Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Bước đầu nghiên cứu khả năng phòng hộ cải tạo đất và nước của rừng tràm ở vùng lũ Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen, tỉnh Long An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.17 MB, 88 trang )


Tôi xin cam đoan nghiên cứu này là của riêng cá nhân tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận văn này mà tôi sử dụng chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.


i

Trong thời gian thực hiện đề tài, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của các thầy giáo, cô giáo,
các tổ chức, cá nhân, bạn bè, đồng nghiệp trong và ngoài trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo TS. Trần Quang Bảo -
người thầy đã định hướng, khuyến khích và chỉ dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa đào tạo Sau đại học
Trường Đại học Lâm nghiệp, Ban Giám đốc, ban Khoa học công nghệ Cơ sở 2
Trường Đại học Lâm nghiệp đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới tập thể lãnh đạo, cán bộ Viện Sinh thái
rừng và Môi trường – Trường Đại học Lâm nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ
tôi trong quá trình thu thập số liệu, thực hiện đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các bạn bè, đồng nghiệp và
người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Dù đã hết sức cố gắng song không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong
được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn hoàn
thiện hơn.


Tác giả

ii



LỜI CAM ĐOAN………………………………………………………… …i
LỜI CẢM ƠN…………………………………………………………… …ii
MỤC LỤC……………………………………………………………….… iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT……………………………… ……….v
DANH MỤC CÁC BẢNG…………………………………………… …….vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ ………………………… … vii
ĐẶT VẤN ĐỀ.………………… …………………………… …………….1
3.1. Mục tiêu nghiên cứu 24
!"#$
DBL Diễn biến lũ
ĐBSCL Đồng bằng song Cửu Long
ĐNN Đất ngập nước
JICA Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
HST Hệ sinh thái
IUCN Quỹ bảo tồn thiên nhiên quốc tế
OTC Ô tiêu chuẩn
NXB Nhà xuất bản
QL1A Quốc lộ 1 A
VL Vận tốc dòng chảy lũ
KBT Khu bảo tồn
iii
!%&
'()* +* ,-
Bảng 4.1
Tổng hợp kết quả tính toán các đặc trưng mẫu
của các ô tiêu chuẩn nghiên cứu
35
Bảng 4.2
Bảng tổng hợp giải tích thân cây

38
Bảng 4.3
Bảng 4.4: Kết quả phân tích đất tại khu bảo tồn
ngập nước Láng Sen
39
Bảng 4.4
Hàm lượng các chất trong đất tại khu bảo tồn
ngập nước Láng Sen
44
Bảng 4.5 Diễn biến mực nước lũ ở đầu nguồn 51
Bảng 4.6 Giá trị đỉnh lũ trong 10 năm quan trắc 52
Bảng 4.7
Mực nước lũ trung bình 10 năm và các tháng
trong năm (cm)
53
Bảng 4.8
Bảng tổng hợp giá trị VL tại một số điểm điều tra
57
Bảng 4.9 Kết quả phân tích nước tại khu vực nghiên cứu 59
Bảng 4.10
Hàm lượng các chất trong nước tại một số trạng
thái
61
iv
!./012
'()3
456789
+356789 ,-
Hình 2.1
Bản đồ khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen,

Long An 15
Biểu đồ 4.1
Biểu đồ tương quan phân bố số cây theo đường
kính
35
Biểu đồ 4.2
Biểu đồ tương quan phân bố số cây theo chiều
cao vút ngọn
36
Biểu đồ 4.3 Biểu đồ tương quan giữa H
vn
và D
1.3
37
Biểu đồ 4.4
Biểu đồ so sánh hàm lượng AL và Fe của đất
trồng lúa ở các năm khác nhau
45
Biểu đồ 4.5
Biểu đồ so sánh hàm lượng Fe và Al trong đất ở
các trạng thái khác nhau
46
Biểu đồ 4.6 Biểu đồ diễn biến đỉnh lũ 52
Biểu đồ 4.7 Biểu đồ biến động mực nước lũ trung bình năm
Biểu đồ 4.8
Biểu đồ hàm lượng Al trong nước tại một số
trạng thái
62
Biểu đồ 4.9
Biểu đồ chỉ số pH trong nước tại một số trạng

thái
63
Biểu đồ 4.10
Biểu đồ hàm lượng Fe trong nước tại một số
trạng thái
64
Biểu đồ 4.11 Biểu đồ tương quan giữa D1.3 & DBL 65
Biểu đồ 4.12 Biểu đồ tương quan giữa Hvn & DBL 66
Biểu đồ 4.13 Biểu đồ tương quan giữa tuổi rừng & DBL 67
v
Biểu đồ 4.14 Biểu đồ tương quan giữa bề rộng đai rừng và VL 68
vi
:;<
Ở Việt Nam, rừng không chỉ là nguồn cung cấp những sản phẩm phục vụ
sinh hoạt hàng ngày, phục vụ nhu cầu công nghiệp, thủ công nghiệp và xuất
khẩu, mà còn là yếu tố phòng hộ không thể thay thế được nhờ tác dụng giữ
nước, bảo vệ đất, chắn gió, chắn sóng, chắn cát bay, ngăn chặn các quá trình
sa mạc hoá, mặn hoá, phèn hoá, điều hoà khí hậu, cải thiện môi trường và
phòng tránh thiên tai. Suy giảm diện tích và chất lượng rừng trong những thập
kỷ qua đã được coi là một trong những nguyên nhân chính của sự gia tăng lũ
lụt, hạn hán, suy thoái đất đai, suy thoái nguồn nước, gây nên đói nghèo và
bất ổn ở nhiều vùng của đất nước. Bảo vệ và phát triển rừng đã được xem là
một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần vào sự nghiệp phát triển bền
vững của đất nước. Tuy nhiên, diện tích rừng thực sự cần thiết là bao nhiêu,
phân bố cụ thể ở những địa điểm nào để đảm bảo an toàn về môi trường hiện
còn là câu hỏi chưa được giải đáp thoả đáng. Vì vậy, trong một số trường hợp
này người ta tăng diện tích rừng bảo vệ lên một cách quá mức cần thiết làm
hạn chế phát triển các hoạt động sử dụng đất khác. Ngược lại, trong một số
trường hợp khác người ta lại giảm diện tích rừng xuống quá thấp, làm ảnh
hưởng xấu đến môi trường, gia tăng những thiên tai như hạn hán và lũ lụt,

