Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng ptnđbscl hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.26 KB, 69 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong chuyên đề này là trung thực,xuất phát từ
tình hình thực tế của đơn vị thực tập.
Hà Nội ngày17 tháng 4 năm 2005
Sinh viên thực hiện.
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

CNH-HĐH:Công nghiệp hoá-hiện đại hoá
NH:Ngân hàng
NHTM:Ngân hàng thương mại
PTNĐBSCL:Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long
NHNN:Ngân hàng Nhà nước
LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước
đang từng bước vào đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên hiện nay tốc độ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đang bị chững lại bởi nhiều nguyên nhân khác nhau
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

mà một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là vấn đề về vốn. Có thể
nói vốn là tiền đề, là cơ sở đầu tiên để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất
kinh doanh và đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp có thể tạo vốn bằng
nhiều cách khác nhau: có thể tích luỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, huy
động vốn, liên doanh liên kết, hay vay mượn chiếm dụng vốn các doanh
nghiệp khác. Nhưng muốn ổn định và có lợi thế nhất giúp các doanh nghiệp
tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới công nghệ là nguồn vốn trung và


dài hạn từ các Ngân hàng thương mại.
Hiện nay các doanh nghiệp đang thiếu vốn nhất là vốn trung và dài hạn
trong khi vốn tồn đọng trong các Ngân hàng thương mại không phải là ít. Như
vậy, không phải chúng ta thiếu vốn mà là chúng ta chưa có cách chuyển vốn
huy động được vào sản xuất kinh doanh, Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội
cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Hiện nay nguồn vốn cho vay trung và
dài hạn của Ngân hàng kém đa dạng về cơ cấu khách hàng. Hầu như Ngân
hàng chỉ tập trung vào doanh nghiệp Nhà nước, chưa quan tâm tới các đối
tượng khách hàng khác đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Vì lý do đó "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại
Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội" được chọn làm đề tài nhằm đáp ứng đòi hỏi
thiết thực của thực tiễn, vừa mang tính thời sự trong kinh doanh tiền tệ của
Ngân hàng hiện nay.
Từ những lý do cơ bản về tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng
thương mại, chuyên đề này sẽ phân tích và đánh giá thực trạng, tìm nguyên
nhân dẫn đến các mặt hạn chế hiện nay tại Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Chuyên đề được kết cấu như sau:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân
hàng PTNĐBSCL Hà Nội.
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài
hạn Ngân hàng PTNĐBSCL Hà Nội.
Do trình độ còn hạn chế nên bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót, em
rất mong sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn bè để
vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG
1. Khái niệm tín dụng và tín dụng Ngân hàng.
1.1. Khái niệm tín dụng.
Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời từ rất lâu nhưng cho đến này vẫn chưa
có sự thống nhất khi định nghĩa đầy đủ về tín dụng. Khái niệm tín dụng có
nguồn gốc từ thuật ngữ La tinh là "Creditum" có nghĩa là sự tin tưởng, tín
nhiệm. Hiểu một cách nôm na thì tín dụng là sự vay mượn, sử dụng vốn lẫn
nhau giữa người đi vay và người cho vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả. Theo
nghĩa rộng, quan hệ tín dụng gồm hai mặt: huy động vốn và tiến hành cho
vay. Trong lịch sử, tín dụng ra đời và phát triển cùng với nền sản xuất hàng
hoá. Kinh tế hàng hoá càng phát triển thì tín dụng càng giữ vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. Mục đích và tính chất của
tín dụng do mục đích và tính chất của nên sản xuất hàng hoá trong xã hội
quyết định. Sự vận động của tín dụng luôn luôn chịu sự chi phối của các qui
luật kinh tế, của phương thức sản xuất trong xã hội đó. Vì vậy trong điều kiện
của nền kinh tế thị trường thì sự tồn tại của tín dụng là một khách yếu khách
quan. Từ đó chúng ta có thể định nghĩa tín dụng như sau:
"Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (trái chủ hoặc
người cho vay) chu cấp tiền, hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng khoán dựa vào lời
hứa thanh toán trong tương lai của bên kia (thụ trái hoặc người vay), thông
thường những giao dịch như vậy còn bao gồm cả việc thanh toán lợi tức cho
người vay".
1.2. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức
trung gian vì trong mối quan hệ với các nhà doanh nghiệp, Ngân hàng vừa là
người đi vay đồng thời là người cho vay. Với tư cách là người đi vay Ngân
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


