Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Pháp luật về việc thực hiện và ký kết hợp đồng nhập khẩu tại Trung tâm XNK thuộc Tổng công ty cơ khí xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.27 KB, 93 trang )

Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang hòa mình vào sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
khu vực và thế giới. Trong xu thế đó, Thương mại quốc tế đã trở thành hoạt
động mang tính chất sống còn đối với sự lớn mạnh của đất nước cũng như của
từng doanh nghiệp và là con đường tốt nhất và nhanh nhất để các doanh
nghiệp, các quốc gia hòa mình vào dòng chảy kinh tế thế giới, hội nhập sâu và
rộng tới các nền kinh tế khác.Cùng với quá trình đó Việt Nam cũng đang từng
bước tham gia vào dòng chảy này, với việc tham gia và thực hiện đúng lộ
trình cam kết gia nhập WTO,đã và đang không ngừng cố gắng đẩy mạnh sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước, đưa nền kinh tế hòa nhập vào khu vực Đông
Nam Á và các nước phát triển trên thế giới.
Với xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu, còn nhiều hạn
chế về trình độ khoa học kĩ thuật thì con đường nhanh nhất để tiến hành
CNH-HĐH đất nước là cần nhanh chóng tiếp cận những công nghệ và kĩ
thuật tiên tiến của các nước phát triển. Để làm được điều này thì nhập khẩu
đóng một vai trò vô cùng quan trọng.Nhập khẩu cho phép phát huy tối đa nội
lực trong nước đồng thời tranh thủ được các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công
nghệ của thế giới. Trước bối cảnh đó đã đặt cho ngành thương mại nói chung
và Trung tâm XNK nói riêng những cơ hội và thử thách lớn lao. Đó là làm thế
nào để có những máy móc thiết bị có công nghệ tốt nhất, hiện đại nhất với
thời gian và chi phí ít nhất, đạt hiệu quả cao.
Trung tâm XNK chuyên nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng
phục vụ cho nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước. Để đáp ứng nhu cầu
chất lượng cao của khách hàng thì Trung tâm XNK phải có nhiệm vụ nhập
khẩu những máy móc và thiết bị hiện đại của các nước phát triển thông qua
các hợp đồng nhập khẩu với nước ngoài. Để hỗ trợ cho công tác nhập khẩu thì
việc làm tốt khâu tổ chức thực hiện, ký kết hợp đồng nhập khẩu là rất quan
trọng. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu bao gồm nhiều công việc kế tiếp, đan
Page 1 of 93


1
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
xen nhau, thực hiện tốt một công việc sẽ là cơ sở để thực hiện tốt các công
việc tiếp theo của cả hợp đồng nhập khẩu. Xuất phát từ thực tế trên, trong
thời gian thực tập tại Trung tâm XNK trực thuộc Tổng công ty cơ khí xây
dựng e đã chọn đề tài: “Pháp luật về việc thực hiện và ký kết hợp đồng nhập
khẩu tại Trung tâm XNK thuộc Tổng công ty cơ khí xây dựng”
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Pháp luật về hợp đồng nhập khẩu
Chương II: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu máy móc
tại Trung tâm XNK (COMA-IMEX) thuộc Tổng công ty cơ khí xây dựng
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về hợp
đồng nhập khẩu cũng như việc áp dụng tại Trung tâm XNK (COMA-IMEX)
thuộc Tổng công ty cơ khí xây dựng.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ chu đáo, tận tình của thầy Nguyễn Vũ
Hoàng và tập thể cán bộ nhân viên Trung tâm XNK thuộc Tổng công ty cơ
khí xây dựng để tôi có thể hoàn thành bài viết này. Do kiến thức và kinh
nghiệm còn hạn chế, thời gian thực tập tại công ty chưa nhiều nên không thể
tránh khỏi những thiếu sót trong chuyên đề thực tập. Tôi rất mong nhận được
sự quan tâm đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để chuyên đề thực tập
của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Page 2 of 93
2
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
CHƯƠNG I
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU
I. Khái quát chung về hợp đồng nhập khẩu

1. Khái niệm nhập khẩu
Nhập khẩu là sự trao đổi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ nhằm
mục đích lợi nhuận giữa các thương nhân có trụ sở kinh doanh tại các quốc
gia khác nhau.
Theo Điều 28.2 Luật Thương mại 2005: “Nhập khẩu hàng hoá là việc
hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc
biệt trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định
của pháp luật”.
2.Các hình thức nhập khẩu
Hiện nay hoạt động nhập khẩu được thực hiện bởi các hình thức thông
dụng sau:
2.1. Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh
nghiệp trực tiếp nghiên cứu thị trường, tính toán chi phí, ký kết hợp đồng,
thực hiện hợp đồng, chịu trách nhiệm lỗ lãi, đảm bảo phương hướng phù hợp
với pháp luật quốc gia và quốc tế.
Đây là hình thức thường áp dụng cho các doanh nghiệp trong nước có
đủ điều kiện tài chính, điều kiện nhân lực, điều kiện địa lý, có khả năng mua
hàng nhập khẩu và được Nhà nước, Bộ Thương mại cấp giấy phép, cho phép
trực tiếp giao dịch, ký kết các hợp đồng về nhập khẩu hàng hoá với nước
ngoài và thanh toán bằng ngoại tệ (chủ yếu là ngoại tệ mạnh).
2.2. Nhập khẩu uỷ thác
Page 3 of 93
3
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động của doanh nghiệp trong nước có vốn
ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu nhưng không có đủ điều kiện tham gia
nhập khẩu trực tiếp, uỷ thác cho doanh nghiệp khác nhập khẩu hàng theo yêu
cầu của mình. Bên nhận uỷ thác đàm phán, ký kết hợp đồng để nhập hàng

