Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Lý luận chung về công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.81 KB, 50 trang )

Lý luận chung về công tác thẩm định dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Lý luận chung về công tác thẩm định dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Các tác giả:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Phiên bản trực tuyến:
/>MỤC LỤC
1. Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
2. Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
3. Thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
4. Các bước thẩm định và cơ quan đơn vị thực hiện thẩm định dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài
5. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tham gia đóng góp
1/48
Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khái niệm và đặc điểm dự án đầu tư.
Đầu tư là một hoạt động bỏ vốn với hy vọng thu lợi trong tương lai. Tầm quan trọng của
hoạt động đầu tư, đặc điểm và sự phức tạp về mặt kỹ thuật, hậu quả và hiệu quả kinh tế
xã hội của hoạt động đầu tư đòi hỏi để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn
bị cẩn thận và nghiêm túc. Sự chuẩn bị này được thể hiện ở việc soạn thảo các dự án đầu
tư. Có nghĩa là mọi công cuộc đầu tư phải được thực hiện theo dự án thì mới đạt hiệu
quả mong muốn.
Dự án đầu tư là một tập hợp hoạt động kinh tế đặc thù nhằm tạo nên một mục tiêu cụ
thể một cách có phương pháp trên cơ sỏ những nguồn lực nhất định.
Một dự án đầu tư bao gồm 4 thành phần chính:


+ Mục tiêu của dự án được thể hiện ở hai mức:
• Mục tiêu phát triển là những lợi ích kinh tế xã hội do thực hiện dự án đem lại.
• Mục tiêu trước mắt là các mục đích cụ thể cần đạt được của việc thực hiện dự
án
+ Các kết quả: là những kết quả cụ thể, có định lượng, được tạo ra từ các hoạt động khác
nhau của dự án . Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện được các mục tiêu của dự án
+ Các hoạt động: là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án để tạo
ra các kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc hành động này cùng với một lịch biểu
và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự
án .
+ Các nguồn lực: về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành các hoạt động
của dự án . Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án
.
Trong 4 thành phần trên thì các kết quả được coi là cột mốc đánh dấu tiến độ của dự án .
Vì vậy, trong quá trình thực hiện dự án phải thường xuyên theo dõi các đánh giá kết quả
đạt được. Những hoạt động nào có liên quan trực tiếp tới việc tạo ra các kết quả được
coi là hoạt động chủ yếu phải được đặc biệt quan tâm.
2/48
Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài( FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào nước sở tại vốn hoặc
bất cứ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế bao gồm đầu
tư trực tiếp ( FDI ),đầu tư qua thị trường chứng khoán (porfolio), cho vay của các tổ
chức kinh tế và các ngân hàng nước ngoài (vay thương mại ), nguồn vốn viện trợ phát
triển chính thức ( ODA). Vay thương mại lãi suất cao nên dễ trở thành gánh nặng về nợ
nước ngoài trong tương lai. Viện trợ bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho vay dài hạn
với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ các nước tiên tiến. Viện trợ không
hoàn lại không trở thành nợ nước ngoài nhưng quy mô nhỏ và thường chỉ giới hạn trong
lĩnh vực văn hoá, giáo dục và cứu trợ. Đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng không

trở thành nợ nhưng sự thay đổi đột ngột trong hành động ( bán chứng khoán, rút tiền về
nước) của nhà đầu tư nước ngoài ảnh hưởng mạnh đến thị trường vốn, gây biến động tỷ
giá và các mặt khác của nền kinh tế vĩ mô. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) cũng là
hình thức đầu tư không trở thành nợ. Đây là nguồn vốn có tính chất “bén rễ” ở bản xứ
nên không dễ rút đi trong thời gian ngắn. Ngoài ra, đầu tư trực tiếp nước ngoài không
chỉ đầu tư vốn mà còn đầu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên dễ thúc đẩy sự phát
triển của các ngành công nghiệp hiện đại và phát triển kinh tế.
FDI có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư
, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi . Hình thức này mang
tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị , không để
lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
+ Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ
góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham
gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%, 51% cổ
phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó, Luật đầu tư nước ngoài của Việt
Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài và quy định bên
nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án .
+ Thông qua đầu tư nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật
tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Đây là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư
khác không giải quyết được.
3/48
+ Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới
hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của
doanh nghiệp để triển khai và mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận
thu được.
Do những đặc điểm và thế mạnh riêng có như ít phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị
giữa hai bên; bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất kinh doanh nên mức

độ khả thi của dự án khá cao, họ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh, lựa chọn công nghệ
thích hợp, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của công nhân do có quyền lợi gắn chặt
với dự án. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy
quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư . Cụ thể là:
+ Đối với các nước đầu tư , đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những
lợi thế sản xuất ở nơi tiếp nhận đầu tư , hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi
nhuận của vốn đầu tư và xây dựng, được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với
giá phải chăng. Mặt khác, đầu tư ra nước ngoài giúp bành trướng sức mạnh kinh tế và
nâng cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu
thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng
rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
+ Đối với các nước nhận đầu tư : hiện nay có hai dòng chảy của vốn đầu tư nước ngoài.
Đó là dòng chảy vào các nước phát triển và dòng chảy vào các nước đang phát triển.
• Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết
những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát… Qua FDI, các
tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những công ty, doanh nghiệp có nguy cơ bị
phá sản giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người
lao động.
FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình
hình bội chi ngân sách , tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và
thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm quản lý của các
nước khác.
• Đối với các nước đang phát triển, FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế
thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải
quyết một phần nạn thất nghiệp ở những nước này. Theo thống kê của Liên hợp
quốc, số người thất nghiệp và bán thất nghiệp của các nước đang phát triển
chiếm khoảng 35- 38% tổng số lao động.
FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo dài. Nhờ vậy, mâu
thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính khan hiếm được giải quyết, đặc
biệt là thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá_ thời kỳ mà thông thường đòi hỏi đầu