hàng sẽ nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng
chỉ tiền gửi trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Mặt khác, với tư cách là
người cho vay Ngân hàng sẽ cung cấp tín dụng cho các nhà doanh nghiệp và
các cá nhân có nhu cầu.
Như vậy, đối với các Ngân hàng thương mại, tín dụng Ngân hàng nghĩa
là cho vay hay ứng trước tiền do Ngân hàng thực hiện. Bản thân Ngân hàng là
người cho vay còn người đi vay là những loại khách hàng khác nhau của
Ngân hàng.
2. Chức năng và vai trò của tín dụng Ngân hàng.
2.1. Chức năng.
Trong nền kinh tế hàng hoá tín dụng thực hiện 3 chức năng chính sau
đây:
- Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên cơ sở có hoàn trả.
Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng. Tập trung và phân phối lại
vốn tiền tệ là 2 quá trình thống nhất trong sự vận hành của hệ thống tín dụng.
Nhờ chức năng này của tín dụng mà các nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được
điều hoà từ nơi "thừa" sang nơi "thiếu" để sử dụng nhằm phát triển nền kinh
tế. Như vậy sự có mặt của tín dụng được xem như là chiếc cầu nối giữa các
nguồn cung - cầu về vốn tiền tệ trong nền kinh tế. Nói cách khác, ở khâu tập
trung, tín dụng là nơi tập hợp những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã
hội.
Ở khâu phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng là nơi đáp ứng nhu cầu vốn
cho doanh nghiệp, các cá nhân và cho cả ngân sách. Trên thực tế vận dụng
chức năng này của tín dụng còn được thể hiện bằng loại hình tín dụng gián
tiếp như: mua bán chịu hàng hoá giữa các doanh nghiệp, các doanh nghiệp
hay Nhà nước sẽ tự huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu trên thị
trường chứng khoán.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Như vậy, nếu trong điều kiện cơ chế quản lý kinh tế theo kế hoạch, chức
năng này của tín dụng chỉ được thực hiện hầu hết qua các tổ chức trung gian,
thì trong điều kiện cơ chế thị trường qua các tổ chức trung gian, thì trong điều
kiện cơ chế thị trường cùng với đa dạng các hình thức tín dụng thì việc tổ chứ
phân phối vốn tín dụng cũng được phong phú hơn, tạo điều kiện phân phối
vốn linh hoạt và hiệu quả hơn.
- Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội chức năng
này được biểu hiện cụ thể qua quá trình huy động kịp thời những nguồn vốn
tạm thời nhân rỗi trong xã hội đưa vào chu chuyển nghĩa là tín dụng đã tăng
nhịp độ vòng quay của đồng tiền, giảm lượng tiền dư thừa nhằm ổn định lưu
thông tiền tệ. Hơn nữa trong điều kiện hệ thống ngân hàng phát triển thì song
song với quá trình tổ chức nghiệp vụ tín dụng sẽ là việc mở rộng thanh toán
không dùng tiền mặt trong lưu thông đồng thời giảm những chi phí lưu thông
khác như: chi phí in ấn giấy bạc, chi phí bảo quản tiền, vận chuyển tiền…
- Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động, kinh tế thông qua quá
trình tập trung và phân phối lại vốn, tín dụng góp phần phản ánh được mức độ
phát triển nền kinh tế về các mặt như: khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội,
nhu cầu vốn trong từng thời kỳ…,từ đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về
những quan hệ cân đối lớn trong nền kinh tế đặc biệt là quan hệ giữa tích luỹ
và tiêu dùng. Đặc biệt trong hoạt động cho vay của ngân hàng để góp phần
đảm bảo an toàn về nguồn vốn, ngân hàng luôn thực hiện quá trình kiểm tra
tình hình tài chính của đơn vị nhằm phát hiện kịp thời những chế độ quản lý
kinh tế của Nhà nước. Bên cạnh đó, trên cơ sở thực hiện nguyên tắc cho vay
và có hoàn trả, ngân hàng còn phản ánh kịp thời tình hình quản lý và sử dụng
vốn của các đơn vị có hiệu quả hay không.
Như vậy, chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế sẽ góp
phần giải quyết tình trạng mất cân đối cục bộ của nền kinh tế với những giải
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


pháp khắc phục kịp thời, từ đó nền kinh tế với những giải pháp khắc phục kịp
thời, từ đó phát huy vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Điều này cũng có nghĩa là tín dụng cần phải được vận dụng như một
trong những đòn bẩy kích thích kinh tế không thể thiếu trong quá trình tổ
chức quản lý kinh tế tài chính, kiểm soát và thúc đẩy các hoạt động kinh tế
quốc dân.
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

