Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận Quan hệ thương mại ASEAN +3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.82 KB, 14 trang )

1
Quan hệ thương mại giữa ASEAN và các
nước tham gia cơ chế ASEAN + 3
1. Khái niệm ASEAN và ASEAN + 3
ASEAN (viết tắt của Association of Southeast Asian Nations) - Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của
các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8
tháng 8 năm 1967 với các thành viên đầu tiên là Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Singapore, và Philippines. Hàng năm, các nước thành viên
đều luân phiên tổ chức các cuộc hội họp chính thức để trao đổi hợp tác. Đến năm
1999, ASEAN gồm 10 thành viên: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore,
Philippines, Brunei, Việt Nam, Lào, Myanma, Campuchia (riêng Đông Timo chưa
kết nạp).
ASEAN+3 là một cơ chế hợp tác đa phương mang tính khu vực giữa
ASEAN và 3 quốc gia Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Cơ chế
hợp tác ở khu vực Đông Á này ra đời từ tháng 12 năm 1997, và cho tới ngày nay
vẫn dựa trên nguyên tắc hoạt động của ASEAN. Nội dung chính của cơ chế hợp tác
bao gồm các Hội nghị cấp cao, các kỳ gặp mặt của các nguyên thủ quốc gia, các
cấp bộ trưởng; và Hội nghị thượng đỉnh với tên gọi là hội nghị cấp cao Đông Á lần
đầu tiên được tổ chức tại Kualalumpur vào cuối năm 2005.
2
2. Mối quan hệ giữa ASEAN với nhóm nước + 3
2.1. Quan hệ ASEAN – Trung Quốc
Quan hệ chính trị và an ninh: Các nước Đông Nam Á là láng giềng liền kề
với Trung Quốc. Các nước ASEAN đóng vai trò như tiền đồn của Trung Quốc, vì
vậy việc ổn định về an ninh đối với các nước ASEAN cũng góp phần không nhỏ
cho việc ổn định an ninh của Trung Quốc. Nhận thức được vấn đề này, Trung Quốc
gia tăng ảnh hưởng của mình đối với các nước ASEAN, nhất là sau khi chiến tranh
lạnh kết thúc, Mỹ bớt ảnh hưởng của mình ở khu vực, điều đó càng tạo được nhiều
thuận lợi cho Trung Quốc bành trướng thế lực của mình. Để thực hiện được ý định
của mình, Trung Quốc phải lấy việc cùng phát triển với các nước ASEAN là chiến


lược phát triển chính trong mối quan hệ láng giềng của mình. Để thực hiện mục
tiêu đó Trung Quốc cần một môi trường hòa bình và ổn định.
Để tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển quan hệ ASEAN –
Trung Quốc, tại Hội nghị cấp cao ASEAN và Trung Quốc được tổ chức lần đầu
tiên ở Kualalumpur ngày 16/12/1997, ASEAN và Trung Quốc đã ra tuyên bố chung
“ASEAN – Trung Quốc hướng tới thế kỉ 21”. Trong tuyên bố này, hai bên đã nêu
rõ: những chuẩn mực cơ bản chỉ đạo quan hệ của hai bên là hiến chương Liên Hiệp
Quốc, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, 5 nguyên tắc cùng tồn tại
hòa bình và luật pháp quốc tế được thế giới thừa nhận. ASEAN và Trung Quốc tái
3
khẳng định cùng sự tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và
không can thiệp vào công việc nội bộ của những nước khác.
Căn cứ vào những tuyên bố chung như trên, ASEAN và Trung Quốc có
nhiều trao đổi cấp cao thông qua hội nghị thường niên hàng năm và các chuyến
viếng thăm lẫn nhau của các nguyên thủ hai bên. Tại hội nghị cấp cao ASEAN và
Trung Quốc lần thứ 7 tổ chức ở Bali tháng 11/2003, hai bên đã kí tuyên bố chung
về Quan hệ đối tác chiến lược ASEAN - Trung Quốc.
Việc kí tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược đã gia cố thêm nền
tảng pháp lý chợ phát triển quan hệ ASEAN và Trung Quốc trong những năm quan
và những năm sắp tới.
Quan hệ về kinh tế: Hoạt động quan trọng nhất của ASEAN và Trung Quốc
từ 2002 tới nay là triển khai xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung
Quốc (ACFTA). Hai bên đã tống nhất, ACFTA sẽ được xây dựng trog vòng 10
năm đối với Trung Quốc và 6 nước phát triển hơn của ASEAN và 15 năm đối với
Trung Quốc và 4 thành viên còn lại kém phát triển hơn là Campuchia, Mianma,
Lào, Việt Nam.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và Trung Quốc sau khi hoàn thành vào
năm 2010 sẽ trở thành khu kinh tế cớ 1,8 tỷ người tiêu dùng, đây sẽ là một trong
những khu vực mậu dịch tự do đông dân nhất thế giới và cũng là lớn nhất của các
nước đang phát triển, sẽ tạo ra rất nhiều những cơ hội thương mại và tương lai rộng

