hơn và có
nhiều cơ hội tồn tại, phát triển hơn so với các doanh nghiệp khác. Việc xây dựng các kế
hoạch, mục tiêu phát triển của các doanh nghiệp chính là phương thức hữu hiệu để loại
bỏ bớt các yêú tố rủi ro do môi trường kinh tế đem lại. Vì vậy, bất kì doanh nghiệp nào
đi vào hoạt động đều có các mục tiêu, chiến lược và các định hướng phát triển, chúng là
nhân tố chủ quan chính ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, mục tiêu
và chiến lược của doanh nghiệp trong từng thời kì tác động đến việc đầu tư của doanh
nghiệp, hoạt động đầu tư phải dựa vào định hướng phát triển của doanh nghiệp. Đây
chính là cơ sở cho việc đầu tư của doanh nghiệp, các kế hoạch đầu tư được xây dựng
dựa trên mục tiêu phát triển, các kế hoạch đầu tư chính là việc hiện thực hoá dần các

mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp.
Đặc điểm về quản trị doanh nghiệp:
Đội ngũ các nhà quản trị mà đặc biệt là các nhà quản trị cấp cao lãnh đạo doanh nghiệp
có vai trò quan trọng đối với sự thành đạt của doanh nghiệp. Các nhà quản trị là người
hoạch định chính sách, chiến lược phát triển cho doanh nghiệp trong từng thời kì khác
nhau, do vậy phẩm chất và năng lực của các nhà quản trị có vai trò quan trọng ảnh hưởng
đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ
thuộc vào phần lớn đặc điểm quản trị doanh nghiệp của các nhà quản trị.
20/22
Tham gia đóng góp
Tài liệu: Đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Biên tập bởi: Hoàng Tuấn Khanh
URL: />Giấy phép: />Module: Đầu tư và phát triển
Các tác giả: Hoàng Tuấn Khanh
URL: />Giấy phép: />Module: Phân loại và tác động của các hoạt động đầu tư phát triển trong sản xuất kinh
doanh
Các tác giả: Hoàng Tuấn Khanh
URL: />Giấy phép: />Module: Vai trò của hoạt động đầu tư
Các tác giả: Hoàng Tuấn Khanh
URL: />Giấy phép: />Module: Vốn đầu tư và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư
Các tác giả: Hoàng Tuấn Khanh
URL: />Giấy phép: />Module: Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp
Các tác giả: Hoàng Tuấn Khanh
URL: />Giấy phép: />21/22
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources
– VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho
Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong
phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0
do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước

hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội.
Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành
một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi
ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học
tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn
tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu
khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của
độc giả.
Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các
tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như
đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring.
Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ
dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng
dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái
niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong
bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong
trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được
chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới.
22/22

×