2.2. Vai trò của tín dụng.
Trên cơ sở phát huy chức năng vốn có của tín dụng thể hiện 3 vai trò tích
cực đối với các mặt trong đời sống kinh tế xã hội.
- Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, trong quá trình sản
xuất kinh doanh để duy trì sự hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các xí nghiệp
phải đồng thời tồn tại ở cả 3 giai đoạn: dự trữ, sản xuất và lưu thông. Với mục
tiêu mở rộng sản xuất đối với từng doanh nghiệp thì yêu cầu về nguồn vốn là
một trong những mối quan hệ hàng đầu được đặt ra. Bởi lẽ, để đẩy mạnh tiến
độ phát triển sản xuất không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà doanh nghiệp
phải biết tận dụng những dòng chảy khác của vốn trong xã hội. Lúc này tín
dụng sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu về vốn bổ sung cho đầu tư phát triển.
Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phân công và hợp tác quốc tế
ngày một sâu rộng thì quá trình điều tiết vốn không chỉ giới hạn trong phạm
vi quốc gia nào hình thành các quan hệ tín dụng quốc tế. Trên cơ sở đó, tín
dụng góp phần phát triển các mối quan hệ đối ngoại. Thực hiện vai trò này,
tín dụng luôn là người trợ thủ đắc lực cho các doanh nghiệp và là người hạn
đường trong tiến trình phát triển kinh tế.
- Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả với chức năng tập
trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng đã góp phần làm khối lượng tiền
lưu hành trong nền kinh tế đặc biệt là tiền mặt trong tay các tầng lớp dân cư,

từ đó làm giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định tiền tệ. Mặt
khác, do cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp hình thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất ngày càng
phát triển, sản phẩm hàng hoá, dịch vụ làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng được
nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Qua đó cho thấy tín dụng đã đóng góp
không nhỏ trong việc ổn định tiền tệ tạo điều kiện để ổn định giá cả và là tiền
đề quan trọng để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

- Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định
trật tự xã hội.
Vai trò này của tín dụng có thể nói là hệ quả tất yếu của 2 vai trò trên.
Thật vậy, do tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản
xuất hàng hoá và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thoả mãn nhu cầu đời
sống của người lao động. Mặt khác, hoạt động tín dụng không chỉ đáp ứng
cho nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp lân cư.
Đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý của cá nhân để phát triển kinh tế gia đình,
mua sắm nhà cửa, tư liệu sinh hoạt…nhằm mục đích cải thiện từng bước đời
sống của nhân dân, tạo công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, qua đó góp
phần ổn định trật tự xã hội.
Cuối cùng có thể nói, tín dụng còn có vai trò quan trọng để mở rộng các
mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế, từ đó giúp đỡ và
giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của Nhà
nước, làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng phát triển
trong sự hợp tác bình đẳng.
3. Các loại hình tín dụng Ngân hàng.
Quá trình phát triển của xã hội và sự đa dạng hoá các hoạt động kinh tế
đã kéo theo sự phát triển của tín dụng ngày càng phong phú và đa dạng hơn.
Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng thương

mại mà có các cách phân chia tín dụng như sau:
3.1. Nếu căn cứ vào thời hạn, tín dụng chia thành 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm (có nơi quy đinh là 7
năm).
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn từ 5 năm (hoặc 7 năm) trở lên.
Thời hạn tín dụng chính là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp
cho khách hàng một khoản tín dụng và nó được xác định cụ thể ngày, tháng,
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

năm. Hiểu cách khác thời hạn tín dụng là thời hạn được tính từ lúc đồng vốn
đầu tiên của ngân hàng phát ra đến lúc vốn và lãi cuối cùng phải thu về.
Tín dụng ngắn hạn thường gắn với những khoản vay của doanh nghiệp
để bổ sung vào tài sản lưu động vì tài sản lưu động thường có vòng quay nhỏ
hơn 1 năm. Do đó trong một năm doanh nghiệp có thể hoàn trả được số tiền
vay ở ngân hàng.
Các tài sản cố định như phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải…các
trang thiết bị nhanh hao mòn có nhu cầu nguồn vốn từ 1 đến 5 năm. Ngược
lại, những công trình đầu tư vốn lớn, thu hồi vốn lâu như máy móc thiết bị
công nghiệp nặng, xây dựng công trình công cộng…có nhu cầu nguồn vốn từ
5 đến 10 năm hoặc lâu hơn nữa.
Tất nhiên cùng với độ dài của thời gian, việc thu hồi vốn đối với các dự
án có thời hạn dài gặp nhiều khó khăn hơn vì tại thời điểm xin vay vốn, doanh
nghiệp chưa thể tính hết được những khó khăn gặp phải trong tương lai khi
tiến hành sản xuất kinh doanh. Chính vì điều này mà mức độ rủi ro cho những
khoản vay dài hạn luôn cao hơn những khoản vay ngắn hạn. Đây là sự lý giải
cho việc lãi suất các khoản vay dài hạn thường cao hơn các khoản vay ngắn
hạn.
Cách phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với