4
lớn cho Trung Quốc và các nước ASEAN. Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc –
ASEAN được xây dựng sẽ góp phần phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa Trung
Quốc và ASEAN, là một bước mở đầu cho quá trình nhất thể hóa Đông Á.
Cùng với việc triển khai xây dựng ACFTA, ASEAN và Trung Quốc còn đẩy
mạnh hợp tác trên các lĩnh vực khác:
- Trong lĩnh vực nông nghiệp và rừng, hai bên đã ký biên bản ghi nhớ về hợp
tác nông nghiệp tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc ở Phnom Penh
ngày 2/11/2002, trong đó, Trung Quốc cam kết tiến hành mở nhiều lớp đào tạo cho
các nước thành viên ASEAN.
- Trong lĩnh vực giao thông vận tải, hợp tác ASEAN và Trung Quốc được
triển khai trên Bản ghi nhớ về hợp tác giao thông vận tải ASEAN – Trung Quốc
được ký tại Viêng Chăn ngày 27/11/2004. Các lĩnh vực hợp tác ở tầm trung và dài
hạn là: xây dựng hạ tầng giao thông vận tải, tiện ích vận tải, anh ninh và an toàn
đường biển, vận tải hàng không, trao đổi thông tin
- Hợp tác thương mại đầu tư, vồn đầu tư hai chiều giữa ASEAN và Trung
Quốc không ngừng tăng lên. Vốn đầu tư ban dầu của 5 nước ASEAN đưa vào
Trung Quốc tăng từ 2,4,% năm 1992 lên 9,2% năm 1998. Về số lượng, tính đến
năm 2001, vốn cam kết của ASEAN đầu tư vào Trung Quốc là 53.468 tỷ USD. Đầu
tư của Trung Quốc vào ASEAN có chiều hướng tăng nhanh trong những năm gần
đây, đặc biệt là đầu tư vào 4 nước ASEAN mới, trong đó có Việt Nam. Tính đến
5
năm 2005, tổng số vốn đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc vào ASEAN đạt 2
tỷ USD.
Hợp tác năng lượng Trung Quốc – ASEAN cũng là vấn đề hợp tác chiến
lược đối với cả hai bên. Về dầu thô, Đông Nam Á là nguồn cung cấp dầu thô quan
trọng của Trung Quốc. Hiện nay Trung Quốc đang nhập khẩu 15% lượng dầu thô
từ các nước ASEAN. Trước đây, Trung Quốc nhập khẩu nhiều dâu thô từ
Indonexia, nhưng gần đây Việt Nam trở thành nước cung cấp dầu thô lớn nhất cho
Trung Quốc trong khối ASEAN và là nước thứ 6 trên thế giới (về số lượng) xuất

