Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

Vấn đề phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 170 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ TÙNG
vÊn ®Ò ph¸t triÓn nguån lùc con ngêi
trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa
ë tØnh nghÖ an hiÖn nay
Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS
Mã số : 62 22 80 05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Ngư ờ i hư ớ ng dẫ n khoa họ c: PGS,TS. TRẦN SỸ PHÁN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận
nêu trong luận án chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình
khoa học nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Tùng
MỤC LỤC
Trang
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
6
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn lực con
người, phát triển nguồn lực con người
6
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát triển nguồn lực
con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
19
1.3. Một số công trình, văn bản liên quan đến nguồn lực con người,
phát triển nguồn lực con người ở Nghệ An


25
Chương 2: PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
33
2.1. Nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người, các yếu tố cơ
bản tác động đến phát triển nguồn lực con người ở nước ta hiện nay
33
2.2. Tầm quan trọng và yêu cầu cơ bản của việc phát triển nguồn lực
con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước
ta hiện nay
54
Chương 3: PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH
NGHỆ AN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA
80
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội ảnh hưởng đến việc
phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay
80
3.2. Thực trạng nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con
người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ
An hiện nay
88
3.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nguồn lực con người trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay
99
Chương 4: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI

TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY
110
4.1. Quan điểm định hướng phát triển nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An hiện nay
110
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực con người trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An hiện nay
118
KẾT LUẬN
144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
148
PHỤ LỤC
160
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ANQP : An ninh quốc phòng
CMKT : Chuyên môn kỹ thuật
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTQG : Chính trị quốc gia
GD-ĐT : Giáo dục - đào tạo
KH-CN : Khoa học - công nghệ
KT-XH : Kinh tế - xã hội
LĐ : Lao động
LLSX : Lực lượng sản xuất
NNL : Nguồn nhân lực
SV : Sinh viên

UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia,
dân tộc, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất, là yếu tố cơ bản quyết
định các nguồn lực khác; quyết định đến sự thành công hay thất bại của sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quá trình tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói riêng.
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, vấn đề nguồn lực con người luôn được
quan tâm. Hiện tượng các nước công nghiệp mới (NICs) châu Á là những minh
chứng rõ ràng nhất cho việc quan tâm đúng mức đến vai trò quyết định của
nguồn lực con người trong quá trình CNH - HĐH. Một trong những nguyên
nhân mang tính đặc trưng chung cho tất cả các nước này để đi đến thành công
chính là chỗ họ sớm nhận thức được vai trò quyết định của nguồn lực con người
và đầu tư thỏa đáng cho chiến lược con người; đặt lên hàng đầu chất lượng
nguồn lao động, đặc biệt là các yếu tố văn hóa, kỹ thuật và kỷ luật, đi trước một
bước về giáo dục và đào tạo, coi đó là chìa khóa của cánh cửa tăng trưởng, là
điều kiện đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp CNH - HĐH. Đây là một trong
những bài học hết sức bổ ích cho Việt Nam. Với ý nghĩa đó, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta đã xác định, một trong những quan điểm
chỉ đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là: “Lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững” [27, tr.85].
Hiện nay chúng ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra một
cách hết sức mạnh mẽ; toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
đã và đang trở thành xu thế lớn của thời đại. Đây không chỉ là thách thức,
mà đó còn là thời cơ, điều kiện, là cơ hội thuận lợi để cho chúng ta có thể

2
vận dụng tiến bộ khoa học và công nghệ để đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước theo con đường rút ngắn, đi tắt, đón đầu. Để tận dụng
có hiệu quả thời cơ, vượt qua những thách thức đang phải đối mặt, chúng ta
rất cần có nguồn nội lực mạnh, trước hết là nguồn lực con người với bản
lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, trí tuệ cao, có năng lực
nắm bắt và vận dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ của nhân loại vào
điều kiện cụ thể của nước ta.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam không đơn giản
chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế, mà chính là quá trình biến đổi sâu sắc, toàn
diện mọi mặt đời sống xã hội nhằm đưa xã hội phát triển lên một giai đoạn
mới về chất. Để đáp ứng yêu cầu đó, phải có nguồn lực con người đủ về số
lượng, phát triển cao về chất lượng với một cơ cấu hợp lý, thật sự là động lực
cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ,
một trong ba khâu đột phá để thực hiện Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững là “Phát triển nhanh nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ" [36, tr.32].
Nghệ An hiện vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, đời sống
nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, việc làm thiếu, thất nghiệp nhiều, trong
lúc đó tiềm năng và lợi thế về nguồn lực con người cũng như tài nguyên thiên
nhiên chưa được khai thác, sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả, thậm chí
còn bị lãng phí. Rất nhiều sinh viên khi ra trường không trở về quê hương
Nghệ An công tác; rất nhiều nhà khoa học có uy tín là con em xứ Nghệ còn
công tác xa quê; không ít doanh nhân thành đạt đang hoạt động, sản xuất,
kinh doanh ngoài địa bàn tỉnh Tất cả đó đang ảnh hưởng không tốt đến quá
trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn Nghệ An nói riêng.
3
Vậy làm thế nào để có được nguồn lực con người phát triển cả về số