ngân hàng thương mại, nó phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro và những
ảnh hưởng trực tiếp đến tính an toàn và khả năng sinh lời của một doanh
nghiệp.
3.2. Phân loại theo hình thức cho vay.
Căn cứ theo hình thức cho vay ta có các loại tín dụng sau: chiết khấu,
cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hang tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý thì ngân hàng không
phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu mà đây chỉ là hình thức trao đổi trái
quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra trong thời gian hiện tại để
thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi
như là một hoạt động tín dụng ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán song
thực chất là thay thế người mua trả tiền cho người bán.
- Cho vay là một trong những nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng và
là hoạt động sinh lời cao nhất cho các ngân hàng thương mại. Đây chính là
việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết rằng khách hàng sẽ phải
hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong 17 thời gian xác định.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình khi khách hàng không có khả năng chi trả. Mặc dù
không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của
mình để thu lợi.
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
những thoả thuận nhất định. Sau một thời gian, khách hàng phải trả cả gốc lẫn
lãi cho ngân hàng. Đây là một loại hình kinh doanh mới mẻ của ngân hàng
nhưng đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Vì thế hiện nay các ngân hàng

thương mại cũng khá chú trọng nâng cao chuyên môn cũng như mở rộng kiến
thức về công nghệ, kỹ thuật cho cán bộ tín dụng để phổ biến loại hình dịch vụ
này đến với nhiều đối tượng khách hàng.
3.3. Phân loại theo tàn sản đảm bảo.
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn
thu nợ thứ 2 bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nơi thứ nhất không có
hoặc không đủ.
Theo cách phân loại này, tín dụng được chia thành 2 loại, đó là tín dụng
có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng và tín dụng có đảm bảo bằng
thế chấp, cầm cố tài sản.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

- Tín dụng có đảm bảo là sự cam kết của người nhận tín dụng về việc
dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng hoặc khả năng trả nợ của
người thứ 3 để trở nợ cho ngân hàng trong trường hợp mình không trả được
nợ. Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng
phải ký hợp đồng đảm bảo bảo ngân hàngphải kiểm tra, đánh giá được tình
trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, khả năng bán, khả năng tài
chính của người thứ 3…) để hạn chế được sự rủi ro trong trường hợp khách
hàng không trả được nợ. Tín dụng có đảm bảo được ngân hàng áp dụng đối
với những trường hợp có độ rủi ro cao như khách hàng mới hoặc những khách
hàng có khả năng tài chính không tốt…
- Tín dụng không cần tài sản đảm bảo là loại hình tíndụng mà khách
hàng có nhu cầu vay vốn với một mức nhất định mà không cần tài sản đảm
bảo. Loại hình tín dụng này thường được cấp cho những khách hàng có uy tín,
khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy
ra nợ nần hoặc đối với những món vay tương đối nhhỏ so với vốn của người
đi vay. Hình thức này cũng được ngân hàng áp dụng đối với các khoản vay
theo chỉ thị của chính phủ, các tổ chức tài chính, Công ty lớn…

3.4. Phân loại tín dụng theo rủi ro.
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ,
các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi
ro theo dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản bao gồm cả
tài sản ngoại bảng, nội bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán…cách phân loại
này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín
dụng và trích lập dự phòng các tổn thất kịp thời.
Bên cạnh những tiêu thức phân loại trên, ngân hàng còn sử dụng các
phương thức phân loại theo ngành kinh tế, theo đối tượng tín dụng, theo mục
đích…
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

II. TÍN DỤNG TRUNG - DÀI HẠN VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG
TRUNG VÀ DÀI HẠN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Tín dụng trung và dài hạn.
Tín dụng trung và dài hạn là hoạt động tài chính cho khách hàng vay vốn
trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh.
phục vụ đời sống. Đây là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu
nhập chủ yếu và nó chiếm phần lớn hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Chính vì thế việc xem xét chất lượng tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và
dài hạn là việc làm quan trọng và cần thiết đối với mỗi ngân hàng. Nó giúp
cho ngân hàng có thể đánh giá lại hoạt động tín dụng của mình và từ đó đưa
ra các giải pháp khắc phục tồn tại, thiếu sót để đẩy nhanh hơn nữa hoạt động
tín dụng.
Nếu xét theo quan điểm của các ngân hàng thì hoạt động tín dụng trung
và dài hạn được xem là có hiệu quả khi nó đảm bảo được 3 yếu tố: khả năng
sinh lời, khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn và khả năng thanh toán từ
phía nguồn. Điều này có nghĩa là các ngân hàng khi tiến hành cho vay trung
và dài hạn thì khoản vay đó phải đảm bảo trang trải được chi phí trả cho lãi

suất huy động hoặc đi vay, chi phí hoạt động của ngân hàng và lãi dự tính.
Tuy nhiên các ngân hàng cũng phải xem xét, cân nhắc các dự án để cho
vay hợp lý tránh rơi vào tình trạng rủi ro khi không thu hồi được vốn hhoặc
cho vay không cân xứng với nguồn vốn huy động…
- Hoạt động tín dụng theo hình thức dự án đầu tư.
- Hình thức cho thuê tài chính.
- Hình thức khấu chi.
- Bảo lãnh trung và dài hạn.
2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn.
2.1. Vai trò đối với các doanh nghiệp.
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