hoang hoá đất đai v.v gây tổn hại đến đời sống của con người và thiên
nhiên. Vì thiếu những nghiên cứu về ảnh hưởng của rừng đến các thành phần
môi trường mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa có được cơ sở khoa học đầy đủ
cho việc xác định diện tích tối thiểu và phân bố cần thiết của rừng phòng hộ.
Vì vậy, việc quy hoạch diện tích rừng của chúng ta vẫn phần nào mang tính
tuỳ tiện, làm giảm hiệu quả của quy hoạch lâm nghiệp. Thực tiễn đã cho thấy
để xác định được diện tích và phân bố rừng phòng hộ cần nghiên cứu quy luật
tác động của nó đến đến các thành phần môi trường, đặc biệt là ảnh hưởng
đến đất và nước. Từ đó, xác định được những ngưỡng về tỷ lệ che phủ để
1
rừng phát huy những tác dụng sinh thái của nó cho bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững nói chung.
Đồng bằng sông Cửu Long là phần đất cuối cùng của lưu vực sông Mê
kông trước khi đổ ra biển. Vùng đồng bằng có một hệ sinh thái tự nhiên rất
phong phú và nhạy cảm. Đây là nơi sản xuất nông sản và thuỷ sản cho cả
nước. Đồng bằng sông Cửu Long có hơn 75% dân số trong 18 triệu người
đang sinh sống ở vùng nông thôn, canh tác trên 2,4 triệu ha đất nông nghiệp,
gần 700 ngàn ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản và đang ngày đêm phải đối mặt
thường xuyên với những điều kiện bất lợi về môi trường do điều kiện tự nhiên
mang lại như: lũ lụt, hạn hán, đất phèn, nhiễm mặn Rừng tràm là một bộ
phận hợp thành của hệ sinh thái nông nghiệp nơi đây, nó chịu ảnh hưởng của
các yếu tố môi trường đất, nước, khí hậu và đa dạng sinh học đồng thời thông
qua các yếu tố cấu trúc lớp thảm thực vật của mình, bao gồm: kích thước, sinh
khối, mật độ, phân bố của quần xã từ đó cũng ảnh hưởng đến những yếu tố
môi trường như: dòng chảy lũ, tính chất nước, tính chất đất, đặc điểm tiểu khí
hậu, đặc điểm đa dạng sinh học của khu vực. Vì vậy, diện tích và phân bố
rừng tràm cần thiết là bao nhiêu tại vùng lũ đồng bằng sông Cửu Long để đảm
bảo ổn định được hoàn cảnh môi trường và duy trì được năng suất các hệ sinh
thái xung quanh ở mức cao là một câu hỏi lớn cần có lời giải trong thời gian
tới. Để góp phần giải quyết vấn đề thực tiễn trên, đề tài: 

 !"#$%$&!'()*+
, -./0123.45 được thực hiện.
2
=>6
?&@A;<&BCA
DEDE,+8FG
676767 8!9$%$
Tràm (Melaleuca) là một Chi thuộc họ Sim (Myrtaceace) có phân bố tự
nhiên từ Australia đến Việt Nam [15]. Các lâm phần Tràm tự nhiên thường
mọc thuần loài, đều tuổi. Trong những lâm phần tự nhiên quá trình tỉa thưa tự
nhiên diễn ra rất mạnh do sự cạnh tranh về chất dinh dưỡng, nước và ánh sáng
[17].
Okubo et al. [21] đã tiến hành so sánh sinh trưởng của Tràm M.
cajuputi trên 3 lập địa: tầng than bùn dày (>1m), than bùn mỏng (<1m) và đất
cát podzol. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt rõ rệt về sinh trưởng của
Tràm trên cả ba lập địa, tuy nhiên năng suất tiềm năng của lâm phần tốt nhất
nhất trên các vùng có than bùn dày và đất chua ngập nước (axit sulfate).
Yamanoshita et al. [22], [19] đã kết luận, mặc dù có tốc độ sinh trưởng bằng
nhau, nhưng năng suất tiềm năng của Tràm trên đất than bùn dày không cao
bằng các loài ưu thế khác ở rừng mưa nhiệt đới. Osaki et al. [19] đã tiến hành
nghiên cứu sinh trưởng của nhiều loài bản địa, trong đó có Tràm M. cajuputi,
trên đất than bùn có nồng độ nhôm (Al) và pH khác nhau. Nghiên cứu của
Yamanoshita et al. [22], [19] cho thấy Tràm có thể sinh trưởng tốt trong điều
kiện ngập nước kéo dài.
Nghiên cứu của Crase et al. [15] về khả năng tái sinh sau lửa của Tràm
(Melaleuca triumphalis) ở vùng phía Bắc của Úc. Tràm là một loài cây có khả
năng chịu lửa, khả năng tái sinh sau lửa rất mạnh thể hiện mật độ quần thể ở
những nơi bị cháy lớn hơn rất nhiều so với các quần thể đối chứng (không
3
cháy sau một thời gian dài). Khả năng chống chịu lửa của rừng Tràm phụ