lượng lẫn chất lượng, hợp lý về cơ cấu (theo ngành, vùng, lĩnh vực kinh tế, theo
trình độ, độ tuổi, ); làm thế nào để khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả
nhất nguồn lực con người - với tư cách là nguồn lực nội tại, cơ bản và có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung, đối với quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng; làm thế nào hướng sự phát triển
kinh tế- xã hội do chính con người tạo ra vào phục vụ con người một cách tốt
nhất; làm thế nào thu hút được lực lượng lao động chất lượng cao về Nghệ An
công tác v.v. Đó là những câu hỏi đã và đang được đặt ra và cần sớm có lời
giải đáp. Đề tài "Vấ n đề phát triể n nguồ n lự c con ngư ờ i trong quá trình công
nghiệ p hóa, hiệ n đạ i hóa ở tỉ nh Nghệ An hiệ n nay" mà nghiên cứu sinh lựa
chọn làm luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành CNDVBC và CNDVLS muốn
góp một phần nhỏ vào việc giải quyết vấn đề lớn trên đây.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mụ c đích nghiên cứ u
Trên cơ sở phân tích thực trạng, tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản việc
phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước nói chung, ở tỉnh Nghệ An nói riêng, luận án đề xuất quan điểm định
hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực con người
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nghệ An hiện nay.
2.2. Nhiệ m vụ nghiên cứ u
Để đạt được mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: phân tích thực trạng, tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản của việc
phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay.
Thứ hai: Phân tích thực trạng nguồn lực con người và thực trạng phát
triển nguồn lực con người ở tỉnh Nghệ An trong những năm qua và những vấn
đề đặt ra.
4
Thứ ba: Đề xuất quan điểm định hướng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Nghệ An hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đố i tư ợ ng nghiên cứ u
Vấn đề phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
3.2. Phạ m vi nghiên cứ u
Vấn đề phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay (các số liệu chủ yếu từ năm 2000 trở lại đây).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luậ n
- Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về con người, nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người
trong quá trình phát triển xã hội nói chung, quá trình trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nói riêng. Ngoài ra luận án còn kế thừa những kết quả đạt được
của một số công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.
4.2. Phư ơ ng pháp nghiên cứ u
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa DVBC và CNDVLS, kết hợp với các phương pháp lôgíc - lịch sử; quy
nạp và diễn dịch; khái quát hóa - trừu tượng hóa; thống kê - so sánh; phương
pháp xử lý số liệu.v.v.Trên cơ sở xác định phương pháp như trên, trước khi phân
tích thực trạng phát triển nguồn lực con người ở Nghệ An, tác giả luận án đi từ
quan niệm chung về nguồn nhân lực (nguồn lực con người), phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam - có tham khảo thêm một số tư liệu nước ngoài- lấy đó làm
cơ sở để phân tích thực trạng phát triển nguồn lực con người ở Nghệ An từ đó đề
5
xuất quan điểm định hướng và tìm giải pháp để phát triển nguồn lực con người
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nghệ An hiện nay.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ vai trò của việc phát triển nguồn lực con

người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, ở
tỉnh Nghệ An nói riêng.
- Đề xuất quan điểm định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Nghệ An hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần luận giải vai trò, tầm quan trọng của việc phát triển
nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nói chung, ở tỉnh Nghệ An nói riêng.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu,
giảng dạy và những ai quan tâm đến vấn đề phát triển nguồn lực con người
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, ở tỉnh
Nghệ An nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận án gồm 4 chương, 7 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NGUỒN
LỰC CON NGƯỜI, PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
Có thể nói rằng trong nhiều thập niên gần đây vấn đề nguồn lực con
người, phát triển nguồn lực con người đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều
học giả ở nhiều nước và vùng lãnh thổ khác nhau. Nhóm các công trình nghiên
cứu liên quan đến vấn đề này chiếm một số lượng khá lớn, có thể nói đến mức
chúng ta không thể nào bao quát hết. Trong số đó có thể đề cập đến một số
công trình sau đây.
Các tác giả Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu trong cuốn: Tôn trọng trí
thức tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước [52] cho rằng
nhân tài là then chốt của phát triển, “Sự hưng suy, thành bại của một quốc gia,

một dân tộc không ở nguồn vốn, không ở thiết bị, mà then chốt là ở chỗ có
hay không có hàng loạt nhân tài kiệt xuất” [52, tr.77]. Để minh chứng cho lập
luận này, các tác giả đưa ra số liệu: “Tỷ trọng của nhân tố trí lực trong sự tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc dân ở các nước phát triển đã tăng từ 5% - 20%
đầu thế kỷ này lên 60% - 80% trong những năm 80 của thế kỷ” [52, tr.95].
Nghĩa là phải có nguồn lực con người, nhất là nguồn lực chất lượng cao. Theo
các tác giả việc bồi dưỡng và giáo dục nhân tài liên quan trực tiếp đến nhu
cầu chiến lược của cách mạng và xây dựng. Do đó “giải quyết tốt việc đào tạo
lớp người kế tục là một vấn đề chiến lược, là một vấn đề lớn quyết định tới lợi
ích lâu dài và sự sinh tử, tồn vong của Đảng và Nhà nước Trung Quốc”.
Không chỉ nêu lên vị trí, vai trò của nhân tài, nhân lực trong cách mạng
và xây dựng. Các tác giả còn có những luận giải khá sâu sắc về con đường và
phương pháp tuyển chọn nhân tài; sử dụng và bố trí nhân tài sao cho có hiệu
7
quả, mang lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc. Trong đó các tác giả đặc biệt coi
trọng việc “tạo môi trường cho nhân tài phát triển” [52, tr.280] và “cải cách
chế độ nhân sự” [52, tr.323].
“Nhân tài” được đề cập đến trong tác phẩm này bao chứa nội hàm khá
phong phú, “nhân tài tuyệt nhiên không chỉ là một số ít những nhân vật thiên
tài, nhân vật vĩ đại, mà các nhân tài chuyên môn và công nhân, nông dân tiên
tiến đều là nhân tài” [52, tr.28]. Về thực chất thì đây là bộ phận tương đối ưu
tú trong lực lượng lao động xã hội, trong nguồn nhân lực.
Kết quả nghiên cứu của công trình này giúp cho NCS có được cách nhìn
khái quát hơn về tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao trong phát triển kinh tế xã hội, trong quá trình
CNH, HĐH đất nước cũng như việc tìm kiếm giải pháp để phát triển nguồn
nhân lực ở nước ta hiện nay.
GS.Geoffrey B.Hainsworth với bài “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
với những thách thức của quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ và một nền kinh tế
dựa trên những hiểu biết mới” trong cuốn Lao động, việc làm và nguồn nhân

lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới [45]. Tác giả bài viết có cách tiếp cận khá
độc đáo khi đặt các câu hỏi: Làm thế nào để mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp
và viễn cảnh cuộc sống dân cư nông thôn - những người đang nắm giữ những
nguồn lực to lớn nhất và chưa được phát huy của quốc gia? Làm cách nào để
họ hiển nhiên nhận được sự quan tâm đặc biệt của những nhà hoạch định
chính sách và nhà tài trợ v.v. Từ đó, tác giả phân tích 3 vấn đề để tìm câu trả
lời: 1) Về phạm vi giáo dục, đào tạo nghề. Tác giả khẳng định, nền văn hoá
Việt Nam luôn có truyền thống tôn trọng học vấn, trước thời kỳ đổi mới mặc
dù gặp nhiều khó khăn Việt Nam vẫn đạt được mức độ biết chữ và bình đẳng
về giới rất đặc biệt, nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường (KTTT) thì
tỷ lệ bỏ học cao ở cấp trung học. Từ đó tác giả lập luận: mức học phí, sự thiếu
8
hụt kinh niên số giáo viên mới vào nghề ở mỗi cấp học, tiền lương thấp so với
các ngành nghề khác làm hạn chế phạm vi GD - ĐT nghề; 2) Về tăng cường
sử dụng LLLĐ và mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp. Tác giả nhận định, mặc
dù tỷ trọng GDP tương đối của ngành nông nghiệp giảm so với công nghiệp
và dịch vụ nhưng sự thay đổi cơ cấu trong sử dụng lao động hầu như không
biến động về mặt việc làm. Vì vậy, theo tác giả cần thực hiện cải cách chương
trình đào tạo và các cải cách giáo dục khác bao gồm tăng số lượng phòng học,
tăng số lượng giáo viên, nâng cấp trang thiết bị phục vụ giảng dạy, tăng tiền
lương 3) Về cơ cấu ngành nghề, lựa chọn công nghệ và sở hữu doanh
nghiệp. Tác giả cho rằng, đối với một nước mới thực hiện CNH như Việt
Nam nên phát triển ngành chế tạo, chế biến và các dịch vụ đi kèm, đồng thời
không thể lựa chọn công nghệ cao mà cần lựa chọn công nghệ phù hợp như
công nghệ phần mềm, nghiên cứu cơ bản.
Ngoài bài viết của GS.Geoffrey B.Hainsworth ra còn có các bài viết của
các nhà nghiên cứu khác như: TS.Nolwen Henaff, TS.Jean - Yves Martin,
GS.Geoffrey B.Hainsworth, TS.Fiona Hơwell, TS.Nguyễn Hữu Dũng,
TS.Trần Khánh Đức, PGS.Võ Đại Lược, TS.Trần Tiến Cường v.v. bàn về lao
động, việc làm và nguồn nhân lực. Tuy nhiên chưa có bài viết nào bàn chính

diện về tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt giải pháp để phát triển nguồn nhân lực vẫn
còn hết sức mờ nhạt.
Năm 2010, Nhà xuất bản Kinh tế quốc dân có biên dịch cuốn: Chuyển
hóa nguồn nhân lực [109] của các tác giả người Anh là TS William
J.Rothwell - chuyên gia cao cấp về nguồn nhân lực, giáo sư đào tạo và phát
triển lực lượng lao động tại Đại học bang Peennsylvania; TS Robert
K.Prescott - chuyên gia cao cấp về nguồn nhân lực, Phó giáo sư ngành quản
lý nguồn nhân lực tại Khoa Kinh tế sau đại học Crummer, Đại học Rollins và
9
TS Maria W.Taylor - Giám đốc giải pháp học tập của Công ty dịch vụ chuyên
nghiệp Raytheon- một trong những công ty hàng đầu trên thế giới về dịch vụ
học tập và thuê ngoài.
Cuốn sách gồm 3 phần, phần một bàn về “Chuyển hóa nguồn nhân lực”;
phần hai nói về sự cần thiết phải “Quan tâm đến các xu hướng tương lai”;
phần ba “Thiết lập vai trò mới của lãnh đạo nguồn nhân lực”.
Mục đích chính của cuốn sách là bàn về Chuyển hóa nguồn nhân lực,
không trực tiếp bàn đến phát triển nguồn lực con người, tuy nhiên những luận
giải của các tác giả liên quan đến nguồn lực con người là tài liệu tham khảo
bổ ích, nhất là sự luận giải của các tác giả về quan niệm “con người là tài sản
quý nhất”. Theo các tác giả “Để tối đa hóa thành tố con người, phải thiết kế
cơ cấu của tổ chức, hệ thống kế hoạch và kiểm soát, quản lý nguồn nhân lực
và văn hóa… hệ thống và các chính sách được xây dựng cho việc tuyển dụng,
duy trì, đào tạo và phát triển nghề nghiệp” [109, tr.56-57]. Đây là những gợi
mở cho chúng ta khi bàn về các giải pháp phát triển nguồn lực con người
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đặc biệt các tác giả rất quan tâm đến việc tăng cường tầm quan trọng
của vốn tri thức. Các tác giả đã dẫn lời của Peter Drucker rằng: “Tăng trưởng
kinh tế có thể chỉ đến từ sự gia tăng liên tục và mạnh mẽ năng suất lao động
của nguồn nhân lực trong đó các quốc gia phát triển vẫn có thể cạnh tranh (và

