Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Báo cáo cuối kỳ: Tình hình lạm phát của Việt Nam từ năm 2008 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.53 KB, 40 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP-TỰ DO-HẠNH PHÚC
BÁO CÁO CUỐI KỲ
MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ
ĐỀ TÀI:
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013
SINH VIÊN THỰC HIỆN : NHÓM 3
LỚP : ĐH-KINH TẾ K6
GVHD
2014 - 2015
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
MỤC LỤC
Trang
Chương 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.1.Đặt vấn đề nghiên cứu 1
1.1.1.Sự cần thiết nghiên cứu 1
1.1.2.Căn cứ khoa học thực tiễn 1
1.2.Mục tiêu nghiên cứu 1
1.1.1.Mục tiêu chung 1
1.2.2.Mục tiêu cụ thể 1
1.3.Phạm vi nghiên cứu 2
1.3.1.Không gian 2
1.3.2.Thời gian 2
1.3.3.Nội dung nghiên cứu 2
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ LẠM PHÁT 3
2.1.Khái niện chung về lạm phát 3
2.1.1.Chỉ số đo lường lạm phát 3
2.1.2.Khái niệm 4
2.1.3.Phân loại lạm phát 5
2.1.4.Những tác động của lạm phát 6


Chương 3: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
TỪ 2008 ĐẾN 2013 8
3.1.Thực trang lạm phát của Việt Nam từ 2008 đến 2013 8
3.2.Thực trạng của một số nước trên thế giới 20
3.2.1.Tình hình lạm phát của Trung Quốc 20
3.2.2.Tình hình lạm phát của Mỹ 20
3.2.3.tình hình lạm phát của liên minh EU 21
GVHD: Trần Minh Tuấn 2 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
3.3.Hậu quả của lạm phát 22
Chương 4:ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 23
4.1.Trong ngắn hạn 23
4.2.Trong trung và dài hạn 23
4.3.Lựa chọn mô hình tăng trưởng và giải pháp chính sách 24
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 29
5.1.Kết luận 29
5.2.Kiến nghị 29
5.2.1.Giảm mức thâm hụt ngân sách 29
5.2.2.Tập trung moi nguồn lực năng xuất lao động, đẩy mạnh sản xuất 30
5.2.3.Chân chỉn hệ thống tiền tệ tính dụng 30
5.2.4.Đều hành cung cầu, tiền tệ lưu thông hàng hóa 31
5.2.5.Về xuất nhập khẩu 32
5.2.6.Tổ chức lại việc chỉ đạo đều hành 32
MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
GVHD: Trần Minh Tuấn 3 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
PPP Sức mua tương đương
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
TLLP Tỉ lệ lạm phát

PPI Chỉ số giá sản xuất
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
NHNN Ngân hàng nông nghiệp
WTO Tổ chức thương mại thế giới
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
UNDP Chưng trình phát triển Liên Hiệp Quốc
TNTB Thu nhập trung bình
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DN Doanh nghiệp
VAT Thuế giá trị gia tăng
VND Việt Nam đồng
USA Đô la Mỹ
GVHD: Trần Minh Tuấn 4 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Hình A: Biểu đồ chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 8
Hình B: Biểu đồ diễn biến CPI năm 2009 9
Hình C: Biểu đồ diễn biến CPI năm 2010 10
Hình D: Biểu đồ thể hiện biến động của CPI năm 2010 và 2011 12
Hình E: Biểu đồ thể hiện biến động CPI năm 2012 13
Hình F: Biểu đồ thể hiện biến động CPI năm 2013 14
Biểu đồ 3.1: So sánh các chỉ số CPI trong giai đoạn 2004 -2013 18
GVHD: Trần Minh Tuấn 5 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
Lời Nói Đầu
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang là một nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam đã đạt
được những thành tựu khá nổi bật như tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao,

giảm tỷ lệ đói nghèo trong dân cư xuống mức thấp, đời sống của người dân đạt
được nhiều cải thiện so với cách đây hơn 20 năm. Tuy nhiên thực tế cho thấy
nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như tình trạng lạm
phát cao, tình trạng thâm hụt thương mại và nợ chính phủ cũng như nợ quốc gia
tăng cao. Đặc biệt khó khăn lớn hiện nay đối với nền kinh tế Việt Nam chính là
tình trạng lạm phát cao đã bắt đầu có xu hướng quay trở lại mức hai con số sau
một thời gian dài ngừng ở mức một con số. Một số dự báo thống kê gần đây của
ngân hàng phát triển châu Á ADB, hay ngân hàng thế giới WB đều dự báo rằng
con số lạm phát của Việt Nam năm nay chắc chắn sẽ vượt mức 11%, cụ thể là
sẽ vào khoảng từ 12% cho đến 13%. Tuy nhiên con số lạm phát thực tế còn có
thể cao hơn.
Tình trạng lạm phát đã có những tác động rất lớn không chỉ đến đời sống
của người dân mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Tình trạng lạm phát đã có những tác động rất lớn không chỉ đến đời sống của
người dân mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Cụ
thể lạm phát cao làm cho suy giảm chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
rõ rệt, điều này có thể so sánh với nước láng giềng Trung Quốc, mặc dù tốc độ
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc nhưng tỷ lệ lạm phát
của Việt Nam lại cao hơn so với Trung Quốc khiến cho thu nhập bình quân thực
tế của người Trung Quốc cao hơn nhiều so với Việt Nam, cụ thể ở đây là gấp 5
lần (nếu tính theo sức mua tương đương PPP). Không những vậy tình trạng lạm
phát cao còn đẩy các doanh nghiệp Việt Nam vào tình hình sản xuất khó khăn
do giá các nguyên vật liệu đầu vào tăng cao và sự sụt giảm từ doanh thu thực tế
do tình hình lạm phát. Bên cạnh đó lạm phát cao còn làm gia tăng khoảng cách
giàu nghèo trong xã hội và làm tiềm ẩn các nguy cơ bất ổn xã hội.
Vì vậy, với lực lượng kiến thức còn hạn chế, em mong bài nghiên cứu đề tài
này cũng là một phương pháp để hiểu nó một cách thấu đáo hơn, sâu sắc hơn.
Rất mong nhận được sự thông cảm của các thầy.
Em xin chân thành cảm ơn!
GVHD: Trần Minh Tuấn 6 Nhóm thực hiện: Nhóm 3

Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
Chương 1:
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.Đặt vấn đề nghiên cứu
1.1.1.Sự cần thiết nghiên cứu
Nghiên cứu lạm phát đóng một vai trò quan trọng trong việc lựa chọn chính
sách kinh tế vĩ mô. Lạm phát được kiềm chế trong một giới hạn phù hợp và dự báo
trước không những không có hại mà còn giúp tăng trưởng nền kinh tế. Ngược lại,
nếu lạm phát cao thì sẽ gây ra nhiều thiệt hại,tổn thất cho phát triển nền kinh tế và
mất ổn định xã hội.
1.1.2.Căn cứ khoa học thực tiễn
Trong những thập niên gần đây, khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa,
bắt đầu nền kinh tế thị trường đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt nhằm thu được
lợi nhuận cao và đứng vững trên trường quốc tế.Các nhà kinh tế cũng như các
doanh nghiệp nhà nước phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền
kinh tế. Một trong những vấn nổi cộm hiện nay chính là lạm phát. Lạm phát được
coi là con quỷ gớm nhất trên trái đất, ít nhất là xét trong triển vọng kinh tế vĩ mô
của mỗi quốc gia. Lạm phát một căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường, nó
là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian, trí tuệ mới có thể
đạt được kết quả lạc quan bởi tính chất hai mặt của nó. Một mặt nó kích thích nền
kinh tế phát triển nếu tốc độ tăng trưởng của nó phù hợp với tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Mặt khác, nếu tốc độ lạm phát lên cao sẽ gây ra những biến động kinh tế
hết sức nghiêm trọng như biến dạng cơ cấu sản xuất về việc làm, thu nhập bất bình
đẳng, tỉ lệ thất nghiệp tăng…Điều đó đòi hỏi việc chống lạm phát không chỉ là việc
của các doanh ngiệp mà còn là việc của chính phủ. Ngày nay, cùng với sự phát
triển đa dạng phong phú của nền kinh tế thì những nguyên nhân lạm phát càng trở
nên phức tạp hơn.
Vì vậy, trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát được rất nhiều người quan
tâm, nghiên cứu và đề xuất các phương án. Có thể nhận thấy, việc nghiên cứu lạm
phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát là hết sức cần thiết và

có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước.
1.2.Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1.Mục tiêu chung
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường diễn ra phức tạp và cạnh tranh ngày
càng gay gắt, đặt biệt là Việt Nam đã là thành viên của Tổ Chức Thương Mại Thế
(WTO).
GVHD: Trần Minh Tuấn 7 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
Nhằm mục đích nghiên cứu các vấn đề liên quan đến lạm phát, tình hình lạm
phát và lý luận về các biện pháp giảm thiểu lạm phát để ổn định và phát triễn nền
kinh tế.
Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản, chuyên sâu về vấn đề lạm
phát và tình hình lạm phát của nước ta từ năm 2008 đến năm 2013.
1.2.2.Mục tiêu cụ thể
Đánh giá thực trạng tình hình lạm phát của nước ta trong giai đoạn 2008 –
2013.
1.3.Phạm vi nghiên cứu
1.3.1.Không gian
Nghiên cứu về tình hình lạm phát ở Việt Nam.
1.3.2.Thời gian
Trong giai đoạn từ năm 2008 – 2013.
1.3.3.Nội dung nghiên cứu
Những thông tin chung , những số liệu liên quan đến thực trạng lạm phát của
Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2013.
Đưa ra một số kiến nghị và giải pháp để khắc phục tình hình lạm phát ở nước
ta.
Chương 2:
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ LẠM PHÁT
2.1. Khái niệm chung về lạm phát
GVHD: Trần Minh Tuấn 8 Nhóm thực hiện: Nhóm 3

Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên liên tục trong
khoảng thời gian nhất định thường là một năm.
2.1.1.Chỉ số đo lường lạm phát
 Tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI):
Tỷ lệ lạm phát được tính rộng rãi bằng cách tính toán sự di chuyển hoặc thay
đổi chỉ số giá thường là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong đó CPI là chỉ số dùng để
đo lường sự biến động của mức giá trung bình của những loại hàng hóa và dịch vụ
thông thường mà một gia đình tiêu dùng ở kỳ hiện hành so với năm gốc.
CPI=
- Trong đó:
• : chỉ lượng sản phẩm tại thời điểm năm gốc.
• : chỉ giá sản phẩm ở thời điểm năm t.
• : chỉ giá sản phẩm tại thời điểm năm gốc.
Tỷ lệ lạm phát là tỷ phần trăm thay đổi của chí số giá theo thời gian:
- Trong đó:
• : là chỉ số giá tiêu dùng ở thời điểm năm t.
• : là chỉ số giá tiêu dùng tại thời điểm năm gốc.
 Tính theo chỉ số giá sản xuất (PPI):
Tỉ lệ lạm phát tính theo PPI cũng có cách tính thương tự như tính tỉ lệ lạm
phát theo CPI, nhưng PPI được tính trên một số lượng hàng hoá nhiều hơn CPI và
tính theo giá bán buôn (giá trong lần bán đầu tiên).
 Tính theo tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
GDP là giá trị bằng tiền của tất cả các hàng hóa, dịch vụ cuối cùng được sản
xuất ra trên lãnh thổ một nước trong khoảng thời gian nhất định thường là một năm.
 Cách tính chỉ số giảm phát GDP
- Trong đó:
• : chỉ số giảm phát GDP.
• : GDP danh nghĩa
• : GDP thực

GVHD: Trần Minh Tuấn 9 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
 Cách tính tỷ lệ lạm phát
- Trong đó:
• : tỷ lệ lạm phát năm t( tính theo GDP)
• : chỉ số giảm phát GDP năm t
• : chỉ số giảm phát GDP năm gốc
2.1.2. Khái niệm
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi
các yêu cầu của quy luật kinh tế hàng hóa không được tôn trọng, nhất là quy luật
lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hóa, còn tồn tại nhưng quan hệ hàng hóa
tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xãy ra lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi
các quy luật lưu thông tiền tệ bị vi phạm. Lạm phát đã trở thành mối quan tâm của
rất nhiều người. Do đó lạm phát được đề cập rất nhiều trong các công trình nghiên
cứu của các nhà kinh tế. Mỗi người đều đưa ra khái niệm về lạm phát theo quan
điểm, phướng hướng nghiên cứu của mình. Marx cho rằng “ lạm phát là sự hành
tiền mặt quá lố “. Lênin cũng đưa ra ý niệm tương tự: “ lạm phát là sự thừa ứ tiền
giấy trong các kênh lưu thông”. Đến thập niên 1960 Miton Friedman khẳng định lại
rằng: “ lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Quả thật lạm
phát có liên quan hết sức chặt chẽ với lượng tiền tệ, vì nếu không có tiền thì không
thể nào có lạm phát. Thế nhưng, nếu xét đến nguyên nhân gây ra lạm phát thì cần
phải hiểu rằng không nhất thiết mọi cuộc lạm phát xảy ra xuất phát từ một cú sốc
bên ngoài ( như cú sốc dầu mỏ năm 1973-197; 1979-1980 chẳng hạn ), hoặc xuất
phát từ sự sụt giảm của tổng cung của bản than của nền kinh tế nước đó. Vì vậy,
không nên định nghĩa lạm phát từ một khía cạnh của nó là khía cạnh tiền tệ. Ngày
nay, đa số các nhà kinh tế đều đưa ra khái niệm về lạm phát xuất phát từ hiện tượng
( là giá tăng ) hơn là nguồn gốc của lạm phát. Một số tác giả quan niệm khá đơn
giản: lạm phát là tình trạng mức giá chung hay mức giá tổng quát tăng lên. Một số
tác giả khác nhấn mạnh tính liên tục của hiện tượng tăng giá. Một số khác lại chú ý
đến độ dài thời gian, nghĩa là giá phải tăng trong một khoảng hời gian nào đó thì