- Tín dụng trung và dài hạn là nguồn tài trợ giúp doanh nghiệp có điều
kiện mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Đây là mục tiêu hàng đầu
của doanh nghiệp vì đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản
xuất kinh doanh đều mong muốn gia tăng lợi nhuận. Để đạt được điều này
doanh nghiệp cần phải mở rộng thị trường hoạt động của mình, nếu vậy
doanh nghiệp cần phải mở rộng sản xuất. Nghe có vẻ đơn giản nhưng đây
không phải là công việc đơn giản, kéo theo nó là hàng loạt các vấn đề như
doanh nghiệp phải tăng thêm các thiết bị máy móc tiên tiến phục vụ sản xuất,
tăng nhân công, chi nhánh…và việc nào cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải có
được nguồn vốn dài hạn để đầu tư. Đặc biệt đối với nền kinh tế Việt Nam
hiện nay, nhu cầu vốn xây dựng cơ bản là rất lớn trong lúc các nhà kinh doanh
chưa tích luỹ được nguồn vốn lớn nên tâm lý đầu tư trực tiếp của công chúng
vào doanh nghiệp còn hạn chế.
Việc vay vốn trung và dài hạn ở ngân hàng sẽ làm cho doanh nghiệp có
thể tự chủ và có khả năng kiểm soát độc lập được hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp mà không phải phân chia quyền kiểm soát với các cổ
đông nếu huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu.

- Tín dụng trung và dài hạn giúp doanh nghiệp thoả mãn và chớp được
thời cơ kinh doanh.
Nhiều doanh nghiệp khi có được thời cơ kinh doanh đều cần vốn để mở
rộng sản xuất, gia tăng sản lượng để chiếm lĩnh thị trường, lúc này ngân hàng
là người bạn đồng hành không thể thiếu đối với các doanh nghiệp.
2.2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với nền kinh tế.
- Tín dụng diều hoà được lượng cung cầu vốn trong nền kinh tế. Với
chức năng làm trung gian tài chính, các ngân hàng tập trung các nguồn vốn
tạm thời nhãn rỗi trong nền kinh tế để cho vay các đối tượng cần vốn, điều đó
được thể hiện rõ trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng.
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

- Tín dụng trung và dài hạn có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn. Việc này góp
phần phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực để có thể hội nhập với
nền kinh tế khu vực cũng như thế giới.
2.3. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với hoạt động của ngân
hàng thương mại.
- Tín dụng trung và dài hạn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng,
đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Do đó đây là hoạt
động mang tính chiến lược của các ngân hàng nói chung và ngân hàng thương
mại nói riêng.
- Mặt khác tín dụng trung và dài hạn còn có cách thức khả thi để giải
quyết nguồn vốn huy động dư thừa tại các ngân hàng. Đồng thời cũng là cách
ngân hàng gọi vốn từ nền kinh tế đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh
nghiệp.
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