họ sẽ tiếp tục duy trì được vị thế này trong vài thập kỷ nữa), tri thức và nhân
công có tri thức” [109, tr.72]. Quan niệm này dường như có gì đó tương đồng
với chủ trương phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở nước ta.
Gần đây, nhà xuất bản Nhân dân Giang Tô (Trung Quốc) có ấn hành
cuốn Nhân tài nguồn tài nguyên số 1 của Trương Hạo Hàm, Hoàng Duy [50].
Cuốn sách gồm 12 chương, trong đó Chương II khẳng định “Nhân tài là lực
lượng tiên tiến trong nguồn tài nguyên con người” [50, tr.35]; “Nhân tài là
10
nền tảng cho đất nước phát triển phồn thịnh… ảnh hưởng đến tiến trình tương
lai của thế giới” [50, tr.37-38]. Do nhân tài có vị trí quan trọng trong quá trình
phát triển xã hội, do đó cần có chiến lược đào tạo, sử dụng nhân tài và phát
huy hiệu quả của nhân tài. Điều này được trình bày trong Chương VII,
Chương VIII, trong đó các tác giả nhấn mạnh “Phải dùng nhân tài vào việc
thích hợp và đúng sở trường thì mới thể hiện được giá trị của nhân tài… phải
đặt những nhân tài có sở trường đặc trưng vào các vị trí thích hợp” [50, tr.159].
Muốn có nhân tài phải “Học hỏi kinh nghiệm đầu tư cho nhân tài của các nước
phát triển” [50, tr.178]; phải “Chú trọng đầu tư chiến lược cho phát triển nhân
tài… Xây dựng cơ chế đầu tư nhân tài đa nguyên hóa” [50, tr.187-203].
Cuốn sách tuy bàn về “lực lượng tiên tiến trong nguồn tài nguyên con
người” nhưng đây là những gợi mở có giá trị tham khảo để phát triển nguồn lực
con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Không chỉ có các học giả nước ngoài, trong nhiều thập kỷ gần đây, các
học giả trong nước, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng cho ra mắt bạn đọc
nhiều công trình khoa học liên quan đến vấn đề nguồn lực con người và phát
triển nguồn lực con người. Chẳng hạn, năm 2003, Nxb Khoa học - Xã hội, Hà
Nội có ấn hành cuốn: Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục- đào tạo -
Kinh nghiệm Đông Á, của tác giả Lê Thị Ái Lâm [70]. Cuốn sách là một công
trình nghiên cứu khoa học công phu, tiếp cận theo chuyên ngành kinh tế thế
giới và quan hệ kinh tế quốc tế, được chia làm 3 phần: phần thứ nhất, tác giả
đưa ra các luận giải lý thuyết về phát triển NNL thông qua GD - ĐT trên cơ

sở trình bày khái niệm phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người, mối
quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực với CNH đồng thời tác giả đã đưa một
bộ khung lý thuyết với các luận điểm chính: nguồn nhân lực đóng góp cho
tăng trưởng kinh tế; nguồn nhân lực đóng góp cho nâng cao năng suất LĐ,
tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo và bất bình đẳng; xu thế phát triển kinh tế
11
tri thức và toàn cầu hoá tạo ra nhu cầu đại chúng đối với NNL chất lượng
cao; phần thứ hai, với 4 chương, tác giả tập trung vào phân tích thực tiễn
phát triển nguồn nhân lực thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Chương 1: Vai trò
phát triển NNL thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Tác giả phân tích vai trò phát
triển NNL thông qua GD - ĐT bằng những dẫn chứng thực tiễn từ các nền
kinh tế, các ngành và công ty đã chứng minh những luận điểm mà tác giả đưa
ra là có cơ sở. Chương 2: Chiến lược CNH và sự phù hợp lẫn nhau với phát
triển nguồn nhân lực thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Ở chương này, tác giả
trình bày 4 điều kiện thuận lợi bên ngoài và lợi thế bên trong để các nước
Đông Á xây dựng chiến lược CNH. Đặc biệt, tác giả đã phác thảo 4 giai đoạn
CNH và 4 giai đoạn này đặt ra những yêu cầu khác nhau của nguồn nhân lực.
Chương 3: Điều chỉnh phát triển nguồn nhân lực thông qua GD - ĐT ở Đông
Á. Trên cơ sở phác hoạ 4 giai đoạn của CNH, tác giả cho rằng, mỗi giai đoạn
có những yêu cầu khác nhau về phát triển NNL nên giáo dục cũng cần có sự
điều chỉnh thích hợp. Vì vậy, chương này tác giả nghiên cứu quá trình điều
chỉnh ở Đông Á trên các khía cạnh: mở rộng cơ hội đó cũng như xem xét các
yếu tố dẫn đến tiếp nhận giáo dục phổ thông theo tiến trình CNH; phát triển
hệ thống GD - ĐT nghề; xây dựng hệ thống giáo dục ĐH chất lượng cao.
Chương 4: Vấn đề và giải pháp hiện nay của phát triển nguồn nhân lực thông
qua GD - ĐT Đông Á. Tác giả phân tích một số vấn đề trong hệ thống phát
triển NNL thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Đáng chú ý là tác giả trình bày các
giải pháp phát triển NNL cho kinh tế tri thức ở Đông Á: nâng cao nhận thức
xã hội về học tập suốt đời; nhấn mạnh đào tạo lại và đào tạo nâng cao; cải
cách hệ thống giáo dục chính quy; khuyến khích và phát triển các hệ thống