4/48
tư một tỷ lệ vốn lớn hơn các giai đoạn về sau và càng lớn hơn nhiều lần khả năng tự
cung ứng từ bên trong. FDI là phương thức đầu tư phù hợp với các nước đang phát triển,
tránh tình trạng tích luỹ quá căng thẳng dẫn đến những méo mó về kinh tế không đáng
xảy ra.
Theo sau FDI là máy móc, thiết bị và công nghệ mới giúp các nước đang phát triển tiếp
cận với khoa học kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm chi
phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc
tế.
Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế xã hội hiện đại được du nhập vào các
nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước bắt kịp phương thức quản lý công
nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc công nghiệp cũng
như hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi.
FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước ngoài và đi kèm
với nó là những hoạt động marketing được mở rộng không ngừng. Do các công ty tư
bản độc quyền quốc gia đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển mà các nước này
có thể bước vào thị trường xa lạ, thậm chí có thể xem như “ lãnh địa cấm kỵ ” đối với
họ trước kia.
FDI giúp tăng thu ngân sách nhà nước thông qua thu thuế các công ty nước ngoài. Từ
đó các nước đang phát triển có nhiều khả năng hơn trong việc huy động nguồn tài chính
cho các dự án phát triển.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư , bên cạnh ưu điểm thì FDI
cũng có những hạn chế nhất định. Đó là:
• Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn định về kinh tế và chính trị thì nhà đầu tư
nước ngoài dễ bị mất vốn.
• Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học dẫn tới sự
đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và
nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng sẽ xảy ra.
Các hình thức dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại dự án đầu tư theo quy định của luật đầu tư

nước ngoài về nội dung, hình thức đầu tư . Các hình thức đầu tư nước ngoài cơ bản là:
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh
+ Doanh nghiệp liên doanh
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
5/48
+ Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao ( BOT – BTO – BT )
Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa các bên hợp doanh quy định trách
nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở
Việt Nam mà không thành lập pháp nhân.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh có các đặc điểm sau:
• Về đối tượng áp dụng hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Việc chọn hình thức đầu tư do người đầu tư quyết định. Tuy vậy Nhà nước cũng có
những quy định để hướng dẫn người đầu tư . Tại Việt Nam, nhà nước quy định việc xây
dựng, kinh doanh mạng viễn thông quốc tế, viễn thông nội hạt chỉ thực hiện theo hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Một số lĩnh vực khác có thể áp dụng hình thức hợp
đồng hợp tác kinh doanh hoặc doanh nghiệp liên doanh như: khai thác chế biến dầu khí,
xây dựng kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất; xây dựng; vận tải; du lịch
lữ hành… và những lĩnh vực không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện theo quy định tại
Nghị định số 10/1998/NĐ-CP.
• Khi thực hiện hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, các bên tham gia không
thành lập pháp nhân chung mà mỗi bên giữ pháp nhân của mình và chịu trách
nhiệm về mọi hoạt động của mình trước pháp luật. Tuy vậy, Chính phủ cho
phép, trong quá trình kinh doanh, các bên hợp doanh được quyền thoả thuận lập
Ban điều phối để làm nhiệm vụ theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp
tác kinh doanh. Ban điều phối này không phải là đại diện pháp lý cho các bên
hợp doanh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của ban điều phối do các
bên hợp doanh thoả thuận.
• Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh thực hiện nghĩa vụ thuế,
các nghĩa vụ tài chính khác theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Còn bên

Việt Nam thì thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật áp dụng đối
với doanh nghiệp trong nước.
• Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không quy định cụ thể nội dung góp vốn
của từng bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh . Trong thực tế, các bên
thực hiện góp vốn với các nội dung tương tự như quy định đối với các bên tham
gia doanh nghiệp liên doanh, chỉ khác là không góp vốn pháp định.
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh
ký giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh . Trong trường hợp đặc
biệt, doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký kết giữa
Chính phủ nước sở tại với Chính phủ các nước khác.
6/48
Các doanh nghiệp liên doanh đã được phép hoạt động tại Việt Nam được phép thành lập
doanh nghiệp liên doanh mới với nhà đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp Việt Nam;
với cơ sở khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học đáp ứng các điều
kiện do Chính phủ quy định; với người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc với doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được thành lập tại Việt Nam.
Hình thức của doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập tại Việt Nam theo hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn, có nghĩa là mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi số vốn đã cam kết góp
vào doanh nghiệp .
Khác với công ty trách nhiệm hữu hạn trong nước, các bên liên doanh không nhất thiết
phải góp đủ vốn pháp định ngay khi thành lập công ty. Việc góp vốn có thể được thoả
thuận góp nhiều lần phù hợp với tiến độ thực hiện dự án .
Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh:
Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh là mức vốn bắt buộc phải có để thành lập
doanh nghiệp, được ghi vào điều lệ của doanh nghiệp. Theo Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam, vốn pháp định doanh nghiệp liên doanh phải ít nhất bằng 30% vốn đầu tư
của doanh nghiệp. Trong trường hợp đặc biệt, tỷ lệ này có thể thấp hơn 30% nhưng phải

được cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài chấp thuận. Thông thường, đó là
trường hợp của các doanh nghiệp liên doanh về xây dựng kết cấu hạ tầng tại các vùng
có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, các doanh nghiệp liên doanh ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, các doanh nghiệp liên doanh trồng rừng. Đối với các doanh nghiệp liên doanh
nói trên, vốn pháp định có thể thấp đến 20% vốn đầu tư .
Trong những khoản vốn góp của bên Việt Nam, nhà đầu tư thường quan tâm khoản góp
bằng giá trị quyền sử dụng đất.
Giá trị quyền sử dụng đất góp vốn liên doanh được xác định bằng tiền thuê đất tương
ứng với thời hạn liên doanh. Trong thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng đất với thời hạn ít hơn thời hạn hoạt động của liên doanh.
Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của mình, mỗi quốc gia có thể quy định giới hạn phần
góp vốn của bên nước ngoài trong doanh nghiệp liên doanh (thường không quá 49%).
Với nước ta, nhằm thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài, trong Luật đầu tư nước ngoài
quy định phần góp vốn của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp định
của doanh nghiệp liên doanh không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả thuận của
các bên nhưng không dưới 30% vốn pháp định trừ những trường hợp do Chính phủ quy
định. Trong một số trường hợp, căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, công nghệ, thị trường,
hiệu quả kinh doanh và các lợi ích kinh tế xã hội khác của dự án, cơ quan cấp giấy phép
7/48
đầu tư có thể xem xét cho phép bên nước ngoài tham gia liên doanh có tỷ lệ góp vốn
pháp định thấp đến 20%.
Luật đầu tư nước ngoài không quy định mức tối thiểu bên Việt Nam phải góp vốn,
nhưng trên thực tế bên Việt Nam thường góp 30-40% vốn pháp định. Đối với doanh
nghiệp liên doanh nhiều bên, Chính phủ sẽ quy định tỷ lệ góp vốn tối thiểu của mỗi bên
Việt Nam. Đối với những dự án quan trọng do Chính phủ quy định, khi ký kết hợp đồng
liên doanh, các bên liên doanh thoả thuận về thời điểm, phương thức và tỷ lệ tăng vốn
góp của bên Việt Nam trong vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh.
Vốn pháp định có thể được các bên góp trọn một lần khi thành lập doanh nghiệp liên
doanh hoặc có thể góp từng phần trong một thời gian hợp lý. Các bên thoả thuận phương
thức, tiến độ góp vốn pháp định và ghi vào hợp đồng liên doanh phù hợp với giải trình

kinh tế- kỹ thuật của hồ sơ dự án .
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp liên doanh không được giảm vốn pháp định
nhưng có thể được tăng thêm. Việc tăng vốn pháp định, thay đổi tỷ lệ góp vốn của các
bên liên doanh sẽ do Hội đồng quản trị quyết định và phải được cơ quan cấp giấy phép
đầu tư chuẩn y.
Cơ quan lãnh đạo và điều hành doanh nghiệp liên doanh:
1. Hội đồng quản trị:
Cơ quan lãnh đạo của doanh nghiệp liên doanh là Hội đồng quản trị gồm đại diện của
các bên tham gia liên doanh. Các bên tham gia liên doanh chỉ định người của mình tham
gia Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần góp và vốn pháp định của doanh
nghiệp liên doanh.
• Chủ tịch Hội đồng quản trị:
Chủ tịch Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh do các bên liên doanh thoả
thuận cử ra. Nhiệm vụ, quyền hạn của chủ tịch Hội đồng quản trị được ghi trong điều
lệ doanh nghiệp bao gồm các nội dung cơ bản là: trách nhiệm triệu tập, chủ trì các cuộc
họp của Hội đồng quản trị và giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản
trị. Chủ tịch Hội đồng quản trị không trực tiếp ra lệnh cho Tổng giám đốc và Phó tổng
giám đốc của doanh nghiệp liên doanh .
• Nguyên tắc làm việc của Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh thực hiện chức năng quản trị doanh nghiệp
thông qua cơ chế ra quyết định, đôn đốc, giám sát việc thực hiện các nghị quyết
đó.Những vấn đề quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên
8/48
doanh phải do Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí giữa các thành viên
Hội đồng quản trị có mặt tại cuộc họp. Những vấn đề quan trọng đó là:
. Bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc, phó Tổng giám đốc thứ nhất, kế toán trưởng.
. Sửa đổi, bổ sung điều lệ doanh nghiệp liên doanh .
. Duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình xây dựng cơ bản.
. Vay vốn đầu tư .
Các bên tham gia liên doanh có thể thoả thuận trong điều lệ doanh nghiệp các vấn đề

khác cần được quyết định theo nguyên tắc nhất trí.
Đối với những vấn đề khác, Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc biểu quyết
quá bán số thành viên Hội đồng quản trị có mặt tại cuộc họp.
b. Tổng giám đốc và các phó Tổng giám đốc.
Tổng giám đốc và các phó Tổng giám đốc doanh nghiệp liên doanh có nhiệm vụ quản
lý và điều hành công việc hàng ngày của doanh nghiệp.
+ Tổng giám đốc là người đại diện cho doanh nghiệp trước toà án và cơ quan nhà nước.
+ Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về hoạt động của doanh
nghiệp liên doanh
Vấn đề thuê tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, tính chất của dự án , Hội đồng quản trị của doanh
nghiệp liên doanh được thuê tổ chức quản lý để điều hành hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài muốn thuê tổ chức quản lý phải có các điều
kiện theo quy định.
Doanh nghiệp100% vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu
tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có hình thức và nội dung tương tự doanh nghiệp
liên doanh. Cụ thể:
9/48
• Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thành lập theo hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
• Vốn pháp định của doanh nghiệp100% vốn đầu tư nước ngoài ít nhất phải bằng
30% vốn đầu tư . Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng tại các
vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, dự án đầu tư vào miền núi, vùng
sâu, vùng xa, trồng rừng, tỷ lệ này có thể thấp đến 20%.
• Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không
được giảm vốn pháp định.

• Hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài cũng tương tự như doanh nghiệp liên doanh , chỉ khác ở chỗ là không có
hợp đồng liên doanh.
Điều lệ của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài phải bảo đảm các nội dung theo
quy định như sau:
• Quốc tịch, địa chỉ, đại diện có thẩm quyền của nhà đầu tư nước ngoài;
• Tên, địa chỉ của doanh nghiệp;
• Mục tiêu và phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp;
• Vốn đầu tư , vốn pháp định , phương thức, tiến độ góp vốn và tiến độ xây dựng;
• Các nguyên tắc tài chính;
• Thời hạn hoạt động, kết thúc, giải thể doanh nghiệp;
• Quan hệ lao động trong doanh nghiệp, kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý, kỹ
thuật, nghiệp vụ và công nhân;
• Thủ tục sửa đổi điều lệ doanh nghiệp;
• Đại diện cho doanh nghiệp trước toà án, trọng tài và cơ quan nhà nước Việt
Nam.
Theo quy định hiện nay, người đại diện cho doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
là Tổng giám đốc doanh nghiệp. Trường hợp Tổng giám đốc không thường trú tại Việt
Nam thì phải uỷ quyền cho người đại diện của mình và người đại diện đó phải là người
thường trú tại Việt Nam.
Hình thức hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao.
Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao ( viết tắt theo tiéng Anh là BOT) là một
thuật ngữ để chỉ một mô hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện xây
dựng cơ sở hạ tầng vẫn được dành riêng cho khu vực nhà nước. “ Tài trợ dự án ” là điểm
mấu chốt của phương thức đầu tư BOT, nghĩa là các bên cho vay xem xét tới tài sản và
nguồn thu của dự án để hoàn trả lại vốn vay thay vì các nguồn bảo lãnh khác như bảo
lãnh của Chính phủ hay tài sản của các nhà tài trợ dự án .
BOT là một hình thức đầu tư còn mới ở Việt Nam nhưng nó đã được triển khai thành
công ở nhiều nước trên thế giới nhất là các nước đang phát triển (như Trung Quốc,
10/48