3. Các nguyên tắc của tín dụng trung và dài hạn.
3.1. Tín dụng phải bám sát phương hướng mục tiêu của kế hoạch Nhà
nước.
Đây là nguyên tắc quan trọng của tín dụng. Hiện nay, nền kinh tế Việt
Nam đang bước vào giai đoạn nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thu hút
được nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư với những dự án có giá
trị cao, tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu xã hội. Tuy nhiên
tất cả các hoạt động này đều phải được vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Đầu tư của Nhà nước và đầu tư qua tín dụng phải là
đầu tư có định hướng để đảm bảo cho các ngành, các thành phần kinh tế, các
vùng có điều kiện phát triển. Điều này mang lại ý nghĩa hết sức to lớn không
những đối với sự tồn tại và sống còn đối với riêng ngân hàng mà còn cả cho
nền kinh tế và cả những đối tượng sử dụng vốn đầu tư. Những dự án lớn nếu
không đảm bảo theo chế độ, chính sách thì sẽ gây ra thiệt hại lớn cho xã hội.
Nói chung, hiệu quả của việc đầu tư và đầu tư tín dụng phải được thể hiện
trên 2 mặt: hiệu quả kinh tế và lợi ích xã hội thông qua các chỉ tiêu:
- Khối lượng sản phẩm, dịch vụ tạo ra.
- Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư.
- Thời gian hoàn vốn.
Một dự án đầu tư được coi là hiệu quả kinh tế đồng thời mang lại những
lợi ích sau:
- Tạo thêm việc làm cho người lao động
- Khi hoàn thành và đi vào hoạt động, công trình có tác động tích cực
đến sự phát triển của các ngành sản xuất có liên quan và làm tiền đề thúc đẩy
phát triển kinh tế.
- Đóng góp quan trọng vào việc tăng nguồn thu ngân sách.
3.2. Sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả.
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Đây là nguyên tắc vốn có của hoạt động tín dụng nói chung. Thực hiện
tốt nguyên tắc này sẽ tác động tích cực đến tín dụng đầu tư. Nguyên tắc này
thể hiện trên 2 mặt:
- Sử dụng tiền vay đúng mục đích là yêu cầu cơ bản đảm bảo cho việc
hoàn thành kế hoạch xây dựng nói chung của toàn xã hội theo kế hoạch đã đề
ra.
- Sử dụng tiền vay đúng mục đích, phù hợp với khối lượng và chi phí
đầu tư theo luận chứng kinh tế kỹ thuật sẽ cho phép đảm bảo tiến độ thi công
và hoàn thành công trình để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
3.3. Hoàn trả gốc và lãi vay đúng hạn.
Với số lượng tín dụng trong thời gian dài, yêu cầu chủ đầu tư phải hoàn
trả nợ gốc và lãi đúng hạn vì các nguồn này bao giờ cũng được tính toán kỹ
lưỡng và có kế hoạch cân đối chính xác để đảm bảo cho nguồn vốn ngân hàng
luôn được cân đối.
3.4. Tránh rủi ro và đảm bảo khả năng thanh toán.
Bất cứ hoạt động kinh tế nào cũng yêu cầu tránh được càng nhiều rủi ro
càng tốt. Đặc biệt là đối với tín dụng vì nếu có một sự cố xảy ra thì sẽ ảnh
hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Do đó để hạn chế rủi ro và đảm bảo khả năng
thanh toán thì phải tôn trọng những yêu cầu sau:
- Không nên tập trung tín dụng vào một số ít công trình vì như thế không
thể phân tán được rủi ro trong trường hợp không may xảy ra.
- Chỉ đầu tư tín dụng vào những dự án có tính khả thi cao, hiệu quả kinh
tế lớn và thời gian hoàn vốn phù hợp.

III. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN VÀ SỰ
CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG -
DÀI HẠN.
1. Quan niệm về chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển được, các doanh
nghiệp phải trả lời ba câu hỏi lớn đó là: sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Và
sản xuất bằng cách nào? đây là ba vấn đề cơ bản mà các doanh nghiệp gặp
phải trong nền kinh tế thị trường. Để làm được điều này các doanh nghiệp
phải quan tâm đến một yếu tố rất quan trọng đó là chất lượng của sản phẩm.
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ trên thị
trường, những khoản cho vay cũng là một sản phẩm, nó cũng có giá cả và
chất lượng như những hàng hoá khác.
Chất lượng của một khoản tín dụng là: "Mức độ đáp ứng yêu cầu của
khách hàng (cả người vay lẫn người cho vay tiền), phù hợp với các điều kiện
kinh tế - xã hội và điều kiện đặc thù của bản thân ngân hàng, đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng"
Chất lượng cho vay được xem xét trên những góc độ:
- Đối với khách hàng: Đó là vay được tiền phù hợp với mục đích sử
dụng với các điều khoản về lãi suất, kỳ hạn nợ, thủ tục đơn giản, thuận tiện
đảm bảo thanh toán phù hợp với lợi ích của khách hàng và luật pháp hiện
hành nhằm đảm bảo khả năng duy trì và mở rộng sản xuất, tăng cường hiệu
quả sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Đối với Ngân hàng thương mại: cho vay cung cấp phù hợp với thực lực
tài chính và quản lý của Ngân hàng, phù hợp với chiến lược khách hàng, phù
hợp với nguyên tắc cho vay, chiến lược cạnh tranh và phát triển, đảm bảo
nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi với giá thành hợp lý, đảm bảo việc
tuân thủ pháp luật hiện hành và thực hiện vai trò của Ngân hàng trong nền
kinh tế thị trường.
- Đối với nền kinh tế: Cho vay cung cấp đáp ứng được nhu cầu vốn cho
sản xuất kinh doanh hàng hóa, đảm bảo cung cấp vốn đầy đủ, kịp thời và có
hiệu quả cho việc duy trì sản xuất. Mở rộng kinh doanh, tăng cường hiệu quả
và năng lực hoạt động của các doanh nghiệp, góp phần giải quyết các vấn đề
19