giáo dục không chính quy; Phần thứ ba, là sự tổng kết toàn bộ những bài học
rút ra từ thực tiễn đã phân tích ở chương 3, 4, 5. Có 5 bài học được rút ra và
phân tích trong chương thứ 6 và chương thứ 7 đưa ra một số lưu ý về bối cảnh
12
phát triển NNL thông qua GD - ĐT hiện nay của Việt Nam, so sánh những
nét tương đồng và khác biệt về phát triển nguồn nhân lực thông qua GD - ĐT
ở Đông Á và Việt Nam, từ đó nêu ra 6 gợi ý để phát triển NNL thông qua GD
- ĐT ở Việt Nam đến 2010.
Có thể nói, cuốn sách đã trình bày một cách khá hệ thống nhiều vấn đề lý
luận liên quan đến nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực nhưng chỉ dưới
tác động của giáo dục - đào tạo, so với vấn đề mà NCS lựa chọn thì cách tiếp cận
này dường như là hẹp hơn rất nhiều. Nhưng dẫu sao thì đây cũng là tài liệu tham
khảo hết sức bổ ích để tác giả thực hiện luận án của mình.
Năm 2004, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội cho ấn hành cuốn
“Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam một số vấn đề lýluận và thực tiễn” do
Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng Ngân (chủ biên) [97]. Cuốn sách đã đi sâu
phân tích cơ sở khoa học về quản lý nguồn nhân lực cũng như các yếu tố tác
động đến quản lýnguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ CNH, HĐH. Ngoài
ra, các tác giả có đưa ra một số kinh nghiệm quản lý phát triển nguồn nhân
lực ở một số nước trên thế giới. Cho dù các tác giả chưa đề cập một cách trực
tiếp đến nội hàm phát triển nguồn nhân lực hay các giải pháp để phát triển
nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhưng
đây là tài liệu quý để tác giả tham khảo khi đề xuất các giải pháp - nhất là vấn
đề sử dụng, quản lý nguồn nhân lực.
Cuốn Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, của tác giả Nguyễn Thanh [114], cũng là một trong những công
trình khoa học bàn một số vấn đề liên quan đến đề tài của luận án. Cuốn sách
gồm ba phần, phần thứ nhất, tác giả trình bày một cách khái lược quan niệm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về
phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, từ đó tác giả cho rằng: trong

các nguồn lực thì nguồn lực con người có vai trò quyết định đối với quá trình
13
CNH, HĐH ở nước ta; Phần thứ hai, tác giả đánh giá khái quát thực trạng
NNL ở nước ta trên các khía cạnh: về số lượng, cơ cấu, trí lực, trình độ
chuyên môn kỹ thuật (CMKT) trên cơ sở đó tác giả đưa ra những định
hướng phát triển NNL có chất lượng đáp ứng được đòi hỏi của CNH, HĐH
bao gồm: gắn phát triển NNL với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển KT - XH;
gắn phát triển NNL với quá trình dân chủ hoá, nhân văn hoá đời sống xã hội,
khai thác có hiệu quả các giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại; nâng cao chất
lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ KH - CN; xây dựng chiến lược con
người trên cơ sở đó, phát triển NNL có chất lượng cho CNH, HĐH; Phần thứ
ba, làm rõ vai trò của giáo dục với tư cách là yếu tố quyết định trong chiến lược
phát triển con người, phát triển NNL có chất lượng phục vụ sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước.
Tác giả Đoàn Văn Khái có cuốn Nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam [66]. Trong cuốn sách này, tác giả
đã trình bày bản chất, đặc trưng và tính tất yếu của CNH, HĐH ở Việt Nam
hiện nay, phân tích vai trò của nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, tác giả cũng đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm
khai thác và phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH,
HĐH ở Việt Nam.
Ở chương 1, tác giả phân tích một số vấn đề chung về CNH, HĐH,
nhưng đáng chú ý nhất là sự khái quát các mô hình CNH trên thế giới. Ở
chương 2, tác giả đưa ra khái niệm nguồn lực con người với nội hàm rộng bao
hàm 6 mặt cơ bản và xuất phát từ vị trí, đặc điểm của nguồn lực con người
trong quan hệ so sánh, quan hệ tác động với các nguồn lực khác và nhấn
mạnh, trong điều kiện kinh tế tri thức vai trò của nguồn lực con người càng
tăng lên gấp bội nhờ phát huy sức mạnh trí tuệ, nó trở thành nguồn lực của
mọi nguồn lực. Trong chương 3 và chương 4, tác giả đánh giá một cách toàn
14