thuộc rất lớn và kích thước và quy mô đám cháy và được xác định thông qua
khối lượng vật liệu cháy, cường độ đám cháy và mùa cháy [20]. Lửa xuất hiện
thường xuyên với cường độ lớn sẽ đốt cháy hoặc làm triệt tiêu khả năng nảy
mầm của hạt [13]. Nghiên cứu của Yates and Russell-Smith [20] đã cho thấy
rừng Tràm có khả năng chịu đựng được tổn thương do lửa thường xuyên, tuy
nhiên, khoảng cách giữa hai lần cháy phải đủ dài để cây lớn lên đạt kích
thước tối thiểu để ra hoa và kết quả trở lại và tồn tại sau lửa.
Franklin et al. [17] đã tiến hành điều tra 340 ô tiêu chuẩn phân bố trên
vùng diện tích rộng 450,000 km2 ở phía bắc Úc để nghiên cứu quy luật phân
bố và tái sinh của rừng Tràm. Kết quả cho thấy của Tràm Melaleuca argentea
thích hợp với nền đất cát và phân bố chúng bị giới hạn bởi các dòng sông.
Trong khi đó Tràm Melaleuca cajuputi lại thích hợp với đất thịt và xuất hiện ở
các vùng đất thấp ven biển. Các loài Tràm Melaleuca dealbata, M. viridiflora
and M. leucadendra có phân bố trên nhiều loại đất khác nhau phụ thuộc vào
tình trạng ngập lụt. Tràm M. argentea and M. leucadendra phân bố ở các vùng
ngập dọc sông. Ngược lại M. leucadendra và M. cajuputi lại xuất hiện ở vùng
đầm lầy ở cửa sông. Các tác giả đã đi đến kết luận, ở các vùng nhiệt đới phía
bắc nước Úc, rừng Tràm thay thế rừng mưa nhiệt đới ở những nơi có lửa cháy
hoặc ngập lụt mạnh Franklin & Bowman [17]. Tuy nhiên, ở các khu vực cao
hơn, sự xuất hiện của lửa thường xuyên đã hạn chế sự xâm lấn của Tràm với
thảm thực vật khác như savan, trảng cỏ. Điều này đã được chứng minh trong
nghiên cứu đốt thử của Crowley et al [15] trong vòng 3 năm liên tục và so
sánh với khu vực không có lửa cháy trong vòng 20 năm đã làm tăng mật độ
Tràm Melaleuca viridiflora lên 7 lần.
Bowman và Rainey [12] đã nghiên cứu ảnh hưởng của độ cao địa hình
đến cấu trúc đường kính của Tràm Melaleuca cajuputi trên các vùng bán ngập
4
ở phía bắc Úc. Kết quả cho thấy Tràm M. cajuputi phân bố ở độ cao từ 1 -
6m, không có biến động lớn về cỡ kính trong các độ cao này. Phân bố số cây
của Tràm M. cajuputi theo cấp kính là gián đoạn không liên tục, nguyên nhân

chính là do tác động của cháy rừng.
Theo Dr. Jon Davies năm 2008, mực nước ở rừng trên than bùn vùng
Pekan của Malaixia rất it khi xuống dưới 20cm và đây cũng là điều kiện thủy
văn của hầu hết các vùng rừng than bùn nhiệt đới. Nó đảm bảo điều kiện yếm
khí để tốc độ oxy hoá và phân huỷ than bùn chậm hơn hơn tốc độ hình thành
luỹ chúng, lớp than bùn sẽ ổn định và cao dần lên. Trước đây, với quy mô
diện tích hàng trăm nghìn hecta và không có kênh rạch rừng Tràm trên than
bùn của Việt Nam cũng đã có phần lớn thời gian trong năm ngập nước và
mực nước không nằm thấp hơn mặt than bùn quá 20cm. Chỉ như vậy, than
bùn mới có thể tồn tại lâu dài trong điều kiện nhiệt đới nóng ẩm.
6767:7 8!9!#$"#$%
Nghiên cứu về vai trò phòng hộ của rừng đã được thực hiện từ những
đầu thế kỉ trước. Người ta tập trung chủ yếu vào vai trò của rừng trong việc
ngăn cản xói mòn và phục hồi đất, vai trò bảo vệ nguồn nước, chắn gió và
chắn cát.
Công trình nghiên cứu đầu tiên về xói mòn đất có ý nghĩa quan trọng
nhất trong lĩnh vực xói mòn đất đã được thực hiện bởi Volli từ năm 1844. Tác
giả khẳng định xói mòn được thực hiện qua hai pha chủ yếu là bắn phá làm
tơi rời các hạt đất và cuốn trôi chúng, trong đó pha đầu là quan trọng nhất. Để
bảo vệ đất cần giảm được động năng mưa làm sự bắn phá tơi rời đất của các
hạt mưa là có ý nghĩa quyết định trong chống xói mòn bảo vệ đất. Về sau
nghiên cứu định lượng về xói mòn đã được thực hiện ở nhiều nơi trên thế
giới. Phương trình xói mòn đất được áp dụng rộng rãi nhất cho đến nay là
5
phương trình của Wischmeier, được tác giả và các công sự xây dựng từ năm
1956. Trong đó thể hiện được liên hệ của xói mòn đất với 6 nhân tố ảnh
hưởng là chế độ mưa, tính chất đất, độ dốc, chiều dài sườn dốc, kiểu trồng cây
và biện pháp bảo vệ đất. Phương trình của Wischmeier đã gợi ý về các biện
pháp chống xói mòn bảo vệ đất. Đó là tất cả những giải pháp nhằm giảm thiểu
một hoặc một nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến xói mòn đất trong các phương