Philippin) thiếu vốn để phát triển cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Ngày 23/12/1992 Quốc
hội CHXHCN Việt Nam đã bổ sung hình thức đầu tư BOT vào Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 87CP ngày 23/11/1993 và
Nghị định 62/1998/NĐ-CP về quy chế đầu tư theo hợp đồng BOT cho đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam.
Theo loại hình đầu tư này có 3 hình thức đầu tư :
• Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT) ;
• Hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinh doanh ( BTO);
• Hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT);
Hợp đồng BOT là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước chủ nhà có thẩm quyền và nhà
đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng( kể cả mở rộng, nâng cấp,
hiện đại hoá công trình) và kinh doanh trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu
tư và có lợi nhuận hợp lý, hết thời hạn kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao
không bồi hoàn công trình đó cho nước chủ nhà.
Hợp đồng BTO có nội dung khác với BOT là: sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao ngay công trình đó cho nước chủ nhà, Chính phủ nước chủ nhà sẽ
dành cho nhà đầu tư nước ngoài quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất
định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng BT có đặc điểm là sau khi xây dựng xong công trình, nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà và Chính phủ nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện
cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận
hợp lý.
Tại Việt Nam, cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền ký các hợp đồng BOT,BTO,
BT là: các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương được Thủ tướng Chính phủ chỉ định.
Chính phủ Việt Nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư theo hợp
đồng BOT, BTO, BT trong các lĩnh vực sau đây: giao thông, sản xuất và kinh doanh
điện, cấp thoát nước, xử lý chất thải và các lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ quyết
định.
Để thực hiện hợp đồng BOT,BTO, BT chủ đầu tư được thành lập doanh nghiệp

BOT,BTO,BT ( gọi chung là doanh nghiệp BOT) . Doanh nghiệp BOT có thể là doanh
nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo
quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Hình thức tài trợ BOT cho các dự án cơ sở hạ tầng có rất nhiều lợi thế tiềm năng. Đây là
một phương pháp lựa chọn có tính sống còn đối với hầu hết các quốc gia so với phương
11/48
pháp truyền thống có sử dụng vốn vay của Chính phủ hoặc các nguồn từ ngân sách.
Không giống như phương pháp tư nhân hoá hoàn toàn, ở đây Chính phủ vẫn duy trì
quyền kiểm soát có tính chiến lược đối với dự án. Dự án sẽ được chuyển giao cho Chính
phủ nước chủ nhà khi kết thúc thời kỳ đặc quyền. Hình thức này có các lợi thế tiềm năng
sau đây:
• Sử dụng nguồn tài trợ của khu vực tư nhân để cung cấp các nguồn vốn mới
nhằm giảm các khoản vay nhà nước và khoản chi trực tiếp, nhằm củng cố mức
độ tin cậy trong thanh toán của Chính phủ nước chủ nhà.
• Có khả năng tăng tốc độ phát triển các dự án mà nếu không sẽ phải chờ đợi và
cạnh tranh để có các nguồn lực hiếm của Chính phủ.
• Sử dụng vốn, sáng kiến và bí quyết công nghệ của khu vực tư nhân để làm
giảm chi phí xây dựng dự án, rút ngắn thời gian và nâng cao hiệu quả hoạt
động.
• Phân bổ rủi ro của dự án và các gánh nặng mà nếu không sẽ phải do khu vực
nhà nước gánh chịu. Khu vực tư nhân chịu trách nhiệm vận hành, bảo dưỡng và
đối với đầu ra của dự án trong một giai đoạn được mở rộng (thông thường,
Chính phủ sẽ chỉ nhận được bảo đảm cho giai đoạn xây dựng thông thường và
bảo hành thiết bị).
• Sự tham gia của các nhà tài trợ tư nhân và các bên cho vay thương mại có kinh
nghiệm để bảo đảm có được sự đánh giá sâu sắc và là một dấu hiệu thêm đối
với tính khả thi của dự án .
• Chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân sự của địa phương và phát triển thị
trường vốn quốc gia.
• Trái với việc tư nhân hoá hoàn toàn, Chính phủ vẫn nắm quyền kiểm soát có