diện thực trạng và đặc điểm nguồn lực con người của nước ta từ năm 2001
- 2005 về số lượng, cơ cấu, chất lượng và rút ra 6 nhận xét, từ đó tác giả
cho rằng, nguồn lực con người của nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu
CNH, HĐH. Để đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH đòi hỏi người LĐ phải
có năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi và kỹ năng LĐ giỏi, do đó tác giả
đề xuất 3 nhóm giải pháp lớn để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn
lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH: nhóm giải pháp về khai thác
hợp lý, có hiệu quả nguồn lực con người; nhóm giải pháp về phát triển
nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH; nhóm giải pháp về xây
dựng môi trường xã hội thuận lợi, phục vụ cho việc khai thác, sử dụng có
hiệu quả nguồn lực con người.
Trong cuốn Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện đại
hóa - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam [117], tác giả Vũ Bá Thể đã
phân tích, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến nguồn nhân lực cũng
như kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở một số nước như Nhật Bản, Mỹ,
các nước Châu Á - Thái Bình Dương.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng nguồn nhân lực nước ta cả về quy mô, tốc
độ, chất lượng; từ kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở một số nước, tác
giả đề xuất 4 giải pháp nhằm phát triển NNL của Việt Nam trong thời gian
tới: nhóm giải pháp phát triển giáo dục phổ thông; nhóm giải pháp phát triển
giáo dục CĐ, ĐH và trên ĐH; nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
NNL hiện có; nhóm giải pháp nâng cao trạng thái sức khoẻ NNL.
Cuốn An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực, của Mạc Văn Tiến
[120], tập hợp các bài viết trong nhiều năm của tác giả. Cuốn sách được chia
làm 3 phần: phần thứ nhất tập hợp một số bài viết liên quan đến vấn đề an
sinh xã hội; phần thứ hai gồm những bài viết về bảo hiểm xã hội; phần thứ ba
tập hợp những bài viết về phát triển nguồn nhân lực. Trong phần thứ ba, có
15
nhiều bài viết mà NCS có thể tham khảo, kế thừa và phát triển trong quá trình
thực hiện luận án như: một số vấn đề về phát triển NNL ở nước ta; phát triển

NNL và chính sách phát triển NNL của một số nước; phát triển NNL và chính
sách phát triển NNL thời kỳ CNH, HĐH; thực trạng chất lượng NNL ở Việt
Nam Trong đó đáng chú ý là bài viết: Vai trò của nguồn nhân lực trong nền
kinh tế thị trường.
Theo tác giả, nhân loại đang đứng trước thềm của sự phát triển mới của
xã hội loài người là chuyển sang nền kinh tế tri thức, nhưng đối với Việt Nam
mới bước đầu tiến hành CNH, HĐH, vì vậy phải đi tắt, đón đầu nếu không
chúng ta sẽ bị tụt hậu xa hơn so với các nước trên thế giới. Để làm được điều
đó, theo tác giả không có con đường nào tốt hơn là phải chú trọng phát triển
nguồn nhân lực.
Trong cuốn: Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển
vọng do Nguyễn Văn Khánh (Chủ biên) [67]. Cuốn sách gồm 4 chương.
Chương 1 giải quyết “Những vấn đề lý luận chung về trí tuệ, nguồn lực trí
tuệ, xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ”. Chương 2 bàn về “Kinh nghiệm
xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ của Việt Nam và một số nước trên thế
giới”. Chương 3 đề cập đến “Thực trạng nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội” và chương 4 chủ yếu bàn về “Xây dựng và phát
huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”. Đối
tượng được các tác giả đề cập đến trong cuốn sách này là nguồn lực trí tuệ,
chứ không phải nguồn nhân lực nói chung, nhưng những luận giải cũng như
phương pháp tiếp cận vấn đề của các tác giả có nhiều điểm có thể kế thừa
trong quá trình NCS triển khai mục tiêu và nhiệm vụ của luận án.
Khai thác và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam là cuốn sách do
Nguyễn Văn Phúc và Mai Thị Thu, đồng chủ biên [107]. Nội dung cuốn sách
được trình bày trong 3 chương. Chương 1 “Tài nguyên nhân lực Việt Nam”.
16
Chương 2 “Thực trạng khai thác và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam”.
Chương 3 “Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác, phát triển
tài nguyên nhân lực Việt Nam giai đoạn 2012-2020”. Tuy không thật đồ sộ,
nhưng cuốn sách đã cung cấp cho chúng ta bức tranh khá toàn diện về khai