theo yêu cầu và được hưởng phí uỷ thác.
Kinh doanh nhập khẩu theo hình thức nào là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ
thể của từng doanh nghiệp. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp áp dụng cả 2
hình thức nhập khẩu trên nhằm tối đa hoá hiệu quả trong kinh doanh. Thông
thường tổ chức nhập khẩu theo hình thức trực tiếp có lợi hơn vì doanh nghiệp
có thể chủ động nắm bắt thông tin, tìm hiểu thị trường một cách sâu sắc và
toàn diện, có điều kiện mở rộng quan hệ, uy tín với bạn hàng nước ngoài.
3. Khái niệm hợp đồng nhập khẩu
Để hiểu về hợp đồng nhập khẩu trước tiên phải tìm hiểu về hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế.
“Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hoá
trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại tại các nước khác nhau, hàng
hoá được chuyển từ nước này đến nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí ký kết
hợp đồng giữa các bên được thiết lập ở các nước khác nhau” (Định nghĩa theo
công ước La haye 1964 về mua bán quốc tế những động sản hữu hình).
Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
cũng gián tiếp định nghĩa về loại hợp đồng này khi quy định: “Công ước này
áp dụng đối với các hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa các bên có
trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau” (Điều 1 Công ước Viên 1980
về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế).
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thống nhất về ý chí giữa các
bên trong quan hệ mua bán hàng hoá có yếu tố nước ngoài mà thông qua đó thiết
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể với nhau.
Page 4 of 93
4
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
Vậy, ta có thể định nghĩa hợp đồng nhập khẩu hàng hóa là sự thỏa
thuận giữa các bên đương sự có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau,
theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu hàng cho bên mua, bên mua có nghĩa

vụ nhận hàng và trả tiền.
4. Đặc điểm của hợp đồng nhập khẩu
Hợp đồng nhập khẩu vừa chứa đựng những đặc điểm của hợp đồng
thương mại vừa có yếu tố quốc tế.
Hợp đồng mua bán hàng hoá được thiết lập dựa trên cơ sở tự nguyện
thoả thuận của các bên tham gia, nghĩa là hợp đồng phải xây dựng trên sự tự
nguyện, không có sự ép buộc, cưỡng bức hay lừa dối.
Chủ thể là các thương nhân có quốc tịch khác nhau và có trụ sở kinh
doanh tại các quốc gia khác nhau.( Điều 6 LTM 2005)
Hàng hóa – đối tượng của hợp đồng được chuyển qua biên giới quốc
gia hoặc giai đoạn chào hàng, chấp nhận chào hàng đựơc diễn ra tại các quốc
gia khác nhau.( Khoản 2 Điều 3 LTM 2005)
Nội dung của hợp đồng bao gồm quyền, nghĩa vụ phát sinh từ việc
chuyển giao sở hữu hàng hóa từ người bán sang người mua ở các quốc gia
khác nhau. Do đó hợp đồng là cơ sở để các bên thực hiện nghĩa vụ của mình
và yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ của họ.
Đồng tiền thanh toán theo điều khoản của hợp đồng là ngoại tệ đối với
ít nhất 1 bên.
Luật điều chỉnh hợp đồng là luật quốc gia, luật quốc tế và tập quán
quốc tế về thương mại và hàng hải.
5. Nguồn luật điều chỉnh
Luật pháp là cơ sở và yếu tố đầu tiên đảm bảo cho các bên trong hợp đồng
có được môi trường bình đẳng và thuận lợi. Không có một thương nhân nào khi
tham gia ký kết hợp đồng ngoại thương lại không chú ý đến yếu tố này.
Page 5 of 93
5
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
Trên thực tế, một hợp đồng nhập khẩu dù có được các bên thoả thuận
kỹ lưỡng thì cũng không thể lường trước được đầy đủ các vấn đề, các tình

huống phát sinh có thể xảy ra với hàng hoá. Vì vậy luật điều chỉnh hợp đồng
mua bán hàng hoá nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng
luôn là vấn đề mà các bên cần quan tâm vì nó ảnh hưởng đến lợi ích của các
bên và nó là cơ sở pháp lý đầu tiên để giải quyết tranh chấp nếu có.
Hợp đồng nhập khẩu là một hình thức pháp lý của quan hệ thương mại
quốc tế. Vì vậy việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh hợp đồng này tương đối
phức tạp. Hợp đồng nhập khẩu hàng hoá có thể chịu sự điều chỉnh của các
nguồn luật khác nhau như các điều ước quốc tế về mua bán hàng hoá quốc tế,
các tập quán quốc tế về thương mại, pháp luật của các quốc gia… tuỳ từng
trường hợp cụ thể.
5.1. Điều ước quốc tế
Luật quốc tế chính là các quy phạm pháp luật quốc tế, hay chính là các
cam kết của các quốc gia với nhau trong các lĩnh vực nhất định. Công ước
Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế định nghĩa: “Điều ước quốc tế là tất cả
các văn bản được ký kết giữa các quốc gia và do Luật quốc tế điều chỉnh”.
Theo luật Việt Nam, tại Điều 2, pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều
ước quốc tế 24/8/1998 định nghĩa: “Điều ước quốc tế là thoả thuận bằng văn
bản được ký kết giữa nước CHXHCN Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia,
tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác nhau của luật quốc tế, không phụ thuộc vào
tên gọi như: hiệp ước, công ước, định ước, hiệp định, nghị định thư, công hàm
trao đổi và danh nghĩa ký kết…”.
Như vậy có thể định nghĩa điều ước quốc tế về thương mại là sự thoả
thuận bằng văn bản giữa hai hay nhiều nước ký kết phù hợp với những
nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong quan hệ thương mại quốc tế.
Page 6 of 93
6
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
Công ước Viên là kết quả của quá trình thống nhất hoá luật về mua bán

hàng hoá quốc tế của Liên hiệp quốc, nhằm loại bỏ những trở ngại do những
quy định khác nhau trong hệ thống pháp luật quốc gia về thủ tục ký kết và
thực hiện hợp đồng giữa các bên. Việt Nam chưa là thành viên của công ước
Viên nhưng các doanh nghiệp Việt Nam có thể lựa chọn công ước này làm
công cụ điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hoá của mình với các chủ thể ký
kết ở nước ngoài.
5.2. Tập quán thương mại quốc tế
Các tập quán được hình thành lâu đời trong các quan hệ thương mại
quốc tế, khi được các chủ thể ký kết hợp đồng mua bán quốc tế chấp nhận
sẽ trở thành nguồn luật điều chỉnh mối quan hệ hợp đông giữa các chủ thể
ấy với nhau.
Tập quán thương mại, khi được dẫn chiếu vào hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế sẽ có hiệu lực bắt buộc áp dụng đối với các chủ thể ký kết. Hiện
nay, Incoterm là tập quán thông dụng trong buôn bán hàng hoá quốc tế được
Phòng Thương mại quốc tế (ICC) tổng kết, soạn thảo và ban hành. Các
thương gia thoả thuận thừa nhận Incoterm trong thương mại quốc tế là do nó
giúp các bên tiết kiệm nhiều công sức và thời gian khi tham gia quan hệ hợp
đồng, khi nó có các quy định cụ thể về nội dung từng điều kiện và các bên chỉ
cần lựa chọn một điều kiện là đã chấp nhận tất cả các nội dung của điều kiện
đó. Chẳng hạn nó giúp người bán chào giá một cách rõ rang về chi phí và rủi
ro trong chuyên chở quốc tế giữa người bán và người mua. Tương tự như vậy
là trách nhiệm bảo hiểm và nghĩa vụ làm và chịu chi phí về thủ tục hải quan.
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam
càng ngày càng áp dụng tập quán quốc tế một cách thường xuyên hơn.
5.3. Luật quốc gia
Trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế, bên cạnh các điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế,… luật quốc
Page 7 of 93
7
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc

dân
gia đóng vai trò quan trọng và trong nhiều trường hợp nó là nguồn luật điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng.
Luật quốc gia được áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
trong các trường hợp sau:
- Khi các bên ký kết hợp đồng thoả thuận áp dụng luật của một bên như
là một điều khoản trong hợp đồng.
- Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán quốc tế được
quy định trong các điều ước quốc tế liên quan xác định luật của một quốc gia
đương nhiên trở thành luật áp dụng cho các hợp đồng đó. Luật quốc gia áp
dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường là luật của nước bên bán,
nhưng cũng có thể là luật của nước bên mua, luật của một nước thứ 3, luật nơi
ký kết hợp đồng, luật của nước nơi thực hiện hợp đồng…
Trong quá trình đàm phán hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế điều
khoản luật áp dụng thường được ghi một cách rõ ràng trong hợp đồng để
tránh tình trạng khó xác định luật quốc gia điều chỉnh các quan hệ hợp đồng.
Việc thoả thuận chọn luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế là một vấn đề phức tạp, cho nên các chủ thể ký kết không những phải
thông thạo luật nước mình, mà còn phải tìm hiểu kỹ luật của nước mình có
quan hệ hợp đồng, luật của nước mình thoả thuận áp dụng cho hợp đồng để
đảm bảo quyền lợi của mình, tránh những thiệt thòi do thiếu hiểu biết pháp
luật gây ra.
5.4. Tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại
Các quy tắc pháp luật hình thành từ thực tiễn xét xử của toà án được
gọi là tiền lệ pháp. Tại các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ, các toà án
thường dùng một hoặc một số phán quyết của toà án đã được công bố để làm
khuôn mẫu áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp tương tự. Trong
thương mại quốc tế việc công nhận và cho sử dụng các phán quyết củ toà án
Page 8 of 93
8

Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
cũng như thừa nhận vai trò tich cực của các án lệ có xu hướng gia tăng tại các
nước có hệ thống pháp luật khác nhau.
5.5. Quy tắc chọn luật
Các nguồn luật áp dụng cho hợp đồng thương mại quốc tế rất đa dạng,
vì vậy, trong một hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, các bên tham gia hợp
đồng phải có sự lựa chọn luật áp dụng rất cụ thể. Việc lựa chon áp dụng
nguồn luật nào hoàn toàn theo sự lựa chọn của các bên theo nguyên tắc tôn
trọng quyền tự quyết của đương sự và không trái pháp luật các bên. Nếu các
bên thoả thuận áp dụng luật Việt Nam thì theo quy định tại Điều 759 Bộ luật
dân sự 2005:
Các quy định của pháp luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam được
áp dụng đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp bộ
luật này quy định khác.
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành
viên có quy định khác với quy định của bộ luật này thì áp dụng quy định của
điều ước quốc tế.
Nếu pháp luật Việt Nam, hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên dẫn chiếu đến việc áp dung pháp luật nước ngoài thì pháp luật của nước đó
được áp dụng, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Nếu pháp luật của nước ngoài đó
dẫn chiếu ngược lại pháp luật Việt Nam thì áp dụng pháp luật Việt Nam.
Nếu các bên thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật đó
phải không trái với các quy định của pháp luật Việt Nam.
Việc áp dụng tập quán quốc tế được sử dụng trong trường hợp các quan
hệ quốc tế này không được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam, các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên, hay quan hệ hợp đồng giữa các bên. Với
điều kiện là việc áp dụng tập quán quốc tế hay hậu quả của việc áp dụng
không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Page 9 of 93
9
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
II. Chế độ pháp lý về hợp đồng nhập khẩu theo công ước Viên 1980
Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được ký kết
ngay 11/4/1980 tại Viên (Áo). Ban đầu chỉ có 6 quốc gia thành viên, đến nay số
lượng các quốc gia phê chuẩn cồng ước ngày càng tăng lên và trở thành nguồn
luật chủ yếu để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hiện nay.
1. Phạm vi áp dụng
Công ước được áp dụng trước hết đối với hợp đồng mà các bên tham gia
có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau và các quốc gia này đã tham gia
Công ước. Theo điều 1 của Công ước thì Công ước chỉ coi trọng nơi đặt trụ sở
thương mại chứ không chú ý đến quốc tịch của các bên tham gia hợp đồng.
Công ước cũng được áp dụng nếu chỉ một bên có trụ sở tại nước phê
chuẩn công ước, nhưng quy định về luật điều chỉnh đã dẫn tới việc áp dụng
luật của nước này. Ví dụ như khi các bên thoả thuận áp dụng luật của nước
bên bán, mà bên đó là thành viên của Công ước hoặc thoả thuận áp dụng luật
của nước thứ 3 mà nước này lại là thành viên của Công ước.
Ngoài ra công ước cũng được áp dụng đối hợp đồng được ký kết giữa
các bên không có trụ sở thương mại tại các nước đã phê chuẩn công ước
nhưng lại thoả thuận áp dụng nó. Tuy nhiên Công ước cũng cho phép các bên
có thể thoả thuận, trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng là không áp dụng
hoặc áp dụng không hoàn toàn một điều khoản nào đó của Công ước.
1
2. Giao kết hợp đồng nhập khẩu theo công ước Viên
2.1. Chào hàng
Chào hàng là đề nghị về việc ký kết hợp đồng được gửi đích danh cho
một hoặc một vài người (Điều 14). Chào hàng có thể là bất kỳ một lời đề nghị
nào “đủ rõ ràng” và “chỉ rõ tên hàng hoá, xác định một cách trực tiếp hay