tính chiến lược đối với dự án mà sẽ được chuyển giao cho khu vực nhà nước
vào cuối giai đoạn đặc quyền.
• Có cơ hội để tạo ra được một phương pháp chuẩn của khu vực tư nhân để qua
phương pháp chuẩn này có thể tính toán được hiệu quả của các dự án tương tự
thuộc khu vực nhà nước và các cơ hội tăng cường công tác quản lý nhà nước
đối với các công trình cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên phương thức BOT không phải là một phương pháp chữa bách bệnh cho một
chính phủ. Các dự án BOT là vô cùng phức tạp cả về phương diện pháp lý và tài chính.
Các dự án này cần phải có thời gian để phát triển và đàm phán. Các dự án này cần có sự
tham gia và hỗ trợ của nước chủ nhà, cần một môi trường pháp lý và kinh tế phù hợp,
sự ổn định về chính trị, đồng tiền có thể chuyển đổi tự do cũng như các yếu tố khác phù
hợp với đầu tư nước ngoài nói chung.
Một thách thức chủ yếu đối với các nước đang phát triển là việc xác định các nhân tố
làm cho các dự án của khu vực tư nhân có thể tài trợ được. Bởi vì phương thức đầu tư
BOT đòi hỏi phải có hình thức tài trợ dự án cơ sở hạ tầng do khu vực tư nhân đảm nhận
nên thường có một khái niệm sai lạc chung là bản chất “công” của dự án loại này hầu
12/48
như bị bỏ qua và chính phủ nước chủ nhà thường giả định rằng họ có sự tham gia tối
thiểu vào các dự án BOT.
Tại Việt Nam, hình thức đầu tư này đã được Chính phủ quan tâm và rất khuyến khích
phát triển thông qua một loạt các ưu đãi và đảm bảo đầu tư cụ thể:
+ Các ưu đãi về thuế:
• Thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng thuế suất 10% lợi nhuận thu được
và được thực hiện suốt thời gian thực hiện dự án .
Ngoài ra, doanh nghiệp BOT đựoc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm kể từ
khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo. Trường hợp đầu tư vào địa
bàn khuyến khích đầu tư được miễn thuế trong 8 năm kể từ khi kinh doanh có lãi.
• Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đuợc áp dụng thuế suất 5% lợi nhuận
chuyển ra nước ngoài.
• Doanh nghiệp BOT và nhà thầu phụ được miễn thuế nhập khẩu để thực hiẹn dự

án BOT, BTO, BT đối với:
• Thiết bị, máy móc nhập khẩu để tạo tài sản cố định ( kể cả thiết bị, máy móc,
phụ tùng sử dụng cho khảo sát, thiết kế, thi công, xây dựng công trình).
• Phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây truyền công nghệ để tạo tài sản
cố định và để đưa rước công nhân.
• Linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm
thiết bị, phương tiện vận chuyển.
• Nhiên liệu, nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để thực hiện dự án BOT,BTO,BT kể
cả để phục vụ sản xuất, vận hành công trình.
• Các đối tượng sở hữu công nghiệp đang trong thời hạn bảo hộ, bí quyết kỹ
thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật để thực hiện dự án được miễn các
loại thuế có liên quan đến chuyển giao công nghệ.
+ Biện pháp bảo đảm đầu tư
- Việc chuyển nhượng vốn trong doanh nghiệp BOT được thực hiện như quy định đối
với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
• Ngân hàng Nhà nước bảo đảm cho doanh nghiệp BOT được chuyển đổi tiền
Việt Nam thu được do thực hiện dự án BOT,BTO,BT và dự án khác ra tiền
nước ngoài để đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh, trả nợ vốn và lãi các
khoản vay, chuyển lợi nhuận và vốn ra nước ngoài.
• Trong qúa trình thực hiện dự án , doanh nghiệp BOT được cầm cố, thế chấp các
tài sản sau đây:
• Thiết bị, nhà xưởng, công trình kiến trúc và bất động sản được mua sắm, xây
dựng bằng vốn đầu tư của mình.
13/48
• Các tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp BOT
• Giá trị quyền sử dụng đất
• Các quyền tài sản của doanh nghiệp.
• Chính phủ Việt Nam bảo đảm cho doanh nghiệp BOT được sử dụng đất đai,
đường giao thông và các công trình phụ trợ công cộng khác để thực hiện dự án
BOT,BTO,BT.

• Doanh nghiệp BOT được miễn tiền thuê đất trong thời gian thực hiện dự án .
• Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có dự án đầu tư có trách nhiệm tổ chức việc đền
bù, giải phóng mặt bằng, hoàn thành thủ tục giao đất cho doanh nghiệp BOT.
Chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng do nhầ đầu tư nước ngoài trả và được tính
vào tổng vốn đầu tư .
Phương thức thực hiện dự án BOT,BTO,BT.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục dự án đầu tư theo hợp đồng
BOT,BTO,BT.
• Trên cơ sở danh mục được duyệt, hoặc dự án ngoài danh mục được Thủ tướng
Chính phủ chấp thuận, cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập báo cáo nghiên
cứu khả thi. Đối với dự án ngoài danh mục được duyệt, nhà đầu tư nước ngoài
lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi.
• Việc chọn nhà đầu tư nước ngoài ký hợp đồng BOT,BTO,BT được thực hiện
theo hình thức đấu thầu.
• Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chủ trì đàm phán, ký kết hợp đồng
BOT,BTO,BT với nhà đầu tư nước ngoài đã được chọn.
• Dự thảo hợp đồng BOT,BTO,BT sau khi được các bên ký tắt sẽ nộp cho Bộ kế
hoạch và đầu tư cùng các tài liệu khác có liên quan đến việc xin cấp giấy phép
đầu tư . Bộ kế hoạch và đầu tư tổ chức thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ
xem xét quyết định.
• Sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hợp đồng BOT,BTO,BT sẽ
được ký kết chính thức.
• Hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư gồm có:
. Đơn xin đầu tư .
. Hợp đồng BOT,BTO,BT đã được ký tắt
. Hợp đồng liên doanh ( nếu xin lập doanh nghiệp BOT liên doanh)
. Điều lệ doanh nghiệp BOT
. Báo cáo nghiên cứu khả thi
14/48

. Văn bản xác nhận tư cách pháp lý và tình hình tài chính của nhà đầu tư
• Bộ kế hoạch và đầu tư cấp giấy phép đầu tư cho dự án BOT,BTO,BT trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án .
Ngoài những nội dung cơ bản theo quy định, giấy phép đầu tư sẽ ghi thêm một số nội
dung sau đây:
• Yêu cầu về thiết kế kỹ thuật, tình trạng và điều kiện bảo đảm vận hành bình
thường của công trình khi được bàn giao cho nhà nước Việt Nam.
• Quyền và điều kiện kinh doanh công trình đối với dự án BOT,BTO, việc kinh
doanh các dự án khác do thực hiện dự án BT
• Các nguyên tắc xác định giá trị tài sản khi chuyển giao
Các cam kết của Chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên quan
15/48
Công tác thẩm định dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Tổng quan về thẩm định dự án
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có khoa học và
toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án, từ đó
ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư .Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá các nội
dung của dự án một cách độc lập tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Thẩm định dự
án tạo ra cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận rút ra từ quá
trình thẩm định là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu
tư và cho phép đầu tư .
Thẩm định dự án đầu tư là cần thiết bắt nguồn từ vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối
với các hoạt động đầu tư . Nhà nước với chức năng công quyền của mình sẽ can thiệp
vào quá trình lựa chọn các dự án đầu tư .
Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp
vào lợi ích chung của đất nước. Bởi vậy trước khi ra quyết định đầu tư hay cho phép
đầu tư, các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cần biết xem dự án đó có góp phần đạt
được mục tiêu của quốc gia hay không, nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ nào.
Việc xem xét này gọi là thẩm định dự án .