thác và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam. Những phân tích của các tác
giả về Những nhân tố tác động tới sự phát triển của tài nguyên nhân lực Việt
Nam [107, tr.47- 92] hay thực trạng khai thác và phát triển tài nguyên nhân
lực Việt Nam [107, tr.93- 161].v.v là tư liệu tham khảo trực tiếp mà NCS có
thể kế thừa.
Tạp chí Triết học (số 2 - 1994) có bài “Nguồn nhân lực trong công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn [10].
Trong bài viết này, người viết đã phân tích, làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên
quan đến nguồn nhân lực, chỉ ra tầm quan trọng, yêu cầu phát triển nguồn
nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong bài “Nguồn lực con người và phát triển nền kinh tế tri thức”,
đăng ở Tạp chí Khoa học Xã hội (2008) tác giả Phạm Thị Hồng Điệp [39] đã
có những luận giải về vai trò của nguồn lực con người trong nền kinh tế tri
thức. Theo tác giả trong điều kiện kinh tế tri thức, lợi thế cạnh tranh giữa các
quốc gia, dân tộc thuộc về nguồn nhân lực được đào tạo một cách cơ bản, có
hệ thống và một khi nguồn nhân lực này được khai thác một cách hợp lý thì
nó sẽ không ngừng gia tăng giá trị của nó.
Tạp chí Triết học số 1- 2004 có đăng bài viết của Nguyễn Đình Hòa về
“Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” [53]. Trong bài viết này, tác giả đã góp phần làm sáng tỏ một số khái
niệm, phạm trù trung tâm, như: nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực; công
nghiệp hóa, hiện đại hóa v.v cũng như mối quan hệ biện chứng giữa phát triển
nguồn nhân lực với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
17
Tác giả Phạm Công Nhất trong bài “Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế”, đăng ở Tạp chí Cộng sản,
(2008) (số7/151). http:/www.tapchicongsan.org.vn [101]. đã có những đánh
giá về thực trạng phát triển nguồn nhân lực của nước ta trong thời gian qua và
khẳng định Việt Nam có khả năng trong việc tận dụng các thời cơ để phát
triển kinh tế- xã hội một cách năng động trên cơ sở nguồn nhân lực của mình.

Tuy nhiên, hiện tại Việt Nam đang phải từng bước vượt qua những thách thức
ngày càng trở nên gay gắt trong việc xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước đang trong quá trình đổi mới và
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Trong luận án tiến sỹ Triết học: Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đà Nẵng, (2008), tác giả Dương Anh Hoàng [55]
đã phân tích, bước đầu làm sáng tỏ một số khái niệm công cụ như nguồn nhân
lực, phát triển nguồn nhân lực. Theo cách tiếp cận của mình, tác giả cho rằng,
nội hàm của khái niệm nguồn nhân lực bao gồm 2 yếu tố cơ bản cấu thành, đó
là số lượng nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực. NCS cho rằng đây
là cách tiếp cận hợp lý, mang tính khái quát triết học. Đặc biệt trong công
trình của mình, tác giả đã chỉ ra được 3 điểm tương đồng và 3 điểm khác biệt
trong phát triển nguồn nhân lực giữa Việt Nam và các nước trong khu vực để
từ đó rút ra 4 bài học kinh nghiệm về phát triển NNL cho Việt Nam nói chung
và Đà Nẵng nói riêng; làm rõ 4 đặc điểm cơ bản của quá trình CNH, HĐH ở
Đà Nẵng và theo tác giả chính những đặc điểm này quy định chiến lược phát
triển NNL của Đà Nẵng. Sau khi phân tích thực trạng phát triển NNL của Đà
Nẵng thời gian qua, tác giả đưa ra 3 quan điểm có tính chất định hướng và đề
xuất 4 giải pháp để phát triển NNL cho CNH, HĐH ở Đà Nẵng trong thời
gian tới. Các giải pháp được tác giả luận án đề cập đến đó là: phát triển KT -
XH, nâng cao chất lượng GD - ĐT, phát triển KH - CN và xây dựng nếp sống
18
văn minh đô thị. Trong đó giải pháp nâng cao chất lượng GD - ĐT được tác
giả phân tích khá thuyết phục.
Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở một địa phương thuộc khu vực miền trung có nhiều điểm tương
đồng với phạm vi đề tài nghiên cứu của NCS, do đó những kết quả đạt được
của luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho NCS trong quá trình thực hiện
luận án của mình.
Từ góc độ kinh tế học, tác giả Bùi Sỹ Lợi nghiên cứu vấn đề: Phát triển

nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hoá
đến năm 2010 [78]. Đây là Luận án tiến sỹ Kinh tế học của tác giả bảo vệ năm
2002. Với cách tiếp cận liên ngành, tác giả luận án đã tập trung làm rõ một số
khái niệm công cụ, như khái niệm nhân lực, con người, nguồn nhân lực và phát
triển nguồn nhân lực. Một trong những nội dung của luận án là việc phác thảo
những đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực; phân tích 3 nhóm nhân tố tác
động đến phát triển NNL: nhóm nhân tố về mặt tự nhiên, nhóm nhân tố về KT
- XH, nhóm nhân tố thuộc về cơ chế chính sách cũng như việc phân tích, đánh
giá thực trạng phát triển NNL ở tỉnh Thanh Hoá từ năm 1996 đến năm 2000.
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra 4 quan điểm và đề xuất 5 nhóm giải pháp để phát
triển NNL trong thời kỳ CNH, HĐH ở Thanh Hoá đến năm 2010. Đây là một
trong những gợi mở hữu ích đối với NCS trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Năm 2013, NCS Nguyễn Thị Giáng Hương đã bảo vệ thành công luận án
tiến sĩ triết học, chuyên ngành CNDVBC và CNDVLS với đề tài: Vấn đề phát
triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay [59]. Trong luận
án này ngoài việc làm rõ một số khái niệm công cụ, như: nguồn nhân lực;
nguồn nhân lực nữ; nguồn nhân lực nữ chất lượng cao v.v. tác giả đi sâu phân
tích tầm quan trọng, nét đặc thù cũng như những yếu tố cơ bản tác động đến
19
việc phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay. Trên cở
sở khảo sát thực trạng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam,
tác giả đề xuất ba nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ
chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay. Đó là nhóm giải pháp kinh tế, văn hóa, xã
hội; nhóm giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của chủ thể và toàn xã hội trong
việc phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay và
nhóm giải pháp thuộc về công cụ pháp lý.
Khảo sát một số công trình nghiên cứu trên đây cho thấy một số vấn đề lý
luận chung về nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người đã được
một số tác giả đề cập đến trong một số công trình khoa học của mình. Phần lớn