ngầm định về giá cả”. Chào hàng chỉ phát sinh hiệu lực khi nó tới nơi người
1
Trần Văn Nam - Trần Thị Hoà Bình (đồng chủ biên) “Giáo trình Luật thương mại quốc tế”. Đại học Kinh tế
quốc dân 2005. Trang 104 – 105.
Page 10 of 93
10
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
được chào hàng (Điều 15.1). Chào hàng có thể bị huỷ nếu thông báo của
người chào hàng về việc huỷ chào hàng gửi tới nơi người được chào trước
hoặc cùng lúc với chào hàng (Điều 15.2). Chào hàng sẽ mất hiệu lực nếu
người chào hàng nhận được thông báo về việc từ chối chào hàng (Điều 17).
2.2. Chấp nhận chào hàng
Chấp nhận chào hàng là một tuyên bố hay một hành vi khác của người
được chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng (Điều 14.1). Nếu người nhận
được chào hàng nhưng im lặng hoặc không hành động thì không được coi là
chấp nhận chào hàng (Điều 18.1). Người nhận được chào hàng sau khi đã
chấp nhận cũng có thể xem xét lại và nếu thấy chào hàng đó không có lợi cho
mình thì có thể huỷ chấp nhận mà mình đã gửi. Tuy nhiên việc huỷ chấp nhận
chào hàng chỉ có thể được chấp nhận nếu thông báo về việc huỷ chấp nhận
chào hàng tới nơi người chào hàng trước hoặc cùng thời điểm chấp nhận có
hiệu lực (Điều 22).
Hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ thời điểm chấp nhận chào hàng
có hiệu lực (Điều 23). Bắt đầu từ thời điểm này các bên có những quyền và
nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng.
3. Quyền và nghĩa vụ các bên tham gia hợp đồng
3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán
3.1.1. Nghĩa vụ giao hàng và chuyển giao chứng từ liên quan đến hàng hoá.
Công ước Viên quy định về giao hàng và chuyển giao chứng từ liên
quan đến hàng hoá từ Điều 31 đến Điều 35. Theo đó, bên bán có nghĩa vụ

giao hàng và các chứng từ liên quan đến hàng hoá cho người mua theo đúng
thoả thuận trong hợp đồng về thời gian. Đó là thời điểm mà các bên đã thoả
thuận trong hợp đồng hoặc nếu không có thoả thuận thì có thể căn cứ vào hợp
đông để xác định được. Nếu các bên không thoả thuận một thời điểm cụ thể
mà thoả thuận một khoảng thời gian thì bên bán được coi là giao hàng đúng
thời hạn nếu hàng được giao vào bất kỳ thời điểm nào trong khoảng thời gian
Page 11 of 93
11
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
đó. Ngoài các trường hợp trên bên bán được giao hàng vào một thời hạn hợp
lý sau khi hợp đồng được ký kết (Điều 33). Bên bán có nghĩa vụ giao hàng
đúng chất lượng, số lượng, quy cách phẩm chất mô tả trong hợp đồng. Về địa
điểm giao hàng, nếu các bên không có thoả thuận thì địa điểm giao hàng áp
dụng theo điều 31 Công ước.
3.1.2. Quyền của bên bán
Bên bán có quỳên được thanh toán theo những quy định trong hợp
đồng. Trong trường hợp bên mua vi phạm nghĩa vụ thì bên bán có quyền thực
hiện các biện pháp bảo hộ pháp lý theo quy định của Công ước như sau:
Yêu cầu bên mua nhận hàng và thanh toán tiền hàng và thực hiện các
nghĩa vụ khác của bên mua (Điều 62).
Cho phép bên mua một thời gian để bổ sung thực hiện các nghĩa vụ
chưa hoàn chỉnh (Điều 63).
Tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng trong trường hợp Công ước quy định (Điều 64).
Yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 74).
Yêu cầu trả tiền lãi khi bên mua chậm thanh toán (Điều 78)
3.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua
3.2.1. Nghĩa vụ của bên mua
Điều 53 Công ước quy định bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng
và nhận hàng theo quy định của hợp đồng và của Công ước.

Thứ nhất về thanh toán tiền hàng, bên mua có nghĩa vụ trả tiền vào
ngày thanh toán đã quy định hoặc có thể được xác định theo hợp đồng hoặc
theo Công ước mà không cần có yêu cầu hoặc việc thực hiện một thủ tục nào
về phía bên bán (Điều 59). Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của bên bán bao
gồm việc áp dụng các biện pháp và tuân thủ các biện pháp mà hợp đồng hoặc
luật lệ đòi hỏi để thực hiện việc thanh toán tiền hàng tại địa điểm nhất định.
Thứ hai về nhận hàng, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng bao gồm việc
thực hiện mọi hành vi tạo điều kiện cho bên bán giao hàng và tiếp nhận hàng
hoá (Điều 60). Theo đúng quy định trong hợp đồng và Công ước.
3.2.2. Quyền của bên mua
Page 12 of 93
12
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
Khi bên bán vi phạm các nghĩa vụ của mình thì bên mua có quyền thực
hiện một số biện pháp để bảo về lợi ích của mình như:
Yêu cầu bên bán thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng như: cung cấp hàng
hoá đúng với thoả thuận trong hợp đồng (nếu hàng hoá chưa phù hợp), tiếp
tục bổ sung hàng hoá (nếu còn thiếu về số lượng), sửa chữa hoặc thay đổi
hàng mới (nếu hàng hoá được cung cấp có khuyết tật)…
Nếu hàng hoá không phù hợp với hợp đồng thì bên mua có thể yêu cầu
bên bán giao hàng thay thế hoặc sửa chữa sự không phù hợp ấy. Bên mua có
thể cho phép bên bán có thêm thời gian nhất định để thực hiện sự sửa chữa ấy
(Điều 46).
Nếu bên bán không đảm bảo được thời hạn giao hàng thì bên mua có
thể cho phép một thời hạn nhất định để thực hiện hợp đồng (Điều 47).
Bên mua có quyền huỷ hợp đồng trong trường hợp bên bán không thực
hiện nghĩa vụ theo hợp đồng tạo thành một vi phạm cơ bản hợp đồng hay khi
bên bán không giao hàng trong thời hạn bên mua gia hạn thêm hoặc bên bán
tuyên bố sẽ không giao hàng trong thời hạn bổ sung này (Điều 49).

4. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng là hậu quả pháp lý bất lợi
mà bên vi phạm hợp đồng phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm hợp đồng.
Các hình thức trách nhiệm pháp lý theo Công ước Viên bao gồm:
4.1. Tiếp tục thực hiện hợp đồng
Bên vi phạm hợp đồng phải tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ theo yêu
cầu của bên bị vi phạm.
Khi người bán giao chậm hàng: Nếu người mua yêu cầu người bán tiếp
tục thực hịên hợp đồng, thì sẽ định ra cho người bán một thời hạn để người
bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và người bán phải thực hiện nghĩa vụ giao
hàng trong thời hạn này. Nếu người mua không chấp nhận giao hàng chậm
hơn thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng, người mua có thể yêu cầu huỷ
hợp đồng và bồi thường thiệt hại.
Page 13 of 93
13
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
Nếu người bán giao hàng thiếu, người mua có quyền yêu cầu người bán
giao bổ sung.
Nếu người mua chậm thanh toán: Người bán vẫn yêu cầu người mua trả
tiền theo hợp đồng và trả phần lãi suất cho số tiền chậm thanh toán.
Người bán giao hàng không phù hợp hoặc không theo quy định của hợp
đồng: Người bán phải giao hàng thay thế hoặc sửa chữa khuyết tật trừ việc
sửa chữa là không hợp lý căn cứ vào tình tiết của sự việc (Điều 46).
Người mua không nhận hàng: Người bán yêu cầu người mua nhận
hàng, nếu trong thời hạn ngươi bán ấn định mà người mua vẫn không nhận
hàng thì người bán buộc phải huỷ hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại phát
sinh (Điều 62).
4.2. Bồi thường thiệt hại
Các thiệt hại mà bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường cho bên bị

thiệt hại là: tổn thất mà bên vi phạm phải gánh chịu; các thu nhập bị bỏ lỡ
do hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia.
Công ước quy đinh: “Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi
phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ
mà bên kia đã phải chịu di hậu quả của sự vi phạm hợp đồng”. Tiền bồi
thường thiệt hại không thể cao hơn thiệt hại thực tế và những khoản đáng
lẽ thu được nhưng bị bỏ lỡ là những khoản mà bên vi phạm đã dự liệu
được hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào thời điểm ký hợp đồng.
4.3. Huỷ hợp đồng
Bên bị vi phạm có thể huỷ hợp đồng nếu hành vi vi phạm hợp đồng
của bên kia tạo thành một vi phạm nghiêm trọng (Điều 49.1.a, Điều
46.1.a). Tức là sự vi phạm đó làm cho bên bị thiệt hại, trong một chừng
mực đáng kể bị mất đi cái mà họ chờ đợi trên cơ sở hợp đồng (Điều 25).
Việc không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của hợp đồng tạo thành
một vi phạm chủ yếu đối với hợp đồng như:
Page 14 of 93
14
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
- Giao hàng không đúng chủng loại đã quy định trong hợp đồng;
hàng kém phẩm chất, hàng giao thiếu bộ phận nào đó mà việc giao thiếu
này dẫn đến việc không thể khai thác, sử dụng được hàng đã giao…
- Bên bán không giao hàng trong thời hạn gia hạn thêm của bên
mua, hoặc bên bán tuyên bố không giao hàng trong thời gian gia hạn
thêm đó.
- Bên mua không trả tiền, hay không nhận hàng; hoặc tuyên bố
không trả tiền, hay không nhận hàng trong thời gian gia hạn thêm mà bên
bán quy định.
Công ước Viên không có các điều khoản quy định về giải quyết
tranh chấp tròn trường hợp có sự vi phạm hợp đồng.

III. Chế độ pháp lý về hợp đồng nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam
1. Pháp luật về hợp đồng nhập khẩu trước năm 2005
1.1. Trước năm 1997
Trong thời kỳ bao cấp với đặc thù là nền kinh tế tế kế hoạch hoá,
nguyên tắc “Nhà nước độc quyền về ngoại thương (hay thương mại quốc tế)”
là cơ sở pháp lý chủ yếu của hoạt động xuất nhập khẩu Việt Nam. Nguyên tắc
này được ghi nhận trong Hiến Pháp năm 1946, năm 1959, và năm 1980 tại
Điều 21 “Nhà nước độc quyền về quản lý hoạt động ngoại thương và các
quan hệ kinh tế quốc tế khác”.
Nguyên tắc Nhà nước độc quyền về ngoại thương thể hiện: Mọi hoạt
động ngoại thương được tập trung trong tay Nhà nước, chỉ các tổ chức được
Nhà nước cho phép mới được tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu; Nhà
nước quyết định và thực hiện mọi đường lối ngoại thương thông qua bộ máy
thống nhất cả nước; mọi hoạt động ngoại thương được tiến hành trên cơ sở kế
hoạch chung về trao đổi hàng hoá với nước ngoài, được Nhà nước hoạch
định, kiểm soát và quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương. Nội
dung của nguyên tắc “Nhà nước độc quyền ngoại thương” đã chi phối mọi
Page 15 of 93
15
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
hoạt động xuất nhập khẩu, là cơ sở, nền tảng pháp lý cho toàn bộ công tác xây
dựng pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu và tạo thành đặc điểm
đặc trưng của hoạt động ngoại thương trong thời kỳ này.
Thời kỳ trước năm 1980, xuất phát từ nguyên tắc trên, mọi hoạt động
xuất nhập khẩu được Nhà nước giao cho Bộ Ngoại thương độc quyền thực
hiện. Bộ lập “Tổng công ty xuất nhập khẩu” được quyền trực tiếp trao đổi,
mua bán hàng hoá với nước ngoài. Hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ
này gần như bó hẹp trong quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa. Mọi vấn
đề phát sinh thường được giải quyết dựa vào các quy phạm pháp luật thống