mới xem là lạm phát. Từ đó ta có thể sử dụng một khái niệm đơn giản nhưng thận
trọng về lạm phát: “ lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên
liên tục trong một khoảng thời gian nhất định “. Khi nói đến lạm phát, có hai khái
niệm kèm theo là giảm phát và giảm lạm phát
• Giảm Phát: là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục trong khoảng
thời gian liên tục trong một khoảng thời gian nhất định thường là một năm.
• Giảm Lạm Phát: là sự sụt giảm của tỷ lệ lạm phát nhưng mức giá chung vẫn tăng,
vẫn còn lạm phát, nhưng với mức độ thấp hơn.
2.1.3.Phân loại lạm phát
GVHD: Trần Minh Tuấn 10 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
 Lạm phát được chia ra làm 3 loại:
o Lạm phát vừa phải.
o Lạm phát phi mã.
o Siêu lạm phát.
 Lạm phát vừa phải:
Là lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm và có thể dự đoán trước
được , thường giới hạn một con số ( dưới 10%) một năm, và không ảnh hưởng
nhiều đến nền kinh tế.
Thông thường ở các nước do loại lạm phát thấp có thể dự đoán trước và người
ta có thể chỉ số hoá vào các chính sách của Nhà nước hoặc các hoạt động kinh tế
nên đã hạn chế được các tác động tiêu cực của nó. Thậm chí, loại lạm phát này còn
có thể có tác dụng mở rộng tín dụng một mặt kích cầu, một mặt gia tăng đầu tư, mở
rộng và phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm, giảm tỉ
lệ thất nghiệp. Chính vì thế, trong chính sách vĩ mô của hầu hết các quốc gia hiện
nay, người ta thường chấp nhận một tỉ lệ lạm phát vừa phải để kích thích tăng
trưởng kinh tế.
 Lạm phát phi mã:
Lạm phát phi mã Lạm phát phi mã là loại lạm phát xảy rả khi giá cả hàng hoá
tăng nhanh ở mức từ 2 đến 3 con số một năm. Như ở Việt nam trong giai đoạn vừa

qua có thể được xem là lạm phát phi mã.
Khi lạm phát này xảy ra, do tiền bị mất giá rất nhanh nên người dân không
còn muốn nắm giữ tiền mà chuyển sang săn lùng mua hàng hoá, vàng, ngoại tệ cất
giữ. Tình trạng này càng làm cho giá cả tăng nhanh và biến động bất thường. Thị
trường tài chính sẽ tàn lụi vì dòng vốn chạy ra nước ngoài. Lãi suất thực có thể
giảm bằng không hoặc âm, hiệu quả kinh tế suy giảm, nền kinh tế rơi vào khủng
hoảng, thu nhập thực tế của người lao động bị xói mòn nghiêm trọng, thất nghiệp
tăng cao.
 Siêu lạm phát:
Siêu lạm phát là loại lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hoá tăng rất nhanh với
tốc độ từ 4 con số trở lên một năm.
Biểu hiện đặc trưng cơ bản củasiêu lạm phát là giá cả hàng hoá tăng nhanh
quá mức, và biến động bất thường không thể dự đoán trước được. Người dân chạy
trốn tiền và chuyển sang cất trữ “mọi thứ”. Nền kinh tế có thể bị biến dạng và rơi
GVHD: Trần Minh Tuấn 11 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
vào khủng hoảng trầm trọng, thất nghiệp tràn lan, đời sống nhân dân giảm sút
nghiêm trọng.
2.1.4. Những tác động của lạm phát
 Tác động của lạm phát đối với lãi xuất thực.
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát
Trong đó, lãi suất danh nghĩa là mức lãi suất đang tồn tại trong thực tế.
Với hệ thống ngân hàng, để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, nó luôn
có gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có.Nghĩa là luôn luôn giữu
cho lãi suất thực ổn định. Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn giữ cho lãi
suất thực ổn định không còn cách nào khác là lãi suất danh nghĩa phải tăng lên
cùng với tỷ lệ lạm phát. Tăng lãi xuất danh nghĩa lại dẫn tới hậu quả mà nền kinh tế
phải ghánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp tăng.
 Tác động của lạm phát đến tiền lương.
Tiền lương thực =

Trong đó tiền lương danh nghĩa là tiền lương thực tế mà chúng ta nhận được
theo hợp đồng lao động.
Xét trong trạng thái động, khi nền kinh tế bị lạm phát, tức giá tăng, được biểu
hiện bằng sự gia tăng của chỉ số giá. Nếu tiền lương danh nghĩa không tăng, tiền
lương thực của bạn giảm xuống là đều đương nhiên. Nếu lương danh nghĩa cũng
tăng khi lạm phát xãy ra thì có 3 trường hợp:
o Nếu tốc độ tăng lương > tốc độ tăng chỉ số giá thì tiền lương thực tăng.
o Nếu tốc độ tăng lương < tốc độ tăng chỉ số giá thì tiền lương thực giảm.
o Nếu tốc độ tăng lương = tốc độ tăng chỉ số giá thì tiền lương thực không thay
đổi.
 Tác động của lạm phát tới sản xuất kinh doanh:
Lạm phát cao, giá cả hàng hóa tăng liên tục làm cho sản xuất gặp khó khăn.
Cơ cấu kinh tế dễ mất cân đối vì sẽ có xu hướng phát triễn những ngành có chu kỳ
ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh, những ngành sản xuất có chu kỳ dài, thời gian
thu hồi vốn chậm sẽ có xu hướng bị đình đốn, phá sản.Thước đo đồng tiền bị thu
hẹp, công tác hạch toán chỉ còn là hình thức.
 Tác động của lạm phát tới thương mại:
Người ta từ chối tiền giấy trong vai trò là trung gian trao đổi đồng thời chuyễn
sang đầu cơ tích trữ vàng, hàng hóa đẫy khõi tay mình những đồng tiền mất giá.
GVHD: Trần Minh Tuấn 12 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
Điều này càng làm cho lưu thông tiền tệ bị rối loạn.Lạm phát còn môi trường tốt để
những hiện tượng tiêu cực trong đời sống phát sinh, như đầu cơ, tích trữ gây cung-
cầu hàng hóa giả tạo.
 Tác động của lạm phát với nhà nước:
Tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập cho ngân sách nhà nước qua cơ chế
phân phối lại sản phẩm và thu nhập quốc dân, nhưng do ảnh hưởng nặng nề của
lạm phát mà những nguồi thu ngân sách nhà nước (chủ yếu là thuế) ngày càng bị
giảm do sản xuất bị sụt giảm, do nhiều công ty xí nghiệp bị phá sản, giải thể…
 Tác động của lạm phát tới đời sống xã hội:

Đại bộ phận tầng lớp dân cư sẽ rất khó khăn và chật vật do phải chịu áp lực vì
sự gia tăng của giá. Giá trị thực tế của tiền lương giảm sút nghiêm trọng dẫn đến
trật tự an toàn xã hội bị phá hoại năng nề.
 Mức sống giảm, ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người lao động.
Chương 3:
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 2008 –
2013
3.1.Thực trạng lạm phát của Việt Nam từ 2008 – 2013
- Lạm phát năm 2008:
Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và
trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại
nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng
giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm
phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến
một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm; thiên tai, dịch bệnh đối
với cây trồng vật nuôi xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước gây ảnh hưởng lớn đến
sản xuất và đời sống dân cư
GVHD: Trần Minh Tuấn 13 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng trước giảm 0,68%, trong đó các
nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá giảm là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,13%,
trong đó lương thực giảm 2,36%; nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 2,36%; phương
tiện đi lại, bưu điện giảm 6,77%. Giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng nhẹ:
May mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,01%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,68%; văn hoá,
thể thao, giải trí tăng 0,66%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,6%; dược phẩm, y
tế tăng 0,35%; giáo dục tăng 0,17%.
(Hình A: Biểu đồ chỉ số giá tiêu dùng năm 2008)
Giá tiêu dùng năm 2008 nhìn chung tăng khá cao và diễn biến phức tạp, khác
thường so với xu hướng giá tiêu dùng các năm trước. Giá tăng cao ngay từ quý I và
liên tục tăng lên trong quý II, quý III, nhưng các tháng quý IV liên tục giảm (so với

tháng trước, tháng 10 giảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%)
nên giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng 19,89% và chỉ
số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 22,97%.
Mặc dù giá tiêu dùng năm 2008 tăng khá cao, nhưng xu hướng diễn biến theo
chiều hướng tích cực vào các tháng cuối năm là do: (i) Kết quả thực hiện đồng bộ 8
nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh
xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát với
giải pháp thắt chặt tiền tệ là nguyên nhân cơ bản giữ cho lạm phát thấp hơn 20%.
Điều này cũng khẳng định những giải pháp mà Chính phủ đề ra là hoàn toàn đúng
hướng, kịp thời và đạt kết quả tích cực, giá tiêu dùng đã giảm dần từ tháng 10 năm
2008; (ii) Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu hàng hoá khác trên thị trường
thế giới nước ta nhập khẩu với khối lượng lớn cũng đã giảm mạnh vào những tháng
cuối năm, tạo thuận lợi cho giảm giá đầu vào của sản xuất trong nước; (iii) Tình
hình sản xuất trong nước những tháng cuối năm cũng đã bớt khó khăn hơn, do tiếp
cận các nguồn vốn và mức độ giải ngân khá hơn.
Giá vàng tháng 12/2008 so với tháng trước tăng 0,78%; so với tháng 12 năm
2007 tăng 6,83%. Giá vàng bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 31,93%. Giá
đô la Mỹ tháng 12/2008 so với tháng trước tăng 1,14%; so với cùng kỳ năm trước
tăng 6,31%. Giá đô la Mỹ bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 2,35%.
GVHD: Trần Minh Tuấn 14 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
- Lạm phát Việt Nam năm 2009
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách
thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy
kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu,
thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-
xã hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa
bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
Do ngay từ đầu năm Chính phủ và các cấp, các ngành đã triển khai quyết liệt
và đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động phòng ngừa tái lạm phát cao trở lại, khôi

phục và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nhất là tập trung phát triển thị trường trong
nước; chỉ đạo, điều hành tài chính, tiền tệ linh hoạt nên mức lạm phát năm 2009
không cao.
(Hình B: Biểu đồ diễn biến CPI năm 2009)
Giá tiêu dùng năm 2009 tương đối ổn định, ngoài tháng 2 và tháng 12 chỉ số
giá tiêu dùng tăng trên 1%, các tháng còn lại giảm hoặc tăng thấp nên chỉ số giá
tiêu dùng tháng 12 năm 2009 so với tháng 12 năm 2008 tăng 6,52%, thấp hơn
nhiều so với chỉ tiêu tăng dưới 10% Quốc hội đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân
năm 2009 tăng 6,88% so với bình quân năm 2008, là mức thấp nhất trong 6 năm trở
lại đây (Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2004 tăng 7,71%; năm 2005 tăng 8,29%;
năm 2006 tăng 7,48%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008 tăng 22,97%). Chỉ số giá vàng
tháng 12/2009 tăng 10,49% so với tháng trước; tăng 64,32% so với cùng kỳ năm
2008. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2009 tăng 3,19% so với tháng trước; tăng
10,7% so với cùng kỳ năm 2008. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu,
nền kinh tế nước ta vừa đạt mức tăng trưởng tương đối khá, vừa duy trì được mức
độ lạm phát không cao, đây là thành công lớn trong chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ
mô.
- Lạm phát ở việt Nam năm 2010 :
GVHD: Trần Minh Tuấn 15 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
Kinh tế thế giới năm 2010 mặc dù đang phục hồi sau khủng hoảng tài chính
toàn cầu và có những chuyển biến tích cực, song nhìn chung chưa thực sự ổn định
và còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi tác động đến kinh tế nước ta. Ở trong nước,
thiên tai liên tiếp xảy ra, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống dân cư.
Năm 2010 là năm có ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng, đây là năm cuối thực hiện
Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và Chiến lược phát triển kinh
tế-xã hội 10 năm 2001-2010. Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm 2010
là cơ sở và đặt nền tảng cho việc xây dựng và thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội năm 2011, năm đầu của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015
và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020.