trình của wischmeier. Tuy nhiên, việc áp dụng phương trình này cũng gặp
nhiều khó khăn, đặc biệt trong điều kiện thiếu dữ liệu nghiên cứu cơ bản để
xác định các thông số cần thiết, chẳng hạn thiếu dữ liệu về mưa, thiếu dữ liệu
về khả năng chống xói mòn của đất, hay dữ liệu về ảnh hưởng của các kiểu
trồng cây đến xói mòn v.v
Những nghiên cức về ảnh hưởng của rừng đến các quá trình tích luỹ và
vận chuyển nước, hay các quá trình thuỷ văn, cũng được nghiên cứu từ đầu
thế kỷ 19. Công trình nghiên cứu đầu tiên về thuỷ văn rừng được ghi nhận là
công trình của A. A. Monchanop (1860). Ông đã xác lập được phương trình
cân bằng nước và vai trò của rừng với các thành phần cân bằng nước ở miền
nam nước Nga. ý nghĩa quan trọng của công trình này là hình thành phương
pháp nghiên cứu về thuỷ văn rừng, trong đó công cụ quan trọng để nghiên
cứu là phương trình cân bằng nước.
Đến nay, trong quan điểm chung, vai trò giữ nước của rừng được hiểu
là giữ và tích luỹ nước ở bất kỳ dạng nào - làm tăng lượng nước trong đất,
giảm bốc thoát hơi nước, tăng mực nước ngầm, giảm dòng chảy bề mặt, hạn
chế xói mòn đất, qua đó làm tăng và ổn định lượng nước sông suối, cũng như
làm sạch nước (Monchanop, 1960, 1973; Khanbecop, 1984; Whitehead và
Robinson, 1993; Bonell, 1993).
6
Khả năng giữ nước của rừng được phản ánh thông qua ảnh hưởng của
nó đến hiệu ích của nguồn nước, nên về nguyên tắc có thể sử dụng nhiều chỉ
tiêu khác nhau để đánh giá khả năng giữ nước của rừng như: mức thay đổi
của hàm lượng các chất hoá học, các chất hoà tan trong nước sau khi đã dịch
chuyển qua hệ sinh thái rừng, hệ số dòng chảy bề mặt, mực nước ngầm, tần
suất lũ hoặc dùng các chỉ tiêu trực tiếp có ảnh hưởng đến nguồn nước như các
nhân tố cấu trúc rừng, các tính chất vật lý của đất rừng, v.v Tuy nhiên, xét
về tính đại diện và khả năng dễ xác định thì hệ số dòng chảy bề mặt, lượng
nước giữ lại trong đất là những chỉ tiêu tốt nhất phản ánh khả năng giữ nước
của rừng. Dòng chảy mặt càng thấp, lượng nước giữ lại trong đất càng nhiều,

khả năng giữ nước của rừng sẽ càng tốt.
G.Fiebiger đã dùng khái niệm “Dung tích giữ nước của rừng” để phản
ánh khả năng giữ nước của nó và được xác định bằng tổng lượng nước giữ lại
trên tán, lượng nước giữ lại bởi vật rơi rụng và lượng nước tích giữ trong đất.
Quan điểm này được các nhà thuỷ văn rừng chấp nhận một cách rộng rãi
(Trần Huệ Tuyền, 1994; Vu Chí Dân và Vương Lễ Tiên, 2001).
Về mặt lý thuyết khả năng giữ nước của rừng được hiểu là khả năng
làm tăng hiệu ích kinh tế của nguồn nước. Song hiệu quả kinh tế của nước
liên quan đến hiệu quả của nhiều ngành kinh tế, thường rất khó xác định. Vì
vậy, trong thực tế người ta thường xác định khả năng giữ nước của rừng là
khả năng làm tăng tính hiệu ích của nước. Đó là tính sạch, tính ngọt, tính ổn
định và tính tại chỗ của nguồn nước.
Khả năng giữ nước của rừng có giới hạn và phụ thuộc nhiều vào đặc
điểm của đất rừng như: cấu trúc rừng, độ xốp và kết cấu đất, độ dày tầng đất
v.v , trong đó đặc biệt quan trọng là độ xốp và bề dày tầng đất. Chúng quyết
định dung tích chứa nước của đất rừng (Vu Chí Dân và Vương Lễ Tiên,
7
2001). Vai trò của rừng trong bảo vệ nguồn nước quan trọng nhất là vai trò
bảo vệ và cải thiện những tính thuỷ văn của đất.
Khi nghiên cứu về vai trò của rừng với nguồn nước, các tác giả đã cố
gắng xác định những quan hệ định lượng của rừng với đặc điểm của nguồn
nước (các tính hiệu ích của nước). Tuy nhiên, vì tính phức tạp của các quá
trình thuỷ văn mà cho đến nay vẫn chưa có những công thức cho phép định
lượng khả năng giữ nước của rừng có thể áp dụng chung cho cả thế giới.
Trong những năm gần đây xuất hiện một số mô hình dự báo thủy văn, trong
đó có tính ảnh hưởng thảm rừng. Tuy nhiên, sai số của chúng còn lớn do
không tính đến được đầy đủ những nhân tố ảnh hưởng cụ thể của các nước,
các vùng khác nhau.
Trên thế giới cũng đã có những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của
rừng đến gió hại, đến điều kiện nói chung đến cát bay, đến sóng biển v.v ,