nhất quy định trong các hiệp định thương mại và đặc biệt trong điều kiện
chung giao hàng tay đôi giữa Việt Nam với từng nhà nước xã hội chủ
nghĩa, sau này có thêm điều kiện chung giao hàng SEV – các nước thuộc
hội đồng tương trợ kinh tế. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất
nhập khẩu chưa hình thành.
Các bản điều kiện chung giao hàng là công cụ quan trọng trong việc
điều tiết xuất nhập khẩu Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là
điều tiết những vấn đề liên quan đến thủ tục giao kết và thực hiện hợp đồng
xuất khẩu, hợp đồng nhập khẩu; trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng; cơ
quan xét xử tranh chấp; hay vấn đề áp dụng luật…. Các tổ chức ngoại thương
của các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có các Tổng công ty xuất nhập khẩu
trên cơ sở các điều kiện chung giao hàng đã tiết kiệm được thời gian đàm
phán, loại bỏ những điểm bất đồng do có sự quy định khác nhau trong hệ
thống luật của mỗi quốc gia
(2)
.
Từ cuối 1986, thực hiện đường lối đổi mới kinh tế do Đại hôi VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, kinh tế đối ngoại được coi là một “mũi nhọn”
của sự đổi mới
3
. Ngoại thương, đặc biệt là xuất khẩu đã được Chính phủ đề cao,
2
Trần Văn Nam, Trần Thị Hoà Bình (đồng Chủ biên): tlđd Trang 30.
3
Trần Anh Phương: Tạp chí Những vấn đề kinh tê thế giới, Số 3 (29) tr.18
Page 16 of 93
16
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
coi đó là 1 trong 3 chương trình kinh tế trọng điểm của Việt Nam. Ngoài việc

duy trì quan hệ thương mại với các nước XHCN (vẫn được tiến hành theo cơ chế
cũ là phối hợp kế hoạch dưới hình thức nghị định thư và Việt Nam vẫn được tiếp
tục vay bù nhập siêu bằng tín dụng Nhà nước), do có những đổi mới thông
thoáng hơn trong cơ chế quản lý, chính sách kinh tế đối ngoại nên quan hệ giữa
Việt Nam với các nước ngoài XHCN ngày càng mở rộng hơn.
1.2. Giai đoạn 1997 đến 2005
Hiến pháp 1992 đánh dấu sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trường với cơ chế “Nhà nước thống nhất quản lý
và mở rộng kinh tế đối ngoại…”(Điều 24 - Hiến pháp 1992) đã thúc đẩy hoạt
động ngoại thương phát triển mạnh mẽ, sôi động.
Để phù hợp với quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị
trường, Việt Nam đã luật hoá các hoạt động thương mại. Quốc hội khoá IX,
kỳ họp thứ 11 ngày 19/5/1997 đã thông qua Luật Thương mại 1997, (bắt đầu
có hiệu lực từ ngày 01/01/1998. Luật Thương mại 1997 ra đời đã thể chế hoá
các đường lối, chính sách của Đảng, cơ chế quản lý thương mại của Nhà
nước, trong đó có chính sách về kinh tế đối ngoại. Riêng về hợp đồng mua
bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài, Luật dành mục 2 Chương II gồm
37 điều, Điều 82 cũng xác định hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài phải tuân theo các quy định về mua bán hàng hoá của Luật. Các
hành vi mua bán hàng hoá có nhân tố nước ngoài cũng chịu sự điều chỉnh của
các quy định về mua bán hàng hoá nói chung, được quy định trong Luật.
Các vấn đề về điệu kiện hiệu lực của hợp đồng và giao kết hợp đồng,
Luật Thương mại 1997 có quy định trong mục riêng dành cho hợp đồng ký
kết với thương nhân nước ngoài. Những nội dung chủ yếu của hợp đồng ngoại
thương này sẽ tuân theo quy định của hợp đồng nói chung (Điều 50). Các vấn
đề về trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng cũng tuân theo quy định đối
với hợp đồng chung. Song, bên có quyền lợi bị vi phạm được lựa chọn một
Page 17 of 93
17
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc

dân
trong hai chế tài là phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại (khác với Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 28/9/1989 áp dụng đồng thời hai hình thức trách
nhiệm pháp lý đối với một hành vi vi phạm).
Cũng trong thời gian này, pháp luật Việt Nam đã có những sửa đổi khá
cơ bản về quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của thương nhân (đến nay vẫn có
hiệu lực) góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển
như: theo quy định tại Nghị định số 33/CP ngày 19/4/1994, những doanh
nghiệp chưa có Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu không phải là chủ thể
của hợp đồng mua bán ngoại thương. Mọi hợp đồng mua bán ngoại thương do
các doanh nghiệp này ký đều không có hiệu lực vì chủ thể ký kết phía Việt
Nam không hợp pháp. Nghị định 57/1998/NĐ-CP có hiệu lực pháp lý từ ngày
1/9/1998 đã tạo bước đột phá trong quy định về quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu đối với thương nhân. Theo đó, thương nhân là doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế, thành lập theo quy định của pháp luật, được phép xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố, không phải xin Giấy phép kinh
doanh xuất nhập khẩu tại Bộ thương mại. Và kể từ ngày Nghị định 57 có hiệu
lực pháp lý, các Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ thương mại đã cấp
hết hiệu lực thi hành. Như vậy, theo Nghị định 57, quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu đối với thương nhân đã được mở rộng cho tất cả các doanh các doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ cần đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu
tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố là được kinh doanh xuất nhập khẩu, không còn
phải xin phép Bộ thương mại. Và cũng không còn sự phân biệt giữa doanh
nghiệp được quyền và doanh nghiệp không được quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu nữa. Nghị định 44/2001/NĐ-CP đã tiếp tục mở rộng quyền kinh doanh
xuất khẩu cho doanh nghiệp khi quy định thương nhân có thể xuất khẩu tất cả
các loại hàng hoá không phụ thuộc vào ngành nghề được ghi trong Giấy chứng
Page 18 of 93

18
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
nhận đăng ký kinh doanh, trừ những hàng hoá thuộc danh mục cấm xuất khẩu.
Tuy nhiên, quyền kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp vẫn còn bị hạn chế.
Cụ thể, thương nhân chỉ được nhập khẩu những hàng hoá theo ngành nghề,
ngành hàng ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh…
Hoạt động thương mại nói chung và hoạt động thương mại quốc tế nói
riêng không ngừng phát triển cùng với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá
nền kinh tế. Về hoạt động thương mại quốc tế, trong 10 năm trở lại đây, hoạt
động này ngày càng mở rộng thêm nhiều lĩnh vực như sở hữu trí tuệ, đầu tư,
dịch vụ… Ngày càng nhiều các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
được hình thành, mặt hàng kinh doanh ngày càng đa dạng…
Luật thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005 thay thế cho Luật
Thương mại 1997 đã góp phần tích cực trong khung pháp lý điều chỉnh hợp
đồng thương mại quốc tế. Luật Thương mại 2005 không tách rời hẳn một mục
cho hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế như Luật Thương mại 1997, mà quy
định cùng với hoạt động thương mại trong nước thành “các quy định chung
đối với hoạt động mua bán hàng hoá”. Hợp đồng thương mại quốc tế cũng
được đề cập trong Bộ Luật Dân sự 2005 phần quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài. Theo quy định của Luật Thương mại 2005, hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế không chỉ dừng lại ở trường hợp các bên giao kết hợp đồng có
quốc tịch khác nhau mà còn bao gồm những trường hợp khác như một bên có
trụ sở kinh doanh ở nước ngoài, hay mua bán hàng hoá ở khu chế xuất…
Cùng với Luật Thương mại 2005, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày
23/01/2006 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán
hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng
hoá với nước ngoài đã góp phần củng cố khung pháp lý quy định cho hoạt
động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế
nói riêng.