(Hình C: Biểu đồ diễn biến CPI năm 2010)
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2010 tăng 1,98% so với tháng trước, mức tăng
cao nhất các tháng trong năm nay. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm
hàng ăn và dịch vụ ăn uống có chỉ số giá tiếp tục tăng và tăng cao nhất với mức
3,31% so với tháng trước (Lương thực tăng 4,67%; thực phẩm tăng 3,28%); tiếp
đến là nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,53%; may mặc, mũ nón, giày dép
tăng 1,81%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,3%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ
số giá tăng thấp hơn, ở mức dưới 1% gồm: Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng
0,86%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,51%; giao thông tăng 0,45%; thuốc và
dịch vụ y tế tăng 0,41%; giáo dục tăng 0,07%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông
có chỉ số giá giảm 0,02%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2010 so với tháng 12/2009 tăng 11,75%. Chỉ số
giá tiêu dùng bình quân năm 2010 tăng 9,19% so với bình quân năm 2009.
Chỉ số giá vàng tháng 12/2010 tăng 5,43% so với tháng trước; tăng 30% so
với cùng kỳ năm 2009. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2010 tăng 2,86% so với tháng
trước; tăng 9,68% so với cùng kỳ năm 2009.
- Lạm phát ở việt Nam năm 2011:
GVHD: Trần Minh Tuấn 16 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
Bước vào năm 2011, năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5
năm 2011-2015, nước ta có những thuận lợi cơ bản: Tình hình chính trị ổn định;
kinh tế-xã hội phục hồi trong năm 2010 sau hơn một năm bị tác động mạnh của lạm
phát tăng cao và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, ngay sau đó những khó khăn, thách thức tiềm ẩn trong nội tại nền
kinh tế thế giới với vấn đề nợ công, tăng trưởng kinh tế chậm lại. Giá hàng hóa, giá
dầu mỏ và giá một số nguyên vật liệu chủ yếu tăng cao và có diễn biến phức tạp. Ở
trong nước, lạm phát và mặt bằng lãi suất cao gây áp lực cho sản xuất và đời sống
dân cư.
Chỉ số giá tiêu dùng tuy vẫn ở mức cao nhưng đã có xu hướng giảm. Chỉ số
giá tiêu dùng tháng 12/2011 tăng 0,53% so với tháng trước, thấp hơn nhiều so với

mức tăng 1,38% và 1,98% của cùng kỳ năm 2009 và năm 2010. Tháng Mười Hai là
tháng thứ năm liên tiếp trong năm nay có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn 1%.
Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, các nhóm có chỉ số giá tăng cao hơn mức
tăng chung là: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,86%; nhóm hàng ăn và dịch vụ
ăn uống tăng 0,69% (Lương thực tăng 1,40%; thực phẩm tăng 0,49%); Thiết bị và
đồ dùng gia đình tăng 0,68%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng
thấp hơn mức tăng chung gồm: Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,51%; đồ uống và
thuốc lá tăng 0,49%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,35%; thuốc và dịch vụ y tế
tăng 0,24%; giao thông tăng 0,16%; giáo dục tăng 0,05%. Riêng nhóm bưu chính
viễn thông có chỉ số giá giảm 0,09%.
(Hình D: Biểu đồ thể hiện biến động của CPI năm 2010 và 2011)
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 so với tháng 12/2010 tăng 18,13%. Chỉ số
giá tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình quân năm 2010.
Chỉ số giá vàng tháng 12/2011 giảm 0,97% so với tháng trước; tăng 24,09%
so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2011 tăng 0,02% so với
tháng trước; tăng 2,24% so với cùng kỳ năm 2010.
GVHD: Trần Minh Tuấn 17 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
- Lạm phát ở Việt Nam năm 2012:
Kinh tế-xã hội nước ta năm 2012 tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của kinh
tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu chưa
được giải quyết. Suy thoái trong khu vực đồng euro cùng với khủng hoảng tín dụng
và tình trạng thất nghiệp gia tăng tại các nước thuộc khu vực này vẫn đang tiếp
diễn. Hoạt động sản xuất và thương mại toàn cầu bị tác động mạnh, giá cả hàng hóa
diễn biến phức tạp. Tăng trưởng của các nền kinh tế đầu tàu suy giảm kéo theo sự
sụt giảm của các nền kinh tế khác. Một số nước và khối nước lớn có vị trí quan
trọng trong quan hệ thương mại với nước ta như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật bản và EU
đối mặt với nhiều thách thức nên tăng trưởng chậm. Những bất lợi từ sự sụt giảm
của kinh tế thế giới ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống
dân cư trong nước. Thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức

cao, sức mua trong dân giảm. Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại. Nhiều
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt
động hoặc giải thể.
(Hình E: Biểu đồ thể hiện biến động CPI năm 2012)
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2012 tăng 0,27% so với tháng trước và tăng
6,81% so với tháng 12/2011. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2012 tăng 9,21%
so với bình quân năm 2011.
Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tháng 12/2012 so với tháng trước
tăng cao hơn mức tăng chung là: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,17%; thiết bị
và đồ dùng gia đình tăng 0,59%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,34%; đồ uống và
thuốc lá tăng 0,32%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,28% (Lương thực tăng
0,13%; thực phẩm tăng 0,28%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,4%). Các nhóm hàng
hóa, dịch vụ có chỉ số giá thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm gồm: Nhà ở và vật
GVHD: Trần Minh Tuấn 18 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
liệu xây dựng tăng 0,15%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,14% (Dịch vụ y tế tăng
0,03%); giáo dục tăng 0,09% (Dịch vụ giáo dục tăng 0,05%); giao thông giảm
0,43%; bưu chính viễn thông giảm 0,02%.
Nhìn lại năm 2012, CPI tháng Mười Hai chỉ tăng 6,81% so với cùng kỳ năm
2011, xấp xỉ mức tăng 6,52% của năm 2009, thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75%
của năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011 nhưng là năm giá có nhiều biến
động bất thường, cụ thể là: CPI tăng không quá cao vào hai tháng đầu năm (Tăng
1,0% vào tháng Một và tăng 1,37% vào tháng Hai) nhưng tăng cao nhất vào tháng
Chín với mức tăng 2,20%, chủ yếu do tác động của nhóm thuốc và dịch vụ y tế và
nhóm giáo dục. Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm dần trong những tháng cuối
năm[4], điều này thể hiện tính kịp thời và hiệu quả của việc triển khai Chỉ thị số
25/CT-TTg ngày 26/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác
quản lý, điều hành và bình ổn giá. Trong năm có tới 7 tháng CPI chỉ tăng dưới 1%
và hầu hết các tháng chỉ tăng dưới 0,5%. Một điều khác thường nữa của thị trường
giá cả trong nước năm nay là CPI không giảm vào sau Tết âm lịch mà giảm vào hai