trong đó có những công trình nghiên cứu ở Trung quốc và những nước châu
âu. Đây sẽ là những tư liệu tham khảo quan trọng cho nghiên cứu về vai trò
của rừng đến tiểu khí hậu và sản xuất nông nghiệp ở khu vực đồng bằng sông
Cửu Long trong đề tài này.
DEHEI)8-
DEHEDE ;<=!9>$
Lê Đình Khả, Hoàng Chương, Nguyễn Trần Nguyên [10] đã nghiên cứu
về xuất xứ và khảo nghiệm giống Tràm cho trồng rừng ở đồng bằng sông Cửu
Long. Kết quả nghiên cứu của các tác giả đã khẳng định một số loài và xuất
xứ có nhiều triển vọng cho vùng đồng bằng sông Cửu Long (M. leucadendra
– xuất xứ Weipa, Rifle Creek, Lawrence và keru; M. cajuputi xuất xứ Tịnh
Biên – An Giang)
Thái Thành Lượm [5] nghiên cứu về nhân giống vô tính cây Tràm và
8
kỹ thuật lâm sinh để nâng cao sản lượng rừng Tràm.
Dự án JICA (2002) đã xây dựng mô hình trồng Tràm trên đất phèn. Kết
quả nghiên cứu đã xác định các biện pháp kỹ thụât cho gây trồng và đặc biệt
là mật độ gây trồng nên từ 10,000 – 15,000 c/ha. Tuy nhiên vẫn còn những
bàn cãi xung quanh vấn đề mật độ gây trồng.
Nguyễn Việt Cường [1] nghiên cứu trồng thử nghịêm Tràm lai và khảo
nghiệm một số xuất xứ Tràm ở đất bán ngập vùng núi đá vôi ở Ninh Bình và
Hà Tây. Tác giả đã nghiên cứu trồng 2 mật độ là 4,500c/ha (1.5 x 1.5m) và
6,600c/ha (1 x 1.5m). Kết quả bước đầu cho thấy Tràm sinh trưởng tốt và có
nhiều triển vọng cho gây trồng ở miền Bắc.
Ngô Đình Quế [7] đã nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật và xây dựng
một số mô hình trồng rừng Tràm, mô hình nông-lâm – ngư kết hợp ở vùng đất
phèn đồng bằng sông Cửu Long, cũng theo tác giả thì Tràm ở Việt nam có ít
nhất 4 chủng, hoặc dạng khác nhau phân bố ở những lập địa khác nhau là:
Tràm cừ có tầm vóc cao, mọc tự nhiên trên đất phèn ở vùng đồng bằng sông
Cửu long, Tràm lùn hay Tràm gió tầm cóc nhỏ, dạng cây bụi cũng mọc ở

vùng trên. Tràm bụi, có tầm vóc nhỏ bé cây cao không quá 2 mét, mọc tự
nhiên ở đồi trọc sim, thanh hao ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.
Tràm bưng, thấp chỉ cao có 1 mét, mọc tự nhiên ở bãi cát rời rạc, ven biển,
hơi ẩm tại Quảng Bình, Quảng Trị. Cũng theo tác giả thì: Sinh trưởng của
rừng Tràm có liên quan chặt chẽ với các yếu tố dinh dưỡng trong đất: Hàm
lượng chất hữu cơ trong đất < 8% rừng Tràm sinh trưởng rất thuận lợi. Hữu
cơ từ 8 - 15% rừng Tràm sinh trưởng thuận lợi và hữu cơ > 15% (dày 40cm)
rừng Tràm sinh trưởng bị hạn chế.
Từ năm 1994, qua chương trình hợp tác với ACIAR, 26 xuất xứ của
Tràm lá dài (M.Leucadendra), cùng với Tràm gió (M.cajuputi) đã được khảo
9
nghiệm tại 4 điểm của đồng bằng sông Cửu long, cho thấy Tràm lá dài có sinh
trưởng nhanh nhất trong các loài Tràm đã khảo nghiệm. Các xuất xứ của
Tràm gió Việt nam đều có sinh trưởng kém hơn so với Austraylia.
Theo Nguyễn Việt Cường, và cộng sự [1] thì: Tràm phân bố ở nước ta
được giới hạn trong 3 kinh độ, từ 103058’-107005 đông, gần như chạy theo
rìa ven biển phía Đông, nhưng lại trải dài trên gần 12 vĩ độ, từ 9010 -21035 B,
chứng tỏ có phân bố tự nhiên tuy không rộng, nhưng kéo dài ra từ Nam ra
Bắc.
Nghiên cứu về các loài Tràm có triển vọng cho sản xuất tinh dầu có
công trình của tác giả Phùng Cẩm Thạch, đã giới thiệu 2 loài Tràm Úc và
Tràm Trà và phương pháp thu hoạch, chưng cất tinh dầu.
Nghiên cứu về Hệ sinh thái rừng Tràm và một số biện pháp phòng
cháy, chữa cháy rừng Tràm có công trình của tác giả Phạm Ngọc Hưng –
Trung tâm phát triển nông lâm nghiệp bền vững.
Tác giả Đào Vũ cùng các cộng tác viên đã có công trình nghiên cứu:
Xác định và đánh giá các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật của các biện pháp làm đất
phèn hiện có để trồng rừng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long”. Tác giả đã mô
tả khá chi tiết về các biện pháp làm đất, đạc biệt là phương pháp lên líp và đã
so sánh sinh trưởng của rừng Tràm trên các biện pháp lên líp khác nhau.