khẩu dầu thô vào thị trường Trung Quốc. Không những vậy, Trung Quốc còn đang
là thị trường xuất khẩu than đá lớn nhất của Việt Nam. Năm 2005, Việt Nam đã
xuất khẩu sang Trung Quốc 9 triệu tấn than. Về khí đốt, Indonexia đã đồng ý cung
cấp cho Trung Quốc 2,6 triệu tấn khí đốt hóa lỏng mỗi năm, trong vòng 25 năm.
ASEAN đang ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong chiến lược an ninh năng
lượng của Trung Quốc trong chiến lược trở thành siêu cường thế giới của mình.
Nhìn chung mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc vừa có những cơ hội
song cũng có những thách thức không nhỏ cho cả hai bên, mà trước tiên là các
nước ASEAN.
Nhưng cơ hội: trước hết, mối quan hệ ASEAN và Trung Quốc góp phần làm
gia tăng quá trình toàn cầu hóa, làm cho hai thế lực này trở nên gần gũi, cần có
nhau hơn trong phát triển kinh tế và củng cố an ninh. Điều này được thể hiện bằng
6
hiệp định khung Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc năm 2002 và
hiệp ước TAC năm 2003. Việc hai đối tác này chủ động tham gia xây dựng các cơ
chế hợp tác mới này không chỉ góp phần thúc đẩy cơ chế hợp tác đa phương, củng
cố nguyên tắc cùng tồn tại và phát triển trong hòa bình, chống lại áp lực của chính
trị và cường quyền mà còn tạo cho các bên một sân chơi bình đẳng để từ đó có thể
kết hợp hài hòa giữa lợi ích dân tộc và hội nhập quốc tế, giữa hợp tác song phương
và đa phương trong quan hệ quốc tế.
Thách thức: ngoài những khó khăn, bất cập về năng lực cạnh tranh và sự
chênh lệch phát triển, tình trạng chính trị an ninh trở nên bất ổn và nhạy cảm ở một
số nước ASEAN, còn có những khó khăn nảy sinh từ phía Trung Quốc. Sự thiếu
hụt về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ và khí đốt, ô nhiễm môi trường
tăng nhanh và phân hóa giàu nghèo trở nên phức tạp. Hơn nữa, sự giống nhau
tương đối giữa hai thực thể này về mô hình công nghiệp hóa hướng xuất khẩu, sử
dụng nhiều lao động và tài nguyên thiên nhiên, đều hướng sản phẩm sang thị
trường Âu – Mỹ và Nhật Bản và đang tìm cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang
làm tăng tính cạnh tranh giữa ASEAN và Trung Quốc.
Trong khi đó, cùng với việc gia tăng toàn cầu hóa và liên kết khu vực, sự nổi

lên của Trung Quốc và sự chú ý nhiều hơn của Mỹ tới khu vựu ASEAN đang làm
tăng tính nhạy cảm và tầm quan trọng địa chiến lược của Đông Nam Á. Điều quan
trọng trong những năm tới, cả ASEAN và Trung Quốc đều phải xử lý khéo các mối
7
quan hệ ngày càng phức tạp, chồng chéo lên nhau trong quan hệ đối tác chính, đặc
biệt là Mỹ với Nhật Bản, sau đó đến mối quan hệ Ấn Độ và Nga.
2.2. Quan hệ ASEAN – Nhật Bản
ASEAN và Nhật Bản đã thiết lập các mối quan hệ không chính thức từ năm
1973. Các mối quan hệ này được chính thức hóa với việc thiết lập ASEAN – Nhật
Bản vào tháng 3/1977. Hợp tác ASEAN – Nhật Bản có nhiều chuyển biến tích cực
với sự ra đời của ASEAN + 3. Tuy nhiên, cho tới trước năm 2002, quan hệ ASEAN
– Nhật Bản đã không có bước phát triển đột phá nào. Hợp tác giữa hai bên vẫn chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực kinh tế và hợp tác phát triển. Tình hình này đã thay đổi
từ cuối năm 2002, khi tháng 11 – 2002, hai bên ký Tuyên bố chung về Quan hệ đối
tác kinh tế toàn diện (AJCEP).
Thực hiện tuyên bố chung trên, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Nhật
Bản họp ngày 8 tháng 10 năm 2003, hai bên ký “Khuôn khổ quan hệ đối tác kinh tế
toàn diện giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Nhật Bản”.
Nhằm phát triển hơn nữa quan hệ giữa hai bên, ngày 12 tháng 12 năm 2003
nhân kỷ niệm 30 năm ngày thiết lập quan hệ ASEAN – Nhật Bản, hai bên ký
“Tuyên bố Tôkiô về Quan hệ đối tác năng động và bền vững trong thế kỷ XXI”.
Tuyên bố nêu rõ, hai bên chủ trương thúc đẩy hợp tác không chỉ trên lĩnh vực kinh
tế, mà còn hợp tác trong lĩnh vực chính trị - an ninh, không chỉ hợp tác song
8
phương giữa hai bên, mà còn hợp tác trong các tổ chức khu vực và quốc tế, đặc biệt
là hợp tác Đông Á.
Đến Tháng 11/2007/ hai bên ra tuyên bố chung về hoàn tất đàm phán hiệp
định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản.
Như vậy, trên cơ sở các văn kiện được thông qua từ năm 2002 đến nay, Quan
hệ ASEAN – Nhật Bản đã không ngừng phát triển.