Một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng vẫn mang tính chủ
quan của người soạn thảo. Vì vậy để đảm bảo tính khách quan của dự án , cần thiết phải
thẩm định. Các nhà thẩm định thường có cách nhìn rộng trong việc đánh giá dự án. Họ
xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội, toàn cộng đồng để xem xét các lợi ích kinh
tế- xã hội mà dự án đem lại. Mặt khác, khi soạn thảo dự án có thể có những sai sót, các
ý kiến có thể mâu thuẫn, không logic, thậm chí có thể có những sơ hở gây ra tranh chấp
giữa các đối tác tham gia đầu tư. Thẩm định dự án là cần thiết. Nó là một bộ phận của
công tác quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động đầu tư có hiệu quả.
Thẩm định dự án nhằm các mục đích sau đây:
• Đánh giá tính hợp lý của dự án : tính hợp lý được biểu hiện một cách tổng hợp (
biểu hiện trong tính hiệu quả và tính khả thi) và được biểu hiện ở từng nội dung
và cách thức tính toán của dự án.
• Đánh giá tính hiệu quả của dự án: hiệu quả của dự án được xem xét trên hai
phương diện: hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án.
16/48
• Đánh giá tính khả thi của dự án: đây là mục đích hết sức quan trọng trong thẩm
định dự án. Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có tính khả thi. Tất nhiên
hợp lý và hiệu quả là hai điều kiện quan trọng để dự án có tính khả thi. Nhưng
tính khả thi còn phải xem xét với nội dung và phạm vi rộng hơn của dự án ( các
kế hoạch tổ chức thực hiện, môi trường pháp lý của dự án ).
Ba mục đích trên đồng thời cũng là những yêu cầu chung đối với mọi dự án đầu tư. Tuy
nhiên, mục đích cuối cùng của việc thẩm định dự án còn tuỳ thuộc vào chủ thể thẩm
định dự án.
-Các chủ đầu tư trong và ngoài nước thẩm định dự án khả thi để đưa ra quyết định đầu

-Các định chế tài chính (ngân hàng, tổng cục đầu tư và phát triển…) thẩm định dự án
khả thi để tài trợ hoặc cho vay vốn.
-Các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước thẩm định dự án khả thi để ra quyết định cho
phép đầu tư hay cấp giấy phép đầu tư .
Thẩm định dự án có ý nghĩa rất lớn, giúp bảo vệ các dự án lớn tốt khỏi bị bác bỏ, ngăn

chặn những dự án tồi, góp phần đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Cụ
thể:
-Thẩm định dự án giúp cho chủ đầu tư lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất.
-Giúp cho các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước đánh giá được tính phù hợp của dự
án với quy hoạch phát triển chung của ngành, vùng, lãnh thổ và của cả nước trên các
mặt mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả.
-Giúp cho việc xác định được những cái lợi, cái hại của dự án trên các mặt khi đi vào
hoạt động, từ đó có biện pháp khai thác các khía cạnh có lợi và hạn chế các mặt có hại.
-Giúp các nhà tài chính ra quyết định chính xác về cho vay hoặc tài trợ cho dự án đầu
tư.
Giúp cho việc xác định rõ tư cách pháp nhân của các bên tham gia đầu tư
17/48
Thẩm định dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Thẩm định tài chính dự án :
Thẩm định tài chính dự án nhằm mục đích:
• Xem xét nhu cầu, sự đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực hiện có
hiệu quả các dự án đầu tư.
• Xem xét tình hình, kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án trên góc độ hạch
toán kinh tế của đơn vị thực hiện dự án .Có nghĩa là xem xét những chi phí sẽ
và phải thực hiện kể từ khi soạn thảo cho đến khi kết thúc dự án, xem xét
những lợi ích mà đơn vị thực hiện dự án sẽ hoặc phải đạt được nhờ thực hiện
dự án. Trên cơ sở đó đánh giá được hiệu quả về mặt tài chính để quyết định có
nên đầu tư hay không. Nhà nước cũng căn cứ vào đây để xem xét dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài có lợi ích tài chính hay không và dự án có an toàn về mặt
tài chính hay không.
Hiện tại hóa các giá trị theo thời gian :
Phân tích đánh giá tài chính của dự án có liên quan mật thiết với một vấn đề là hiện tại
hóa các giá trị theo thời gian, vì vậy trước khi nói tới các tiêu chuẩn đánh giá dự án,
chúng ta hãy xem xét vấn đề này.