Năm 1998, Đặng Trung Tấn- Trung tâm rừng ngập Minh hải đã có
nghiên cứu “Thiết kế mô hình trồng Tràm thâm canh trên vùng đất phèn ngập
sâu bằng phương pháp đắp mố”. Theo tính toán của tác giả thì cùng với khối
lượng đào đắp là 833m
3
đất, thì phương án đắp mố có thể nâng cao được mặt
bằng trồng rừng lên 50cm, trong khi nếu lên líp chỉ cao được 10cm.
Tác giả Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Ngọc Bình sử dụng 5 yếu tố để đánh giá
tiềm năng sử dụng đất phèn trong lâm nghiệp ở ĐBSCL là: Loại đất, hàm
10
lượng chất hữu cơ trong đất, thời gian ngập nước, độ sâu ngập nước và khả
năng cung cấp nước ngọt để rửa phèn, trong đó có 2 yếu tố chủ đạo là: độ sâu
ngập nước và và khả năng cung cấp nước ngọt để rửa phèn là các yếu tố quyết
định tiềm năng sử dụng đất đai. Vì vậy lên líp và xây dựng hệ thống kênh
mương có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất lâm nghiệp trên đất phèn ở Đồng
Bằng sông Cửu Long.
Từ năm 2001 nhóm đề tài của trường Đại học lâm nghiệp do Lê Sĩ Việt
[9] làm chủ nhiệm đã nghiên cứu xây dựng mô hình phục hồi rừng trên vùng
bán ngập hồ Hoà Bình. Kết quả đề tài đã đề xuất được các loài cây có triển
vọng trồng ở vùng bán ngập là Tràm úc, Vậy nước, Dâu da xoan, Sấu, Vông
nước, Nhội, Chẹo.
Trung tâm Ứng dụng KHKT Lâm nghiệp – Viện KHLN Việt nam [10]
đã thử nghiệm mô hình trồng cây nông lâm nghiệp trên vùng đất bán ngập tại
hồ Thác Bà và hồ Suối Hai cho thấy các loài cây lâm nghiệp dự án đã thử
nghiệm trồng như: Tràm úc, Bạch đàn GU8, Tre gai với môi trường ngập
nước cục bộ trong năm cây có sinh trưởng cả về đường kính, chiều cao cũng
như tỷ lệ sống là tương đối cao: Tràm úc có tỷ lệ sống cao nhất từ 76- 90% ,
tiếp đến Bạch đàn Gu8 có tỷ lệ sống 70-85% ; Tre gai có tỷ lệ sống từ 45
-62%; Dành dành 40% và Vậy nước là 35% khi trồng tại các mức nước ngập
khác nhau. Cùng loài cây trồng thì ở mức nước ngập dưới 2 tháng có tỷ lệ

sống cao hơn khi trồng tại mức nước ngập 2-4 tháng. Tại mức nước ngập trên
4 tháng cây có tỷ lệ sống thấp nhất.
Lý Thọ (1981), Nguyễn Huỳnh Châu (1982), Nguyễn Hiếu Liêm
(1983), Lê Văn Sáng (1984), Tạ Văn Thuỵ (1985), Phạm Ngọc Cơ (1994) đã
nghiên cứu đặc điểm lâm học và năng suất rừng Tràm, về trồng xen loài khác
với Tràm trên đất phèn và áp dụng mô hình nông lâm kết hợp ở vùng đầm lầy
11
đồng bằng sông Cửu Long, về kỹ thuật trồng và bảo vệ rừng Tràm. Các kết
quả chủ yếu nghiên cứu về trồng và bảo vệ rừng ở giai đoạn đầu nhưng chưa
chú trọng đến kỹ thuật chăm sóc rừng.
67:7:7 8!9!#$"#$%
Đến nay đã có những công trình nghiên cứu liên quan đến vai trò của
rừng chống xói mòn bảo vệ đất, trong đó có công trình của Nguyễn Ngọc
Lung [4] về tác dụng phòng hộ nguồn nước của một số thảm thực vật chính ở
Tây Nguyên và các nguyên tắc xây dựng rừng phòng hộ nguồn nước, của
Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên [6] về xói mòn đất dưới điều kiện hoạt động
canh tác nông nghiệp và một số rừng trồng, Vương Văn Quỳnh [8] về xói
mòn đất ở vùng nguyên liệu giấy. Các công trình nghiên cứu về tác dụng của
rừng chắn cát bay được nghiên cứu bởi viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam,
trong đó phải kể đến công trình luận án của Đặng Văn Thuyết. Tuy nhiên hiện
còn ít nghiên cứu về tác dụng của rừng trong việc chống lại các quá trình
thoái hoá đất như quá trình mặn hoá, phèn hoá, giảm lũ vùng đồng bằng v.v
Để xác định, diện tích và phân bố rừng Tràm ở vùng lũ đồng bằng sông
cửu long, đề tài này sẽ phải kế thừa những kết quả nghiên cứu trong và ngoài
nước về vai trò phòng hộ của rừng, đồng thời tổ chức những nghiên cứu bổ
sung, đặc biệt về những vấn đề còn chưa được làm sáng tỏ ở Việt Nam như
ảnh hưởng của rừng đến quá trình giảm lũ, ngăn chặn mặn hoá và phèn hoá
Cho đến nay việc xác định diện tích rừng phòng hộ được thực hiện bởi
viện điều tra quy hoạch rừng. Người ta đã căn cứ vào những nhân tố ảnh
hưởng đến tiềm năng xói mòn và khô hạn để đánh giá sự cần thiết phải có