Về chính trị, ASEAN và Nhật Bản tăng cường trao đổi cấp cao, chỉ trong 5
năm cầm quyền, Thủ tướng Kôizumi đã 7 lần đi thăm ASEAN, tiến hành 8 lần hội
đàm với các nhà lãnh đạo ASEAN. Hai bên có quan điểm gần gũi về nhiều vấn đề
khu vực và quốc tế. Một trong những vấn đề như vậy là quan điểm của hai bên về
vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên.
Trong lĩnh vực an ninh, ASEAN – Nhật Bản đã xúc tiến các hoạt động hợp
tác trong các vấn đề an ninh phi truyền thống. Ngày 30 tháng 10 năm 2004, tại Hội
nghị thượng đỉnh ASEAN – Nhật Bản họp tại Viêng Chăn, hai bên ký Tuyên bố
chung về Hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố. Đây là văn kiện hợp tác an ninh đầu
tiên giữa hai bên, trong đó xác định rõ mục tiêu của hợp tác là tăng cường hiệu quả
của những nỗ lực chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế, đồng thời đề ra phạm vi và
các lĩnh vực hợp tác cụ thể.
Trong lĩnh vực kinh tế, dưới tác động của việc triển khai AJCEP, quan hệ
mậu dịch và đầu tư giữa ASEAN và Nhật Bản tăng lên nhanh chóng. Tổng kim
9
ngạch buôn bán giữa hai bên đã tăng từ 143,3 tỷ USD năm 2004 lên 154,6 tỷ năm
2005 và lên gần 200 tỷ vào năm 2010. FDI của Nhật Bản ở ASEAN năm 2004 đạt
3,12 tỷ USD, năm 2005 là 3,16 tỷ USD và lên 10 tỷ USD vào năm 2010. Nhật Bản
tiếp tục là nhà cung cấp FDI lớn thứ 3 cho ASEAN. Nhật Bản đã giành cho
ASEAN 24 tỷ USD, chiếm 30% tổng số ODA song phương của Nhật Bản. Để hỗ
trợ cho tiến trình hội nhập ASEAN, Nhật Bản, Nhật Bản đã ủng hộ 7,5 tỷ Yên (70
triệu USD) thông qua Quỹ phát triển ASEAN và các quỹ hợp tác ASEAN – Nhật
Bản. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản còn quyết định viện trợ 202 triệu USD để
chống dịch cúm gia cầm ở châu Á, trong đó phần lớn là dành cho các nước
ASEAN.
Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, tại Hội nghị Cebu tháng giêng năm 2007,
Chính phủ Nhật mới đưa ra Sáng kiến giao lưu thanh niên trên quy mô lớn với tổng
kinh phí lên tới 315 triệu đô la Mỹ. Sáng kiến được thực hiện trong 5 năm, dự kiến
mỗi năm mời 6.000 thanh niên từ ASEAN và các nước thành viên tham gia tiến
trình Thượng đỉnh Đông Á tới thăm Nhật Bản. Ngoài ra, chính phủ Nhật còn đề