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

xã hội như tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng các vùng kinh tế mới,
tạo điều kiện để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia
Như vậy, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề về cách tiếp cận khái niệm
chất lượng cho vay hay chất lượng tín dụng:
- Đây là một khái niệm tương đối: nó vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ
tiêu tính toán như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn ) lại vừa trừu tượng (thể
hiện qua năng lực thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế )
- Chất lượng cho vay là một chỉ tiêu tổng hợp và được xác định qua
nhiều yếu tố như: lãi, mức độ an toàn vốn của kinh doanh, khả năng đáp ứng
nhu cầu vốn của khách hàng
2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
Hơn bao giờ hết, khi nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển
thì nhu cầu về vốn đầu tư mở rộng sản xuất càng trở nên bức thiết. Cùng nhân
tố con người, nguồn vốn cũng trở nên quan trọng ảnh hưởng đến sự thành đạt
hay phá sản của một doanh nghiệp. Để thoả mãn các nhu cầu vốn đầu tư to
lớn đó, cần khai thác tối đa các nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước
ngoài.
Trong tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay, tình trạng máy móc và công
nghệ ở các doanh nghiệp có thể nói là hết sức lạc hậu. Để cải thiện, doanh
nghiệp cần phải có nguồn vốn lớn và ổn định lâu dài mới có thể đầu tư đổi
mới công nghệ. Bên cạnh những công trình lớn, trọng điểm có ý nghĩa toàn
quốc thì sẽ được đầu tư trực tiếp từ Ngân sách Nhà nước. Nhưng với doanh
nghiệp nước ngoài, liên doanh . . . đang đầu tư tại những khu công nghiệp,
khu chế suất thì nhu cầu về vốn là hết sức cần thiết. Chính lúc này tín dụng
trung và dài hạn là một nguồn vốn đắc lực trợ giúp cho các doanh nghiệp.
Nhờ vào sự ổn định về thời gian và lãi suất, các doanh nghiệp có thể tính toán
hợp lý thời gian sử dụng nguồn trả và có kế hoạch sản xuất cụ thể. Có như thế
chúng ta mới công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế theo chủ trương của

20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Đảng và Nhà nước đề ra. Qua đây chúng ta thấy được tín dụng sẽ góp phần
đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất kinh tế, khuyến khích các ngành, các
thành phần kinh tế tiếp thu và áp dụng khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao
động, làm ra ngày càng nhiều của cải cho xã hội. Điều này chứng tỏ tín dụng
ảnh hưởng đến mọi thành phần kinh tế trong xã hội, chỉ cần một rủi ro trong
tín dụng sẽ kéo theo hàng loạt các rủi ro khác và tác động xấu đến sự phát
triển kinh tế. Vì thế việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn là hết sức
cần thiết, nó góp phần làm phát triển đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân.
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

3. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
Như ta đã phân tích ở trên vào quan điểm về chất lượng tín dụng ta thấy
chất lượng tín dụng thể hiện ở sự hài lòng của khách hàng khi đến với Ngân
hàng tuy không đưa ra những chỉ tiêu cụ thể nhưng qua giao dịch hàng ngày
với khách hàng Ngân hàng sẽ nhận thấy hiệu quả của chất lượng tín dụng qua
số lượng khách hàng qua các thời kỳ lượng tín dụng cấp được độ thoả mãn
của khách hàng qua thái độ của họ cũng như truyền thống giao dịch của họ
cũng như góp ý của khách hàng. Để biết những phản ứng của khách hàng
trong chiến lược khách hàng ngân hàng nên tìm hiểu để có những điều chỉnh
phù hợp để đạt mục tiêu đề ra.
Để đánh giá chất lượng công tác tín dụng của Ngân hàng, người ta
thường so sánh kết quả hoạt động năm nay với năm trước, của Ngân hàng với
tình hình của toàn hệ thống Ngân hàng và chủ yếu sử dụng các chỉ số tương
đối. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác tín dụng thường được
sử dụng.
* Chỉ tiêu về huy động vốn trung và dài hạn:

Vốn trung và dài hạn / Tổng nguồn vốn huy động: phản ánh cơ cấu vốn
trung và dài hạn của Ngân hàng và khả năng cung ứng vốn cho đầu tư và phát
triển. Ngân hàng không có cơ hội mở rộng hoạt động tín dụng nếu như tỷ lệ
này quá thấp.
* Mức tăng doanh số cho vay: Trong điều kiện đáp ứng yêu cầu về giới
hạn an toàn do Ngân hàng Trung ương quy định trong từng thời kỳ thì mức
tăng này càng lớn càng tốt. Chỉ tiêu mức tăng doanh thu số cho vay trên thị
trường 1 trên tổng tài sản thể hiện khả năng sinh lời của các sản phẩm cho vay
của các ngân hàng thương mại và được dùng để đánh giá chất lượng cho vay
trong từng thời kỳ.
* Dư nợ tín dụng trung và dài hạn: phản ánh lượng vốn trung - dài hạn
đã được giải ngân tại một thời điểm cụ thể. Tại một ngân hàng dư nợ tín dụng
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