rừng và từ đó quy hoạch ba loại rừng. Phương pháp xác định chủ yếu là
chồng xếp bản đồ. Các bản đồ chuyên đề được thiết lập trên cơ sở phân vùng
riêng rẽ từng nhân tố ảnh hưởng đến xói mòn và khô hạn như độ cao, độ dốc,
12
loại đất, và lượng mưa. Việc chồng xếp các bản đồ chuyên đề sẽ hình thành
những vùng trong đó tương đối đồng nhất về điều kiện ảnh hưởng đến xói
mòn và khô hạn. Trên cơ sở phân tích biến động của các nhân tố ảnh hưởng
đến xói mòn và khô hạn người ta phân chia ra các vùng ít xung yếu, xung yếu
và rất xung yếu. Từ đây sử dụng một số thông tin bổ sung về điều kiện kinh tế
xã hội người ta tiến hành quy hoạch 3 loại rừng: sản xuất, phòng hộ và đặc
dụng.
Mặc dù tốn nhiều công sức nhưng việc xác định diện tích rừng và mức
độ phòng hộ xung yếu vẫn chưa có sức thuyết phục cao. Nguyên nhân chủ
yếu do thiếu cơ sơ của việc phân cấp các nhân tố ảnh hưởng đến nguy cơ xói
mòn và khô hạn cũng như phương pháp tích hợp chúng trong đánh giá sự cần
thiết phải bảo vệ và phát triển rừng. Vì vậy, quy hoạch 3 loại rừng có cơ sở
pháp lý nhưng vẫn thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn để áp dụng.
Nhìn chung, cho đến nay các công trình nghiên cứu về hiệu quả chống
xói mòn đất, chắn gió, chắn cát của rừng ở Việt Nam và thế giới là tương đối
phong phú. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về hiệu quả phòng hộ và
giảm lũ vùng đồng bằng còn ít được thực hiện ở nước ta. Những thông tin thu
được còn tản mạn chưa đủ làm cơ sở khoa học cho xác định diện tích và phân
bố rừng cần thiết. Đề tài này tập trung vào nghiên cứu hiệu quả phòng hộ cải
tạo đất và nước của rừng tràmvà khả năng giảm lũ của rừng Tràm nhằm có
thêm cơ sở khoa học cho việc xác định diện tích và phân bố rừng Tràm cần
thiết cho vùng lũ của Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen.
13
14
=>H
<AJK%LJAM&BCA

HEDENO)8P+
2EDEHE98,Q69-R
Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen nằm trong phạm vi tọa độ địa lý:
10°45’ - 11°50’ vĩ độ bắc và 105°45’ - 105°50’ kinh độ đông.
Diện tích tự nhiên của Láng Sen là 5.030 ha, phần lớn nằm trên địa bàn
xã Vĩnh Lợi và một phần thuộc xã Vĩnh Đại, huyện Tân Hưng tỉnh Long An.
Trong đó có một giới hạn tự nhiên khá đặc biệt là một "cù lao" diện tích
khoảng 1.500 ha là một vùng đầm lầy có nhiều sinh cảnh thích hợp cho động
thực vật ưa nước và nơi dễ khôi phục các hệ sinh thái đồng cỏ, bải ăn của
nhiều loài chim nước, được bao bọc bởi sông Vàm Cỏ Tây
HEDESE9-3T8UV
Địa hình khu vực Láng Sen được xem như một bồn trũng có cao độ từ
0.42 – 1.8 m (so với mực nước chuẩn tại mũi Nai – Hà Tiên). Với địa hình
như thế, khu vực nầy được xem như một vùng đầm lầy ngập nước chịu ảnh
hưởng trực tiếp chế độ thủy văn của sông Cửu Long, và chịu ngập lũ hàng
năm
Chế độ thủy văn tại đây chịu ảnh hưởng trực tiếp của sông Cửu Long
và thay đổi do ảnh hưởng biến đổi về chế độ dòng chảy trong toàn vùng Tân
Hưng – Vĩnh Hưng. Mạng lưới sông rạch tự nhiên trong khu vực Láng Sen và
vùng lân cận khá dày, tuy nhiên lưu lượng lưu thông không lớn do lưu vực
nhỏ. Láng Sen được tiếp nước chủ yếu do các kinh tạo nguồn lớn từ sông Cửu
Long, như: kinh Hồng Ngự – Long An, kinh 79, kinh 28 và sông Lò Gạch.
Nguồn nước trực tiếp tới khu vực Láng Sen đi qua 2 tuyến dẫn nước chính là
15
kinh 79 và rạch Bông Súng. Mặc dù nằm trong nội địa, nhưng ảnh hưởng của
thuỷ triều biển Đông theo chế độ bán nhật triều, và lớn nhất vào mùa kiệt
(mùa khô). Tuy nhiên biên độ dao động mực nước lớn nhất cũng trong
khoảng < 0.5 m. Biên độ này giảm dần tới khi đỉnh lũ xuất hiện.
Ngập lũ: vùng ngập sâu trung bình ở vùng từ 2.5 đến 3,5 mét trong các
năm lũ lớn (tương đương lũ 1996, 2000). Thời gian ngập từ 3 đến 4 tháng. Do

mạng lưới kinh mương được phát triển và mỏ rộng nên thời gian ngập hiện
nay là ngắn hơn khoảng 1 tháng so với trước đây. Vùng ngập sâu và lâu nhất
vẫn là những nơi lung bàu trũng như Láng Sen, rạch Cá He, rạch Cái Nổ.
Chất lượng nguồn nước thay đổi theo mùa và có sự khác biệt trong từng khu
vực. Tuyến kinh 79 đi qua vùng đất phèn nặng nên nước bị chua phèn và độ
đục thấp, độ pH thường thấp dưới 4,5. Chất lượng nước chỉ được cải thiện
vào mùa mùa lũ, đồng thời độ đục cũng tăng lên ít nhiều. Tuyến sông Bông
Súng có chất lượng nước tốt hơn, lượng phù sa tương đối ổn định và cao hơn.
Bồi lắng phù sa trong nội đồng chỉ xảy ra khi lượng phù sa theo dòng nước lũ
đưa về. Một lượng lớn phù sa phủ trên đồng ruộng đã được ghi nhận vào cuối
trận lũ năm 2000. Với lớp trầm tích phù sa khá dầy đã gây ra hiện tượng
những cánh đồng năng bị chết hàng loạt.
?;<=/@!9()
Lũ là hiện tượng nước sông dâng cao trong khoảng thời gian nhất định,
sao đó giảm dần.
Lũ có thể do mưa trên lưu vực gây ra, song cũng có thể do vỡ đê, vỡ
đập hoặc các dạng tắc ứ tạm thời dòng chảy trong các dòng dẫn… làm cho
mực nước sông dâng cao.
16
Dòng chảy lũ được hiểu là quá trình không ngừng tăng lên hoặc giảm đi
của lưu lượng. Trong quá trình thay đổi đó lưu lượng đạt một vài trị số cực
đại. Nếu có một giá trị cực đại gọi là quá trình lũ đơn. Nếu có hai giá trị cực
đại trở lên gọi là quá trình lũ kép.
Lưu lượng đỉnh lũ Q
max
(m
3
/s): là giá trị lớn nhất của lưu lượng trong
một trận lũ.
?ABC()"#!DA,/;E