xuất sáng kiến “Con tàu thanh niên Đông Á” để kỷ niệm 40 năm ASEAN.
2.3. Quan hệ ASEAN – Hàn Quốc
Dưới tác động trực tiếp của ASEAN + 3 đã có bước phát triển mạnh mẽ. Từ
cuối năm 2000, hai bên đã xác định công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực,
trao đổi văn hóa, viện trợ y tế và phát triển vùng hạ lưu song Mêkông là các lĩnh
10
vực ưu tiên hợp tác. ASEAN và Hàn Quốc đã quyết thành lập Quỹ đặc biệt
ASEAN – Hàn Quốc (SCF) và Quỹ các dự án hợp tác hướng tới tương lai
(FOCPF).
Quan hệ ASEAN – Hàn Quốc đã có bước phát triển đột phá vào năm 2004,
với việc hai bên ký “Tuyên bố chung về quan hệ đối tác hợp tác toàn diện”, trong
đó nêu rõ mục đích là “để củng cố quan hệ đối tác toàn diện và lập định hướng
tương lai trong thế kỷ XXI; đồng thời đề ra phương hướng và các biện pháp hợp tác
cụ thể trong các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế và phát triển. Tuyên bố chung
này không chỉ cung cấp nền tảng pháp lý cho việc phát triển quan hệ ASEAN –
Hàn Quốc trong thế kỷ XXI, mà còn đề ra một chương trình nghị sự hợp tác rộng
lớn, biến quan hệ này thật sự trở thành đối tác toàn diện. Tháng 12/2005 hai bên ký
hiệp định khung về quan hệ đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Hàn Quốc và tháng
5/2006 ký hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN và Hàn Quốc (AKFTA). Tháng
6 năm 2009 ký hiệp định đầu tư ASEAN - Hàn Quốc. Tháng 10 – 2010 ASEAN và
Hàn Quốc thống nhất nâng tầm quan hệ lên thành đối tác chiến lược và thông qua
tuyên bố chung về đối tác chiến lược vì hòa bình, thịnh vượng.
Trong những năm qua, ASEAN và Hàn Quốc đã xúc tiến hàng loạt hoạt
động hợp tác.
Trong lĩnh vực chính trị, các hội nghị thượng đỉnh hàng năm, ASEAN và
Hàn Quốc đã trao đổi quan điểm về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm,
11
nhất là vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Hai bên cho rằng, ASEAN có thể
đóng một vai trò xây dựng để bắc cầu với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên,
giúp tạo ra một môi trường tin cậy, thuận lợi cho cuộc đàm phán 6 bên.

Trong lĩnh vực an ninh, ASEAN và Hàn Quốc cộng tác chặt chẽ với nhau để
chống tội phạm xuyên quốc gia trong khuôn khổ hợp tác ASEAN + 3 cũng như
ARF.
Trong lĩnh vực kinh tế, tháng 12 – 2005 các nhà lãnh đạo ASEAN và Hàn
Quốc đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa hai bên, đề ra mục
tiêu thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc và các biện pháp nhằm
hiện thực hóa mục tiêu trên.
Hiện nay, ASEAN và Hàn Quốc là các đối tác kinh tế quan trọng của nhau.
Quan hệ mậu dịch song phương ASEAN – Hàn Quốc tăng từ 31,5 tỷ USD năm
2002 lên 32,2 tỷ vào năm 2003, lên 90 tỷ vào năm 2010 và dự kiến lên đến 150 tỷ
vào năm 2015. FDI của Hàn Quốc chiếm 3% FDI vào ASEAN trong giai đoạn
1995 – 2003, với tổng số vốn lên tới 11 tỷ đô la, chiếm 12,5% tổng FDI ra bên
ngoài của Hàn Quốc. Hợp tác phát triển ASEAN – Hàn Quốc thu được những kết
quả thiết thực. Cho tới nay, một số dự án phát triển được thực hiện với sự hỗ trợ
của SCF và FOCPF. Từ năm 2000 – 2005, đã có 61 dự án thực hiện xong, 11 dự án
đang thực hiện và 21 dự án sắp thực hiện.
12
Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, các chương trình giao lưu nhân dân đã được
thúc đẩy. FOCP đã tài trợ cho các chương trình trao đổi chuyên gia về văn hóa,
quan chức chính phủ, giới y tế, giới nghiên cứu và thanh niên, tại Hội nghị Thượng
đỉnh lần thứ 10 vừa qua, Hàn Quốc đã đề xuất việc thành lập Trung tâm ASEAN –
Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hơn nữa sự hiểu biết và nhận thức về nhau giữa hai bên.
3. Cơ hội phát triển cùng với những thách thức của Đông Nam Á khi
tiến hành hợp tác đối thoại với nhóm nước + 3
Trong khuynh hướng khu vực hóa, việc hình thành nên ASEAN + 3 là kết
quả tất yếu của quá trình phát triển hợp quy luật. Tuy nhiên việc hợp tác phát triển
với các nước phát triển là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc vừa tạo ra những cơ
hội lớn đồng thời cũng có những thách thức không nhỏ đối với quá trình phát triển
của ASEAN.
3.1. Những cơ hội phát triển