Một trong các đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư là các lợi ích và chi phí phát sinh
ở các giai đoạn khác nhau. Nhưng giá trị đồng tiền ở các thời điểm khác nhau không
như nhau, vì vậy cần đến một phương pháp quy đổi các giá trị đồng tiền ở các thời điểm
khác nhau về cùng một thời điểm để xem xét và đánh giá. Điều đó chẳng những cho
phép xem xét đánh giá dự án mà tạo điều kiện để so sánh lựa chọn các dự án. Kỹ thuật
chuyển đổi giá trị tiền tệ tại các thời điểm khác nhau về thời điểm hiện tại gọi là hiện tại
hoá.
Về nguyên tắc có thể quy đổi giá trị tiền tệ tại một thời điểm về bất kỳ một thời điểm
nào. Phương pháp quy đổi như sau:
Giá trị tương lai (V
t
) của một lượng tiền hiện tại (V
0
) được xác định như sau:
V
t
= V
0
(1+r)
t
(1)
Giá trị hiện tại (V
0
) của một lượng tiền tương lai (V
t
) được xác định theo công thức sau:
18/48
cho dự án trong một đơn vị thời gian.Nếu tỷ lệ chiết khấu không thay đổi trong suốt thời
gian tồn tại dự án thì có thể xác định giá trị hiện tại của một dãy các giá trị tương lai
theo công thức:

PV = ∑
t = 0
n
Vt
(
1 + r
)
t
(3)
Hay xác định giá trị hiện tại của một dãy các giá trị quá khứ:
PV = ∑
t = 0
m
v
t
(
1+r
)
t
(4)
Trong đó: n, m - là thứ tự thời gian tính từ thời điểm hiện tại hóa (0), nghĩa là: n = 1,2,
3 ; m = -1, -2, -3
Trong trường hợp tỷ lệ chiết khấu thay đổi theo thời gian thì công thức thứ (3) có dạng
sau:
PV = ∑
t = 0
n
V
t


t = 0
n
(
1 + r
t
)
(5)
và công thức (4) có dạng sau:
PV
= ∑
t = 0
n

t = 0
m
(
1+r
t
)
(6)
Trong đó: rt- là tỷ lệ chiết khấu của năm t.
Đối với đầu tư trong khu vực tư nhân, tỷ lệ chiết khấu áp dụng để xác định giá trị hiện
tại có thể lấy bằng lãi suất bình quân của các nguồn vốn sử dụng cho dự án.
Đối với đầu tư công cộng, tỷ lệ chiết khấu phải phản ánh được khả năng sinh lợi của
các nguồn vốn công. Cần chú ý rằng, tỷ lệ chiết khấu áp dụng trong phân tích tài chính
không thể áp dụng trong phân tích kinh tế. Tỷ lệ chiết khấu dùng trong phân tích kinh
tế dự án cần phản ánh lợi ích kinh tế mà nền kinh tế phải từ bỏ (do phải đình hoãn hoặc
giảm đầu tư và tiêu dùng) để đưa các nguồn lực vào đầu tư cho dự án.
Các chỉ tiêu đánh giá tài chính dự án đầu tư:
Cho đến nay người ta đã đưa ra khá nhiều các tiêu chuẩn đánh giá đầu tư, song có 4 tiêu

chuẩn phổ biến và cơ bản nhất, đó là:
- Giá trị hiện tại ròng (Net Present Value - NPV)
- Tỷ số lợi ích - chi phí (Benefit/cost - R=B/C)
19/48
- Tỷ lệ nội hoàn (Internal Rate of Return - IRR)
- Thời gian hoàn vốn (Pay Back period - T
th
)
Ngoài ra còn có một số các chỉ tiêu bổ sung khác như : Mức độ đảm bảo trả nợ; điểm
hoà vốn và các chỉ số tài chính khác. Dưới đây sẽ trình bày phương pháp tính toán và
phân tích đánh giá theo từng chỉ tiêu.
+ Giá trị hiện tại ròng (NPV).
Thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi các chi phí gọi là thu nhập ròng (thuần). Giá trị hiện
tại của thu nhập ròng gọi là (NPV).
Mục đích của việc tính hiện giá thu nhập ròng của một dự án là để xác định xem việc sử
dụng các nguồn lực (vốn) theo dự án đó có mang lại lợi ích lớn hơn các nguồn lực đã sử
dụng không? Với ý nghĩa này NPV được xem là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá
dự án. NPV được xác định theo công thức sau:
NPV = ∑
t = 0
n
(
B
t
− C
t
)
(1 + r)
t
(7)

Trong đó: B
t
- Thu nhập của dự án năm t
C
t
- Chi phí của dự án năm t
n - Thời đoạn phân tích dự án
r – Tỷ lệ chiết khấu áp dụng cho dự án
Đánh giá dự án theo tiêu chuẩn này tuân thủ một số nguyên tắc sau:
- Chỉ chấp nhận các dự án có NPV > 0 với tỷ lệ chiết khấu bằng chi phí cơ hội của vốn:
- Trong giới hạn của ngân sách, trong số các dự án có thể chấp nhận được cần chọn
những dự án cho tổng NPV max.
Với nguyên tắc này cũng có thể suy ra, cùng một khả năng về ngân sách (cho một dự
án) phương án được chọn sẽ là phương án có NPV max.
- Nếu các dự án loại trừ lẫn nhau (thực hiện dự án này sẽ không thực hiện các dự án
khác) thì cần phải chọn dự án có NPV max.
+ Tỷ số lợi ích - chi phí (R)
20/48
Tỷ số lợi ích - chi phí được tính bằng tỉ số giá trị hiện tại thu nhập và giá trị hiện tại của
các chi phí của dự án với tỷ lệ chiết khấu bằng chi phí cơ hội của vốn. Tỷ số R được tính
theo công thức sau:
R =

t=0
n
B
t
(
1 + r
)

t

t=0
n
C
t
(
1 + r
)
t
(8)
Trong đó: Bt - thu nhập của dự án năm t; Ct - Chi phí cho dự án năm t; các ký hiệu khác
như trên.
Chỉ tiêu này thường sử dụng để xếp hạng các dự án: Các dự án có R lớn nhất sẽ được
chọn.
Tuy nhiên, sử dụng tiêu chuẩn này sẽ dẫn tới sai lầm nếu như các dự án có quy mô khác
nhau.
+ Tỷ lệ nội hoàn (IRR)
Tỷ lệ nội hoàn (IRR) là tỷ lệ chiết khấu mà với tỷ lệ này giá trị hiện tại ròng của dự án
bằng 0, đựơc tính từ hệ thức sau:
NPV = ∑
t = 0
n
(
B
t
− C
t
)
(1 + IRR)