các kết quả nghiên cứu đó (trực tiếp hay gián tiếp) đều cho rằng trong các
nguồn lực của sản xuất, nguồn lực con người giữa vai trò quan trọng nhất và,
để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đảm
bảo cả về số lượng và chất lượng, hợp lý về cơ cấu.
Tuy nhiên các công trình đó hoặc là nghiên cứu ở tầm vĩ mô, hoặc là ở
một địa phương nào đó chứ chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
hệ thống, căn bản (từ góc độ triết học cũng như các lĩnh vực khoa học khác) về
phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Nghệ An hiện nay. Đây là vấn đề luận án cần phải đi sâu nghiên cứu.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN
ĐẠI HOÁ
Do mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là phân tích tầm quan
trọng của việc phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, ở tỉnh Nghệ An nói riêng, từ đó đề xuất
quan điểm định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực
con người trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nghệ An
20
hiện nay, nên vấn đề CNH, HĐH - với tư cách là bối cảnh để phát triển nguồn
lực con người - không được tác giả tổng quan thành một mục riêng.
Có thể thấy rằng những công trình nghiên cứu chuyên biệt về giải pháp
phát triển nguồn lực con người không nhiều, sự nghiên cứu đó thường chiếm
một dung lượng không lớn trong một số công trình có liên quan đến nguồn
nhân lực, đến phát triển nguồn lực con người. Trong một số cuốn sách, bài
viết nhất là trong các luận án, luận văn có liên quan đến vấn đề này, việc đề
xuất các giải pháp để phát triển nguồn lực con người thường xuất hiện sau khi
khảo sát thực trạng nguồn nhân lực hay phát triển nguồn nhân lực.
Một trong những nghiên cứu trực diện về vấn đề này đó là đề tài nghiên
cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III "Những
giải pháp phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng” năm 2005, do Nguyễn Văn Nam làm chủ
nhiệm [95]. Đề tài đã nêu được thực trạng nguồn lực con người ở thành phố
Đà Nẵng, từ những thực trạng đó, đề tài nêu lên các phương hướng, giải pháp
chủ yếu nhằm phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố.
Tác giả Đoàn Văn Khái trong cuốn: Nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội-2005 [66], sau khi trình bày bản chất, đặc trưng và tính tất yếu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, phân tích vai trò của nguồn lực
con người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, tác giả đề xuất 3 nhóm giải pháp lớn để khai thác và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó
là: 1) nhóm giải pháp về khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn lực con
người; 2) nhóm giải pháp về phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và 3) nhóm giải pháp về xây dựng môi
21
trường xã hội thuận lợi, phục vụ cho việc khai thác, sử dụng có hiệu quả
nguồn lực con người.
Cũng trong năm 2005, tác giả Vũ Bá Thể trong cuốn: Phát huy nguồn lực
con người để công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn
Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội [117], đã đề xuất 4 giải pháp nhằm
phát triển NNL của Việt Nam trong thời gian tới: nhóm giải pháp phát triển
giáo dục phổ thông; nhóm giải pháp phát triển giáo dục cao đẳng, đại học và
trên đại học; nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng NNL hiện có; nhóm
giải pháp nâng cao trạng thái sức khoẻ NNL. Trong nhóm các giải pháp được
tác giả đề cập đến, nhóm giải pháp nâng cao trạng thái sức khoẻ nguồn nhân
lực là một trong những điểm đáng chú ý, trong điều kiện cho phép chúng ta
quan tâm đến vấn đề chất lượng dân số.
Trong cuốn: Khai thác và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam các
tác giả Nguyễn Văn Phúc và Mai Thị Thu (đồng chủ biên, được Nxb CTQG

ấn hành năm 2012) [107], đã đưa ra “Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu
quả khai thác, phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam giai đoạn 2012-
2020”. Theo đó, nhóm thứ nhất bao gồm “Những giải pháp nâng cao hiệu quả
khai thác, sử dụng tài nguyên nhân lực Việt Nam” [107, tr.198-214]; nhóm
thứ hai, “Nhóm giải pháp phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam” [107,
tr.215-245]. Trong nhóm giải pháp này, các tác giả đặc biệt quan tâm đến giải
pháp “Cải cách và nâng cấp hệ thống đào tạo và phát triển tài nguyên nhân
lực” [107, tr.218-223]. Điều này xuất phát từ thực trạng “Trình độ chuyên
môn, kỹ thuật thấp… số lao động đã qua đào tạo của Việt Nam thuộc loại
thấp trong khu vực cũng như trên thế giới. Năm 2010… số lao động được các
cơ sở đào tạo, dạy nghề cấp bằng, chứng chỉ chuyên môn nghiệp vụ (tức là số
lao động có nền tảng kiến thức nghề nghiệp cơ bản) chỉ chiếm gần 17,2%
tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế” [107, tr.104].

×