Page 19 of 93
19
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
Sau khi Luật Thương mại 2005 ra đời, quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu của doanh nghiệp cũng được mở rộng hơn nữa bởi sự ra đời của Nghị
định 12/2006/NĐ-CP. Nghị định 12/2006/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày
1/5/2006 và thay thế cho Nghị định 57/1998/NĐ-CP và Nghị định
44/2001/NĐ-CP. Theo Nghị định 12, thương nhân được xuất khẩu nhập khẩu
hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh trừ hàng hóa
thuộc Danh mục cấm xuất khẩu, tạm ngừng xuất khẩu, hàng hóa thuộc Danh
mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu.
Pháp luật Việt Nam cũng đã có sửa đổi khá cơ bản về yêu cầu đối với
nội dung của hợp đồng theo hướng phù hợp hơn với pháp luật quốc tế.
- Theo quy định của Luật thương mại năm 1997 đã hết hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1/1/2006, hợp đồng mua bán hàng hoá phải có các nội dung
chủ yếu là: tên hàng; số lượng; quy cách, chất lượng; giá cả; phương thức
thanh toán; địa điểm và thời hạn giao nhận hàng. Việc quy định hợp đồng
phải có 6 nội dung không thể thiếu như trên mâu thuẫn với nguyên lý cơ bản
của pháp luật thương mại, theo đó quy định các chủ thể tham gia kinh doanh
được tự do thoả thuận mọi giao dịch của mình. Mâu thuẫn rõ ràng là giữa việc
các chủ thể cùng lúc phải tuân thủ quy định bắt buộc gồm sáu nội dung của
hợp đồng với việc pháp luật đã trao cho các chủ thể quyền tự do thoả thuận
hợp đồng. Hơn nữa, Công ước của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế (gọi tắt là Công ước Viên 1980) hiện có hơn 60 nước phê
chuẩn quy định tối thiểu về các nội dung bắt buộc này, chỉ xoay quanh ba
điều khoản: tên hàng; số lượng và giá cả (Điều 14 Công ước Viên 1980).
- Vì những lý do trên, để phù hợp hơn với pháp luật quốc tế cũng như
tôn trọng nguyên tắc tự do thoả thuận hợp đồng của các chủ thể, Bộ luật Dân
sự năm 2005 đã quy định khi ký kết hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về

những nội dung sau: Đối tượng của hợp đồng; số lượng, chất lượng; giá cả,
phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
quyền, nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; phạt vi phạm
Page 20 of 93
20
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
hợp đồng; các nội dung khác (Điều 402). Rõ ràng, quy định mới về nội dung
của hợp đồng là nhằm giúp các bên xác định được thoả thuận cụ thể giữa họ
chứ không phải để ràng buộc hay hạn chế quyền tự do hợp đồng của họ.
2. Pháp luật về hợp đồng nhập khẩu từ năm 2005 đến nay
2.1. Điều kiện hiệu lực hợp đồng
Làm thế nào để hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói chung và hợp
đồng nhập khẩu nói riêng có hiệu lực pháp lý là vấn đề được các bên giao kết
hợp đồng đặc biệt quan tâm. Vì chỉ khi hợp đồng giao kết giữa các bên có
hiệu lực pháp lý thì quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên mới được bảo đảm và
thực hiện theo hợp đồng đã thoả thuận, nếu có tranh chấp xảy ra thì mới đảm
bảo việc khiếu nại hay tố tụng được giải quyết trước Toà án hay Trọng tài. Để
một hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có hiệu lực thì:
2.1.1. Giao kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện thoả thuận ý chí giữa các bên
Cơ sở tự nguyện thoả thuận ý chí giữa các bên ở đây chính là sự thuận
mua vừa bán. Người bán giao hàng mà người mua muốn mua; người mua
nhận hàng và trả tiền theo cam kết. Hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp lý nếu việc
giao kết không vi phạm các trường hợp ngăn cấm như: có sự cưỡng bức, đe
doạ; có sự lừa dối; có sự nhầm lẫn.
2.1.2. Điều kiện về chủ thể
Chủ thể của hợp đồng là các thương nhân có trụ sở kinh doanh đặt tại
các quốc gia khác nhau và có đủ tư cách pháp lý. Trong đó, tư cách pháp lý
của các thương nhân được xác định căn cứ theo pháp luật của nước mà
thương nhân đó có trụ sở. Theo quy định của Luật thương mại 2005, thương

nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, các nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh (Điều
6 Khoản 1). Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước
ngoài công nhận (Điều 16 Khoản 1).
Page 21 of 93
21
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
Các doanh nghiệp chỉ cần đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu
tại Cục Hải quan tỉnh, thành phố là được kinh doanh xuất nhập khẩu, không
phải xin phép Bộ Thương mại (nay đổi là Bộ Công thương). Hiện nay pháp
luật Việt Nam không còn sự phân biệt giữa doanh nghiệp được quyền hay
doanh nghiệp không được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu như trước nữa.
2.1.3. Điều kiện về người có thẩm quyền giao kết hợp đồng
Người giao kết hợp đồng là người đại diện cho thương nhân đó theo
pháp luật hoặc theo uỷ quyền. Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật
quy định, là người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân
hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đại diện theo uỷ quyền
là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại diện và người được
đại diện. Phạm vi đại diện theo uỷ quyền được xác lập theo sự uỷ quyền và
người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch trong phạm đại diện. Uỷ quyền
phải được làm bằng văn bản và người uỷ quyền phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm về hành vi của người được uỷ quyền trong phạm vi quy định của sự uỷ
quyền (Điều 140-142 Bộ Luật Dân sự 2005).
2.1.4. Điều kiện về đối tượng của hợp đồng nhập khẩu
Hàng hoá - đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải là
hàng hoá được phép mua bán theo quy định pháp luật của nước bên mua và
nước bên bán.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, thương nhân được