Các quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là những quốc gia phát triển,
nhu cầu về nguồn tài nguyên cho phát triển kinh tế là rất lớn. Việc hợp tác với các
nước phát triển sẽ tạo nhiều điều kiện cho các nước Đông Nam Á, nhất là những
nước kém phát triển xuất khẩu được nguồn tài nguyên thô của mình như dầu mỏ,
than đá và các sản phẩm nông nghiệp.
13
Các quốc gia trong khối ASEAN hầu như là những nước đang phát triển và
chậm phát triển, vì vậy mà yêu cầu về công nghệ là tối cần thiết cho quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Do vậy, hợp tác với những nước lớn có nến kinh
tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ là một thuận lợi cho các nước ASEAN
trong việc tìm kiếm công nghệ cao cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Việc thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN và các nước
phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc sẽ tạo ra được một thị trường rộng lớn cho
việc tiêu thụ sản phẩm của các nước ASEAN cũng như các bên tham gia.
Các hiệp đình an ninh,chính trị được ký kết giữa ASEAN và các nước Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ tạo nên một môi trường hòa bình thân thiện, tạo
được uy thế và tiếng nói của các nước ASEAN trên trường quốc tế.
3.2. Thách thức lớn
Bên cạnh những cơ hội được tạo ra thì các nước ASEAN cũng gặp phải
những khó khăn to lớn khi buộc phải “kết nạp” thêm những nền kinh tế lớn.
Thách thức lớn nhất của ASEAN là tìm lại vai trò và ảnh hưởng của một tổ
chức khu vực đối với khu vực và đối với từng thành viên mà nó đã từng có nhưng
đang bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi sự tham gia của các quốc gia lớn.
Thành lập khu vực mậu dịch tự do sẽ thuận lợi cho sự di chuyển của hàng
hóa, tuy nhiên nó tạo ra một môi trường cạnh tranh mà ở đó hàng hóa của những
14
nước Đông Nam Á khó có thể cạnh tranh được với hàng hóa của những quốc gia
phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Thách thức lớn đối với ASEAN là những thách thức đến từ môi trường chính
trị và an ninh thế giới. Khủng bố, toàn cầu hoá và những nguy cơ an ninh phi

truyền thống đòi hỏi ASEAN phải có cách tiếp cận mới trong việc gắn sự phát triển
năng động và lâu bền của Hiệp hội với việc quan tâm giải quyết những nguy cơ đó.
Đã đến lúc ASEAN không chỉ phải thể hiện có tác dụng thiết thực đối với các
thành viên của nó, mà còn phải đóng vai trò xứng đáng trong mọi mặt đời sống của
khu vực và thế giới
Thách thức lớn đối với ASEAN cũng còn đến từ chính các đối tác đối thoại
của ASEAN. Nó đặt ASEAN trước sự cần thiết phải vừa tăng cường sự hợp tác
này, mở rộng ra thêm nhiều lĩnh vực, nhưng đồng thời phải giữ vai trò chủ động thì
mới có thể tranh thủ được cái thuận và hạn chế được tác động bất lợi đối với
ASEAN cũng như đối với một số thành viên. Chính sách hai mặt của các đối tác
này đối với ASEAN luôn bao hàm ý đồ gây phân rẽ trong nội bộ ASEAN, hoặc ít
nhất giữa một số thành viên nhất định, để từ đó tạo dựng vai trò và ảnh hưởng. Các
nước Đông Nam Á phảo khéo léo trong các quan hệ chồng chéo với những nước
lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Mỹ khi những nước này đang tìm cách
để gây tầm ảnh hưởng của mình.

×