t
= 0
(9)
Trong đó : Các ký hiệu như các công thức trên; IRR được coi như ẩn số phải tìm.IRR
phản ánh mức sinh lãi của dự án sau khi đã hoàn vốn.
Sử dụng tiêu chuẩn IRR có ưu điểm là có được tính toán chỉ dựa vào các số liệu của dự
án mà không cần số liệu về chi phi cơ hội của vốn (tỷ lệ chiết khấu) . Tuy nhiên, tiêu
chuẩn này có một số nhược điểm sau:
a) Không xác định đựơc 1 tỷ lệ nội hoàn trong trường hợp biến dạng của đồng tiền thay
đổi nhiều lần từ (-) sang (+) hoặc từ (+) sang (-) vì có rất nhiều lời giải khi tính toán
IRR.
b) Sử dụng tiêu chuẩn IRR để lựa chọn dự án sẽ dẫn tới sai lầm khi các dự án là những
giải pháp thay thế nhưng có những điều kiện khác nhau:
. Đối với dự án thay thế nhau nhưng có quy mô khác nhau:
. Đối với dự án thay thế lẫn nhau nhưng thời gian tồn tại khác nhau.
21/48
. Các dự án thay thế lẫn nhau nhưng đầu tư vào thời điểm khác nhau.
Tính toán xác định IRR theo công thức (9) tương đối phức tạp trong điều kiện không sử
dụng máy vi tính. Để đơn giản, có thể xác định IRR theo phương pháp gần đúng sau:
IRR = r
1
+
NPV
1
(
r
2
− r
1
)

(
NPV
1
− NPV
2
)
+ Thời gian hoàn vốn - T
th
:
Thời gian hoàn vốn là chỉ tiêu sử dụng khá rộng rãi trong quyết định đầu tư, đặc biệt là
các dự án đầu tư kinh doanh.
Thời gian hoàn vốn ( T
th
) được xác định từ biểu thức sau:
NPV = ∑
t = 0
T
th
(
B
t
− C
t
)
(1 + r)
t
= 0
(10)
Thời gian thu hồi vốn T
th

là khoảng thời gian từ khi bắt đầu thực hiện đầu tư đến năm T
thỏa mãn biểu thức trên.
Nhược điểm cơ bản của chỉ tiêu này là trong một số trường hợp nó loại bỏ các dự án có
khả năng sinh lợi muộn như là các dự án đầu tư công cộng (cầu, đường, ).
Vấn đề lạm phát trong phân tích đánh giá dự án
Trên thực tế việc lập và đánh giá dự án thường tính theo mặt bằng giá cả của một năm
nào đó. Thực ra giả thiết này đã làm sai lệch một cách đáng kể tình trạng thực của dự án
và không ít trường hợp dẫn tới những sai lầm khi xem xét, đánh giá dự án.
Cần phải chú ý rằng, lạm phát là vấn đề có tính chất vĩ mô do nhiều nguyên nhân khác
nhau, vì vậy phân tích dự án coi lạm phát như một yếu tố khách quan, bản thân các dự
án không thể khắc phục được. Vấn đề đặt ra là phải loại trừ ảnh hưởng của yếu tố này
như thế nào khi phân tích, đánh giá dự án.
Tác động của lạm phát đến dự án:
* Tác động trực tiếp:
+ Đối với chi phí đầu tư: Đối với các dự án thực hiện đầu tư trong một thời gian dài cần
phải xác định nhu cầu tiền tệ trong tương lai cần cho việc thực hiện dự án. Lượng tiền
22/48
này tùy thuộc vào mức độ lạm phát, nếu mức lạm phát càng cao thì nhu cầu tiền để thực
hiện công việc trong tương lai càng cao so với lượng tính theo giá hiện thời.
Việc tăng lượng tiền do lạm phát khác với việc ước tính chi phí quá cao, nó là hiện
tượng bình thường, nhưng phải được tính tới khi xác định chi phí đầu tư và thanh toán
các khoản nợ để đảm bảo nguồn tài chính cho dự án.
+ ảnh hưởng đến cân đối tiền mặt
Khi có lạm phát phải tính lượng tiền mặt bổ sung để đủ cân đối về tài chính, lượng tiền
sử dụng phải tăng lên.Lạm phát càng tăng làm tăng nhu cầu tiền mặt và hiệu quả dự án
càng thấp, nghĩa rằng trong điều kiện lạm phát càng giữ tiền càng bất lợi.
* Tác động gián tiếp:
+ Tác động của lạm phát đến tiền lãi.
ảnh hưởng của lạm phát đến tiền lãi trước hết là làm thay đổi lãi suất danh nghĩa. Tổng
quát lãi suất danh nghĩa i trong điều kiện lạm phát với mức g% có thể xác định như sau:

i = r + R + (1+r+R) g
Trong đó: r - lãi suất thực
R- tỷ lệ rủi ro
+ Tác động đến thuế:
Thuế được tính theo lợi nhuận chịu thuế tức là khoản thu nhập sau khi đã trừ đi tiền lãi
vay . Nhưng trả lãi vay không tính theo mức lạm phát hàng năm vì vậy phần thu nhập
tính thuế (danh nghĩa) tăng lên và do đó thuế sẽ tăng dần lên và sau cùng sẽ ảnh hưởng
tới dòng tiền của dự án.
Nếu xem xét trên quan điểm tổng vốn thì vấn đề này không quan trọng vì không tính tới
lãi suất vay và việc tăng hay giảm thuế thì cũng chỉ là sự chuyển giao từ nhà đầu tư sang
Chính phủ hoặc ngựơc lại. Nếu xét trên quan điểm chủ đầu tư thì đây là vấn đề hệ trọng
vì tình trạng lạm phát làm thay đổi dòng tiền và cuối cùng là NPV sẽ thay đổi.
ảnh hưởng của lạm phát đến thuế ngoài cách thức thông qua các khoản thanh toán lãi
vay còn thông qua khấu hao với cách thức tương tự. Khấu hao được hạch toán trên cơ sở
chi phí lịch sử của các tài sản khấu hao vì vậy không chịu tác động của lạm phát. Trong
khi đó thuế được xác định trên thu nhập sau khi đã trừ khấu hao, vì vậy lạm phát sẽ làm
tăng giá trị tính thuế và sau đó tăng thuế như đã nói ở trên.
23/48

×