nhập khẩu hàng hoá không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh trừ
những hàng hoá thuộc Danh mục cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu theo
giấy phép của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) hoặc các bộ quản lý
chuyên ngành (Điều 3, 4 Nghị định số 12/2006/NĐ-CP). Danh mục hàng hoá
thuộc diện quản lý chuyên ngành theo quy định của Việt Nam được quy định
Page 22 of 93
22
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân
trong phụ lục số 01, 02 và 03 ban hành kèm theo Nghị định số 12/2006/NĐ-
CP ngày 23/01/2006.
2.1.5. Điều kiện về nội dung của hợp đồng
Nội dung của hợp đồng phải tuân thủ nguồn luật điều chỉnh hợp đồng.
Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng có thể được các bên thoả thuận quy định
trong hợp đồng. Nếu không quy định trong hợp đồng thì việc xác định nguồn
luật điều chỉnh hợp đồng sẽ áp dụng quy tắc xung đột pháp luật: “luật nước
người bán”; “luật nơi xảy ra tranh chấp”; “luật nơi ký kết hợp đồng”; “luật nơi
thực hiện nghĩa vụ”.
Để phù hợp với pháp luật quốc tế và nguyên tắc tự do thoả thuận hợp
đồng của các chủ thể, Bộ luật dân sự 2005 quy định khi ký kết hợp đồng, các
bên có thể thoả thuận về những nội dung: đối tượng hợp đồng; số lượng, chất
lượng; giá cả, phương thức thanh toán; thời gian, địa điểm, phương thức thực
hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm pháp lý do vi phạm
hợp đồng; các nội dung khác (Điều 402 Bộ luật dân sự). Quy định này giúp
các bên xác định được thoả thuận cụ thể giữa họ chứ không phải để ràng buộc
hay hạn chế quyền tự do hợp đồng của họ.
Page 23 of 93
23
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc
dân

2.1.6. Điều kiện về hình thức của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng phải tuân thủ nguồn luật điều chỉnh hợp đồng.
Luật Thương mại 2005 quy đinh rõ: “Mua bán hàng hóa quốc tế phải được
thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá
trị pháp lý tương đương” (Điều 27 Khoản 2). Các hình thức có giá trị pháp lý
tương đương văn bản như: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (Khoản 15
Điều 3). Như vậy hình thức của hợp đồng nhập khẩu cũng tuân theo những
quy định trên.
2.2. Giao kết hợp đồng nhập khẩu
2.2.1. Cách thức giao kết hợp đồng
Hợp đồng nhập khẩu có thể được giao kết bằng các phương thức trực
tiếp hoặc gián tiếp.
Giao kết hợp đồng trực tiếp: Các bên tham gia giao kết hợp đồng cử
người đại diện để trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng và thoả
thuận thống nhất về các nội dung của hợp đồng và cùng ký tên vào văn bản
hợp đồng. Kể từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng, hợp đồng được
xác lập và phát sinh hiệu lực pháp lý. Trường hợp có quy định điều kiện khác
trong hợp đồng như có quota hoặc một giấy phép đặc biệt hoặc mở L/C… thì
hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý nếu những điều kiện này được thực hiện.
Giao kết hợp đồng gián tiếp: Các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc,
thảo luận mà thực hiện trao đổi qua các tài liệu giao dịch như công văn, điện báo,
đơn đặt hàng, đơn chào hàng…có ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch. Trình
tự giao kết hợp đồng theo phương thức này bao gồm hai giai đoạn: Đề nghị giao
kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Những vấn đề này không
được Luật Thương mại 2005 quy định cụ thể, vì vậy các quy định của Bộ Luật
Dân sự 2005 sẽ được áp dụng, và áp dụng chung cho cả hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế nói chung và hợp đồng nhập khẩu nói riêng.
Page 24 of 93
24
Khoa Luật Đại học Kinh tế Quốc

dân
2.2.2. Thời điểm giao kết hợp đồng
Về nguyên tắc, hợp đồng mua bán được giao kết vào thời điểm các bên
đạt được sự thoả thuận. Luật Thương mại 2005 không quy định cụ thể về thời
điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế cũng như hợp đồng mua
bán hàng hoá nói chung, vì vậy áp dụng Điều 404 Bộ luật dân sự 2005 có các
trường hợp sau:
- Với hợp đồng giao kết trực tiếp bằng văn bản, thời điểm giao kết hợp
đồng là thời điểm các bên cùng ký vào văn bản;
- Với hợp đồng giao kết gián tiếp bằng văn bản, thời điểm giao kết là
khi bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng;
Hợp đồng giao kết bằng lời nói không áp dụng cho hợp đồng nhập khẩu
vì theo quy định của Điều 27 Luật Thương mại 2005 “Hình thức hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện bằng văn bản hoặc hình thức
khác có giá trị pháp lý tương đương”.
Thời điểm giao kết hợp đồng cũng được coi là thời điểm hợp đồng có
hiệu lực, trừ phi các bên thoả thuận một thời điểm khác hoặc vào một thời
điểm mà một điều kiện của hợp đồng được thực hiện như thời điểm mở L/C
khi thoả thuận thanh toán bằng tín dụng thư, hay thời điểm có quota khi hàng
hoá theo quy định phải được cấp hạn ngạch.
Luật thương mại 2005 không quy định bắt buộc các bên phải thoả
thuận những nội dung cụ thể nào trong hợp đồng nhập khẩu cũng như trong
hợp đồng mua bán hàng hoá nói chung. Điều 402 Bộ Luật Dân sự 2005 đưa ra
các nội dung chủ yếu của hợp đồng mang tính “khuyến nghị”, “định hướng”
của pháp luật giúp hạn chế những rủi ro pháp lý những tranh chấp trong hoạt
động mua bán hàng hoá đặc biệt là hoạt động nhập khẩu hàng hoá.
4
2.3. Thực hiện hợp đồng
2.3.1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng
4

Giáo trình Luật Thương mại II. Đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân. 2006. Trang 23-24.
Page 25 of 93
25

×