tháng giữa năm (Tháng Sáu và tháng Bảy).
Về nhóm hàng, CPI bình quân của nhiều nhóm hàng năm nay có mức biến động
nhiều và khác xu hướng so với năm trước. Nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng
thấp hơn mức tăng chung (Lương thực tăng 3,26%, thực phẩm tăng 8,14%, CPI bình
quân chung tăng 9,21%), trong khi năm 2011 đây là nhóm hàng có chỉ số giá tăng cao
nhất và cao hơn nhiều so với mức tăng chung (Lương thực tăng 22,82%, thực phẩm
tăng 29,34%, CPI bình quân chung tăng 18,58%). Riêng nhóm dịch vụ y tế có sự thay
đổi lớn với chỉ số giá tăng mạnh ở mức 20,37%, cao hơn nhiều lần mức tăng 4,36%
của năm 2011. Trong hai năm qua, chỉ số giá nhóm giáo dục vẫn duy trì mức tăng cao
(Năm 2011 tăng 23,18%; năm 2012 tăng 17,07%) và chỉ số giá nhóm bưu chính viễn
thông vẫn duy trì mức giảm (Năm 2011 giảm 5,06%; năm 2012 giảm 1,11%).
Chỉ số giá vàng tháng 12/2012 tăng 0,46% so với tháng trước; tăng 0,4% so
với tháng 12/2011. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2012 tăng 0,03% so với tháng
trước; giảm 0,96% so với tháng 12/2011.
- Lạm phát ở Việt Nam năm 2013:
Kinh thế thế giới năm 2013 vẫn còn nhiều bất ổn và biến động phức tạp. Tăng
trưởng kinh tế của các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu, đặc biệt là
một số nước thành viên đang chịu ảnh hưởng của nợ công vẫn còn rất mờ nhạt.
Khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở châu Âu chưa hoàn toàn chấm
dứt. Mặc dù có một vài dấu hiệu tích cực cho thấy các hoạt động kinh tế đang phục
hồi trở lại sau suy thoái nhưng triển vọng kinh tế toàn cầu nhìn chung chưa vững
chắc, nhất là đối với các nền kinh tế phát triển. Việc tạo công ăn việc làm được xem
là một thách thức lớn của các nước phát triển. Những yếu tố không thuận lợi đó từ
thị trường thế giới tiếp tục ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội nước ta. Ở trong nước,
các khó khăn, bất cập chưa được giải quyết gây áp lực lớn cho sản xuất kinh doanh:
Hàng tồn kho ở mức cao, sức mua yếu, tỷ lệ nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại,
nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể.
GVHD: Trần Minh Tuấn 19 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
(Hình F: Biểu đồ thể hiện biến động CPI năm 2013)

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng trước và tăng
6,04% so với tháng 12/2012. Đây là năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp nhất
trong 10 năm trở lại đây[5]. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2013 tăng 6,6%
so với bình quân năm 2012, thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,21% của năm 2012.
Trong năm nay, CPI tăng cao vào quý I và quý III với mức tăng bình quân tháng là
0,8%; quý II và quý IV, CPI tương đối ổn định và tăng ở mức thấp với mức tăng
bình quân tháng là 0,4%. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, nhóm nhà ở và vật
liệu xây dựng có chỉ số giá tháng 12/2013 so với tháng trước tăng cao nhất với
mức tăng 2,31%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,57%; hàng ăn và dịch vụ ăn
uống tăng 0,49% (Lương thực tăng 1,22%; thực phẩm tăng 0,38%; ăn uống ngoài
gia đình tăng 0,17%); đồ uống và thuốc lá tăng 0,27%; thiết bị và đồ dùng gia đình
tăng 0,25%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,13%; thuốc và dịch vụ y tế tăng
0,08% (Dịch vụ y tế tăng 0,02%); giáo dục tăng 0,02%. Các nhóm hàng hóa và
dịch vụ còn lại có chỉ số giá giảm gồm: Giao thông giảm 0,23%; bưu chính viễn
thông giảm 0,01%.
 Chỉ số giá tiêu dùng năm nay tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
o Giá một số mặt hàng và dịch vụ do Nhà nước quản lý được điều chỉnh
theo kế hoạch và theo cơ chế thị trường: Trong năm có 17 tỉnh, thành
phố điều chỉnh giá dịch vụ y tế làm cho CPI của nhóm thuốc và dịch
vụ y tế tăng 18,97% so với tháng 12 năm trước, đóng góp vào chỉ số
chung cả nước gần 1,1%; các địa phương tiếp tục thực hiện lộ trình
tăng học phí làm làm CPI nhóm giáo dục tăng 11,71%, đóng góp vào
chỉ số chung cả nước tăng khoảng gần 0,7%; giá xăng dầu được điều
chỉnh tăng/giảm và cả năm tăng 2,18%, góp vào CPI chung cả nước
mức tăng 0,08%; giá điện điều chỉnh tăng 10%, đóng góp vào CPI
chung khoảng 0,25%. Bên cạnh đó, giá gas cả năm tăng gần 5%, đóng
góp vào CPI cả nước với mức tăng 0,08%;
GVHD: Trần Minh Tuấn 20 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
o Nhu cầu hàng hóa tiêu dùng của dân cư và tiêu dùng cho sản xuất tăng

vào dịp cuối năm;
o Ảnh hưởng của thiên tai, mưa bão;
o Mức cầu trong dân yếu.
 Thể chế kinh tế và cơ chế điều hành thị trường đang được hoàn thiện theo hướng đa
phương hóa, đa diện hóa đang tiến vào chiều sâu trên con đường hội nhập. Tuy
nhiên do ảnh hưởng quá nghiêm trọng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế
Việt Nam muốn đi đến phục hồi phải cần có một quá trình. Từ phân tích những đặc
điểm trên, có thể rút ra:
Thứ nhất, lạm phát ở Việt Nam hiện nay, không do nguyên nhân suy kém của
nền kinh tế mà xuất phát từ yêu cầu bức xúc về chuyển hóa mâu thuẫn giữa tình
trạng kinh tế nội tại với xu thế phát triển kinh tế theo xu hướng toàn cầu hóa. Do
vậy cần xử lý bằng thái độ bình tĩnh.
Thứ hai, với mức lạm phát 2 con số thì việc giảm phát xuống 1 con số cần có
quá trình, không thể nóng vội.
Thứ ba, cần nhận diện và phân tích một cách toàn diện, xác thực các tác nhân
khách quan và chủ quan gây lạm phát để hình thành đối sách thích ứng, không quá
“cứng” cũng không quá “nhu” nhằm chủ động kiểm soát lạm phát một cách hữu
hiệu.
Thứ tư, các giải pháp đưa vào thực thi nhằm kiềm chế lạm phát cần song hành
giữa tình thế và tính chiến lược một cách tương thích, để vừa bảo đảm giảm phát
lành mạnh vừa tạo nền cho sự ổn định và phát triển vững chắc.
Có nhiều lý do đã được đưa ra nhằm giải thích cho sự tăng mạnh trở lại của
lạm phát trong những năm 2007-2008. Những lý do này bao gồm sự tăng mạnh của
mức lương tối thiểu, sự gia tăng của giá cả hàng hóa quốc tế, chính sách tiền tệ lỏng
lẻo và không linh hoạt, chính sách quản lý tỷ giá cứng nhắc và thiếu linh hoạt, sự
mở cửa của Việt Nam với thế giới từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm
2006 khiến cho luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam, đẩy giá
chứng khoán và giá tài sản lên rất cao. Để giữ ổn định tỷ giá, NHNN đã phải bơm
một lượng tiền đồng lớn vào nền kinh tế góp phần làm trầm trọng hơn tình trạng
lạm phát.

Chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với kỳ vọng lạm phát thường dẫn đến lạm
phát thực tế ở giai đoạn tiếp theo của chu kỳ kinh tế. Chính sách tỷ giá chỉ có tác
động cộng hưởng cho cáctác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế chứ không
có tác động mạnh mẽ trực tiếp đếnlạm phát. Sự gia tăng của cung tiền và tín dụng
trong nền kinh tế trong cả thập kỷ qua đã rấtmạnh đặc biệt là vào năm 2007 khi tiền
tệ tăng với tốc độ 47%/năm và tín dụng tăng 54% /năm.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 đã góp phần làm giảm lạm phát
ở Việt Nam từ cuối năm 2009. Giá quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm đã giúp
Việt Nam đảo ngược xu thế gia tăng đáng ngại của lạm phát trong năm 2008. Khi
các gói kích cầu của Chính phủ bắt đầu gia tăng từ quý II năm 2009, cung tiền cũng
bắt đầu tăng mạnh và tín dụng cũng có dấu hiệu tương tự. Các ngân hàng thương
mại trở nên thiếu hút tiền mặt và đều cố gắng tăng lãi suất nhằm thu hút tiền gửi. Vì
vậy, cuộc cạnh tranh lãi suất đã bắt đầu khiến cho lãi suất cho vay bị đẩy lên cao
GVHD: Trần Minh Tuấn 21 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
(vượt trần lãi suất do các khoản phí cho vay). Tuy nhiên, lãi suất thực vẫn là âm (lãi
suất thực = lãisuất – lạm phát). Việc này không khuyến khích tiết kiệm và không
khuyến khích người dân gửi tiền, làm cho lạm phát đã cao, càng cao hơn.
Trong năm 2010, do dịp Tết nguyên đán và việc tăng giá điện, lạm phát trong
hai tháng đầu năm tăng cao. Năm tháng tiếp theo của năm 2010 chứng kiến tỷ lệ
lạm phát tương đối ổn định ở mức thấp chứng tỏ các biện pháp kiểm soát lạm phát
của Chính phủ đã có tác động.
Tuy nhiên, lạm phát lại tăng trở lại mạnh mẽ từ tháng 9 năm 2010 khiến cho
chỉ số giá tiêu dùng CPI cho 11 tháng đã tăng lên đến 9,58% so với 20,71% và
5,07% của cùng kỳ năm 2008 và 2009. Việc phá giá VND so với USD trong tháng
8 năm 2010 và biến động của thị trường vàng trong nước và quốc tế vừa qua được
coi là hai trong số những nguyên nhân chủ yếu khiến cho lạm phát tăng cao lúc
này.
Việt Nam vẫn có những nguy cơ tiềm tàng khiến cho lạm phát có thể vẫn tiếp
tục tăng cao:

i Giá của một loạt các mặt hàng cơ bản như điện và xăng dầu vẫn bị
kiểm soát.
iiVND vẫn đang chịu áp lực mất giá dù NHNN đã phá giá 2 lần trong
năm 2010.
iii Giá cả ở Trung Quốc cũng đang tăng lên khiến cho chi phí nhập khẩu
cho các công trình cơ sở hạ tầng với nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu ở
Trung Quốc cũng tăng .
iv Áp lực mới lỏng tiền tệ sẽ gia tăng vì lãi suất hiện giờ đang cao. Một
phần những nguy cơ này đã trở thành hiện thực trong những tháng vừa
qua của năm 2011.
Lạm phát làm tăng bất bình đẳng về thu nhập vì nó giống như một thứ thuế
lũy tiến đối với người nghèo. Nếu các hộ nghèo chủ yếu nắm giữ tài sản của mình
dưới dạng tiền mặt hay cùng lắm là tiền gửi ngân hàng thay vì các loại tài sản tài
chính khác như ở Việt Nam hiện nay thì lạm phát cao sẽ nhanh chóng làm giảm sức
mua của họ. Lạm phát cao cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng, làm nhiễu các tín hiệu
về giá cả và hạn chế chất lượng cũng như khối lượng đầu tư. Đồng thời nó cũng có
thể có tác động tiêu cực đến tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của một nước
do giá cả sản xuất trong nước tăng cao.
Vấn đề lạm phát 8đối với người nghèo còn nặng nề hơn khi lương thực thực
phẩm luôn chiếm từ 40% đến 50% giỏ hàng hóa tiêu dùng trong giai đoạn 2000-
2010. Trong khi giá cả phi lương thực thực phẩm tăng 1,7 lần so với năm 2000 thì
giá lương thực thực phẩm đã tăng hơn 2,6 lần trong cùng giai đoạn với chỉ số giá
chung tăng khoảng hơn 2 lần. Đồng thời giá lương thực thực phẩm biến động mạnh
hơn nhiều so với giá phi lương thực thực phẩm. Giá lương thực thực phẩm biến
động sát với chỉ số giá chung hơn và cho thấy hai lần lên cao rõ rệt vào năm 2004
và 2008. Vì lương thực thực phẩm chiếm một tỷ trọng lớn trong giỏ hàng hóa CPI
và giá lương thực thực phẩm dễ dao động hơn so với các hàng hóa khác trong giỏ
hàng hóa nên khi một yếu tố tác động đến mức giá chung sẽ nhanh chóng tác động
và làm tăng giá lương thực thực phẩm.
GVHD: Trần Minh Tuấn 22 Nhóm thực hiện: Nhóm 3

Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
Năm 2013 là năm đầu tiên CPI phá vỡ chu kỳ “hai năm cao, một năm thấp” đã
diễn ra trong 9 năm trước đây. Diễn biến trên của CPI là thành công nổi bật của
năm nay. Điều đó lại càng có ý nghĩa khi tăng trưởng kinh tế cũng cao hơn năm
trước, theo mục tiêu tổng quát mà Nghị quyết của Quốc hội đề ra (lạm phát thấp
hơn, tăng trưởng cao hơn năm trước).
Biểu đồ 3.1: So sánh các chỉ số CPI trong giai đoạn 2004 -2013
Sức ép của lạm phát đối với mức sống thực tế của người tiêu dùng đã không
còn lớn như khi lạm phát cao. Lương thực, mặt hàng thiết yếu nhất, năm 2012 giá
GVHD: Trần Minh Tuấn 23 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
giảm sâu, năm nay tăng thấp (nếu tính bình quân vẫn còn giảm), làm cho người tiêu
dùng có thu nhập thấp, người nghèo, cận nghèo đỡ bị sức ép.
Lạm phát thấp đã góp phần giảm lãi suất huy động, tạo điều kiện giảm lãi suất
cho vay, có khoản, có đối tượng lãi suất đã trở về thời kỳ 2005-2006 để tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường. Mặc dù lãi suất giảm, nhưng tiền
gửi vẫn tăng cao (tính đến ngày 12/12/2013, tiền gửi VND tăng 15,93%, cao gần
gấp đôi tốc độ tăng dư nợ tín dụng), góp phần cải thiện tính thanh khoản của các tổ
chức tín dụng
Giá hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng tăng thấp có sự đóng góp của việc ổn định tỷ
giá và đến lượt nó lại tác động trở lại đối với sự ổn định của tỷ giá, góp phần củng
cố lòng tin đối với đồng tiền quốc gia
Thành công của việc kiềm chế lạm phát 2013 có sự đóng góp của nhiều yếu
tố, trong đó lớn nhất là yếu tố cầu kéo năm 2013, năm thứ ba liên tục bị “co
lại” nhanh. Vốn đầu tư phát triển/GDP giảm (từ 39,2%/năm trong thời kỳ 2006-
2010 xuống còn khoảng 30,5% trong giai đoạn 2011-2013, thấp nhất trong mấy
chục năm qua, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách vừa giảm về tỷ trọng, vừa giảm về
quy mô tuyệt đối). Chênh lệch giữa tỷ lệ vốn đầu tư/GDP với tỷ lệ để dành/GDP đã
giảm nhanh (từ bình quân 8,26%/năm thời kỳ 2007-2010 còn dưới 1% thời kỳ
2011-2013).

Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tuy có
cao lên trong mấy tháng nay, nhưng năm 2013 cũng là năm thứ 3 liên tiếp bị co lại
(từ 15%/năm trong thời kỳ 2006-2010 xuống còn khoảng 5,5%/năm thời kỳ 2011-
2013). Tác động không nhỏ là yếu tố chi phí đẩy tăng thấp, có loại còn giảm. Giá
nhập khẩu tính bằng USD giảm (khoảng 2,26%); tỷ giá VND/USD tăng thấp (bình
quân năm tăng khoảng 0,62%); tính ra giá nhập khẩu tính bằng VND giảm (khoảng
1,7%). Lãi suất cho vay giảm, trong khi có tới 70-80% tổng vốn hoạt động của
doanh nghiệp là đi vay ngân hàng.Một số khoản nộp ngân sách được cắt giảm.
Một tác động tích cực là hiệu quả đầu tư, năng suất lao động năm 2013
(những yếu tố cơ bản của lạm phát), có dấu hiệu được cải thiện một bước so với
năm trước (hệ số ICOR của năm 2012 là 5,8 lần, còn của năm nay có khả năng còn
khoảng 5,4 lần). Tốc độ tăng năng suất lao động nếu năm 2012 là 2,48%, còn năm
nay có khả năng đạt 2,6%.
GVHD: Trần Minh Tuấn 24 Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Thực trạng lạm phát của Việt Nam giai đoạn từ 2008 - 2013
Lạm phát năm 2013 đã được kiềm chế thành công, nhưng vẫn còn một
số điểm đáng lưu ý.
Về “nhịp độ”, CPI từ tháng 3 đến tháng 7 chỉ tăng 0,09% (hay tăng chưa tới
0,02%/tháng), là mức thấp hiếm thấy trong nhiều năm qua, vừa tác động đến sản
xuất (nhất là 2 nhóm ngành kinh tế thực: nông, lâm nghiệp-thủy sản và công
nghiệp-xây dựng), vừa theo hướng “kiềm chế” lạm phát, chứ chưa thật là “kiểm
soát” lạm phát theo mục tiêu. Hai tháng sau đó CPI tăng cao, chủ yếu do giá một số
loại hàng hoá, dịch vụ được điều chỉnh làm tăng chi phí đẩy và giảm tổng cầu đối
với hầu hết các loại hàng hoá, dịch vụ khác.
Lạm phát thấp có phần quan trọng do sự “co lại” của cầu kéo, trong đó có việc
giảm quá mức tỷ lệ vốn đầu tư/GDP (vừa thấp xa so với các thời kỳ trước, vừa thấp
hơn cả chỉ tiêu kế hoạch), trong khi vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết
định tăng trưởng kinh tế, mà tăng trưởng kinh tế không đạt được kế hoạch đề ra.
Thành công của việc kiềm chế lạm phát chưa thật vững chắc, vì vẫn
có thể tăng cao trở lại vào năm sau.

Yếu tố cơ bản của lạm phát mới chỉ được cải thiện bước đầu, chủ yếu do chuyển
dịch cơ cấu nguồn vốn đầu tư có hiệu quả cao/thấp khác nhau, do chuyển dịch cơ
cấu lao động có năng suất lao động cao/thấp khác nhau, chứ chưa dựa nhiều vào
ứng dụng và đổi mới khoa học kỹ thuật-công nghệ để tăng phần đóng góp vào tăng
trưởng của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP).
Việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số loại hàng hoá, dịch vụ là
cần thiết và đúng hướng, vẫn phải được tiến hành, song cần phải tạo cơ chế cho
cạnh tranh, tăng cường kiểm soát, phối hợp, cẩn trọng về liều lượng, thời điểm điều
chỉnh.
3.2. Thực trạng của một số nước trên thế giới
3.2.1. Tình hình lạm phát của Trung Quôc
Theo số liệu của Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc, trong 30 năm qua,
Trung Quốc ba lần đối diện sức ép lạm phát cao vào các năm 1985; 1988-1989 và
1992-1996. Trong đó, mức lạm phát (thể hiện qua chỉ số CPI) trung bình đạt tới
14,11% trong giai đoạn 1992-1996, thậm chí cuối năm 1994, tỷ lệ lạm phát ở Trung
Quốc đã gần chạm đỉnh 30%. Từ năm 1994 đến năm 2010, tốc độ lạm phát trung
bình mỗi năm là 4,3%. Năm 2011, lạm phát có xu hướng tăng nhanh: so với cùng
kỳ năm ngoái, CPI tháng 1 và tháng 2 vừa qua tăng 4,9% (giá lương thực và thực
phẩm tăng tới 10,3%, trong đó giá lương thực tăng 15,1%, còn giá rau quả tươi tăng
gần 35%); CPI tháng 3 tăng 5,4% (trong đó giá lương thực tăng 11,7%) và tháng 4
là 5,3%. Tuy nhiên, đến tháng 5, CPI lại tăng lên mức 5,5% và trong tháng 6 là
6,1%. Ðây là mức tăng nhanh nhất trong vòng 35 tháng qua.
GVHD: Trần Minh Tuấn 25 Nhóm thực hiện: Nhóm 3

×