Vùng Đồng Tháp Mười là phần dưới của vùng ngập lũ kéo dài dọc bờ
trái sông Tiền từ Kongpongcham trở xuống QL1A - phía Nam và sông Vàm
Cỏ Đông - phía Đông. Diện tích toàn vùng trũng là 991.000 ha, trong đó phần
thượng lưu nằm trên đất CamPu Chia là 288.000 ha, phần Đồng Tháp Mười
chiếm 703.000 ha.
Vùng trũng đuợc ngăn cách với sông chính bởi các giồng ven sông (giải
đất cao ven sông tự nhiên) kéo dài từ Kongpongcham - nơi địa hình cao từ 10
- 15 m và thấp dần về phía hạ lưu, đến Tứ Thường cao trình giồng khoảng 4,5
- 5,0 m, đến Cao Lãnh còn lại khoảng 2,5 - 3,0 m. Mặt giồng phía thượng lưu
rộng hàng ngàn mét và thu hẹp dần về phía hạ lưu có nơi chỉ còn vài trăm
mét. Sau giồng là những vùng trũng.
Đồng Tháp Mười từ biên giới trở về xuôi có dạng hình lòng máng với
các thành cao 3 phía: Vùng phù sa cổ Hồng Ngự - Tân Hồng (phía Bắc); các
giải đất cao ven sông (phía Tây) và vùng đất xám Vĩnh Hưng - Mộc Hoá
(phía Đông). Địa hình thấp dần theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, nơi thấp
nhất là vùng Bắc Đông - BoBo.
Trước đây khu vực giữa Đồng Tháp Mười là vùng ngập nước quanh
năm, trong mùa lũ nhiều nơi ngập sâu tới 3 - 4,5 m, khả năng thoát lũ chậm,
không bị ảnh hưởng nhiều nước mặn. Lũ chủ yếu từ thượng nguồn sông Mê
17
Kông đổ về và chịu ảnh hưởng trực tiếp của thủy triều kết hợp với khả năng
điều tiết của Biển Hồ. Lũ diễn biến chậm, kéo dài suốt khoảng thời gian từ 4
đến 5 tháng trong năm làm ngập hầu hết toàn bộ vùng Đồng bằng sông Cửu
Long.
HEDEWEX86-
Địa chất khu vực phần lớn thuộc trầm tích Holocen và những gò
Pleistocen (hoặc Pleistocen muộn) nổi lên ở một số nơi trong vùng. Ngoài ra,
vài vạt trũng thấp là lòng sông cổ với lớp đất mặt tích tụ nhiều chất hữu cơ.
Các nhóm đất hiện diện trong vùng là kết quả từ những tiến trình và yếu tố
hình thành đất, trong đó tính đa dạng của vật liệu trầm tích đóng vai trò quan

trọng. Các nhóm đất chính: Đất xám (      
), đất phèn hoạt động (  
!" #$ ), đất phù sa có tầng sinh phèn
trung bình ( %), đất phù sa có tầng phèn trung bình
( %), đất phù sa phát triển (%).
HEDEYEJQ
Khí hậu ở khu vực nghiên cứu được chia làm 2 mùa: mùa mưa kéo
dài từ tháng 5 đến hết tháng 10, còn tháng khô thì từ tháng 11 đến tháng 4
năm sau, trong đó tháng 3 và tháng 4 là hai tháng khô và nóng nh ất. Nhiệt độ
trung bình năm là 24.5
0

C, nhiệt độ tháng cao nhất vào tháng 4 là 26.6
0

C,
nhiệt độ tháng thấp nhất vào tháng 12 là 21.7
0
C. Lượng mưa trung bình
năm là
1846mm.
HEDEZEQ6-[\]^
Trong khu vực Láng Sen được ghi nhận với sự hiện diện của nhiều loài
động thực vật đặc trưng của vùng Đồng Tháp Mười.
18
D!-
Thực vật trong khu vực Láng Sen khá phong phú với 156 loài thực vật
hoang dã trong đó có 152 loài đã xác định được tên khoa học thuộc 60 họ
được tìm thấy, trong đó khuyết thực vật ($%) có 7 loài, song tử diệp
(&%$%) có 88 loài và đơn tử diệp ('%%%$%) có 57 loài.

Các họ có số loài nhiều nhất là % (24 loài), ( (19
loài), )" (6 loài) và %%$ (6 loài). Trong đó có 4 loài chưa
xác định được tên. Căn cứ vào dạng sinh trưởng, 152 loài thực vật hoang dã ở
Láng Sen được chia ra:
• Cây thân gỗ: 26 loài
• Cây bụi: 15 loài
• Cây thân thảo: 101 loài
• Dây leo hoặc dây bò: 8 loài
• Ký sinh: 2 loài
F<!-
Theo kết quả nghiên cứu cho thấy thành phần phiêu sinh trong vùng
không nhiều với Cyanophyta: 2 loài, Chlorophyta: 14 loài, Bacillariophyta: 8
loài. Có thể việc giới hạn về thời gian và số mẫu nghiên cứu nên chưa thể
hiện được số liệu chính xác thành phần phiêu sinh vật đang hiện diện trong
vùng.
"><
Do trong đợt khảo sát mực nước trên đồng khá cao nên chưa thể tiến
hành thu mẫu, kết quả thu được do điều tra các hộ tại địa phương. Các loài
19

×