càng lớn thì phản ánh được tình trạng hoạt động của ngân hàng có tốt hay
không. Nếu một ngân hàng quy mô, có lượng vốn lớn thì sẽ có khả năng cho
vay nhất là cho vay trung - dài hạn và ngược lại, nếu một ngân hàng ít vốn thì
nguồn vốn được sử dụng cho tín dụng trung - dài hạn sẽ ít đi.
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tổ chức, quản lý vốn tín dụng, đồng thời
thể hiện chất lượng cho vay của ngân hàng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn
vốn cho vay và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, để có thể đánh giá chất
lượng tín dụng, hoặc được quy đổi đồng nhất trong việc áp dụng cho từng loại
vay cụ thể.
Đối với một ngân hàng, vòng quay vốn tín dụng càng lớn càng tốt.
Chỉ tiêu này cho biết tỉ trọng vốn tín dụng là lớn hay nhỏ, chiếm bao
nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ.
* Doanh số thu nợ trung và dài hạn: chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn
trung và dài hạn mà ngân hàng đã cho vay và đã thu hồi về.
* Hiệu quả sử dụng vốn vay: (Lợi nhuận hoặc hiệu quả xã hội được tạo

ra từ vốn vay ngân hàng). Hiệu quả sử dụng vốn vay càng lớn càng chứng tỏ
ngân hàng đó làm ăn có chất lượng và ngược lại. Thông thường ngân hàng
đánh giá định kỳ xem xét mức độ hiệu quả này, từ đó tìm kiếm các biện pháp
hợp lý để quản lý và nâng cao chất lượng tín dụng.
• Nhóm chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ có vấn đề.
Đối với các ngân hàng, tỉ lệ nợ quá hạn càng nhỏ càng tốt và thực tế hiện
nay các ngân hàng luôn luôn phải tìm cách giảm tối đa tỉ lệ này.
23
* Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số cho vay trong kỳ
Dư nợ bình quân trong kỳ
* Tỉ trọng vốn tín dụng trung - d i hà ạn
=
Dư nợ tín dụng trung-d i hà ạn
Tổng dư nợ
* Tỉ lệ nợ quá
hạn =
Nợ qúa hạn các loại trong kỳ
Tổng dư nợ bình quân
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Để tỷ lệ này phản ánh đúng chất lượng cho vay nên loại trừ các khoản nợ
khoanh ra khỏi nợ quá hạn cũng như loại trừ các khoản cho vay ưu đãi và cho
vay theo chỉ định của Nhà nước ra khỏi tổng dư nợ.
* Tỷ lệ nợ quá hạn thông thường (cho các khoản nợ dưới 180 ngày) chỉ
tiêu này có ý nghĩa với ban lãnh đạo ngân hàng thương mại trong việc đốc
thúc cán bộ cho vay thu nợ đúng hạn. Tuy vậy, nó chưa phản ánh chính xác
chất lượng cho vay bởi có những khoản vay do khách quan mà doanh nghiệp
không tính toán được hợp lý nguồn tiền mặt để trả nợ đúng hạn nhưng doanh
nghiệp có khả năng trả nợ vào một thời gian ngắn sau đó.

* Tỷ lệ nợ quá hạn khê động: áp dụng cho các khoản nợ quá hạn từ 9-12
tháng. Đây là khoản nợ quá hạn có vấn đề với ngân hàng, thể hiện chất lượng
cho vay cua khoản vay kém. Ngân hàng nếu không có biện pháp xử lý khoản
nợ này sẽ phải gánh chịu những tổn thất.
* Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi (nợ quá hạn có khả năng mất trắng): áp dụng
nợ quá hạn trên một năm. Nếu tỷ lệ này cao, ngân hàng không những phải
gánh chịu rủi ro cho vay cao, chất lượng cho vay kém mà ngân hàng còn có
nguy cơ mất khả năng thanh toán. Việc đòi nợ với những khoản vay này là rất
khó khăn và tổn thất là điều rất có thể xảy ra.
* Tỷ lệ tổn thất so với tổng nguồn vốn: quy mô các khoản nợ tổn thất
được thể hiện qua các khoản nợ trình hội đồng cho vay của ngân hàng xem
xét xoá nợ hàng kỳ. Nếu tỷ lệ này quá lớn, chất lượng cho vay không được cải
thiện đồng thời khả năng thanh toán của ngân hàng cũng bị lung lay, Ngân
hàng cần phải duy trì tỷ lệ này ở mức càng gần bằng không càng tốt.
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chât lượng hoạt động tín dụng trung
và dài hạn của Ngân hàng Thương mại.
4.1. Các nhân tố bên ngoài
4.1.1. Môi trường pháp lý.
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Các nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Tính
đầy đủ và thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá
trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí.
Môi trường pháp lý tạo hành lang cho kinh doanh tín dụng Ngân hàng,
Ngân hàng hoạt động trong hành lang hẹp được kiểm soát chặt chẽ bởi Nhà
nước vì đây là lĩnh vực quan trong và nhạy cảm cần phải kiểm soát hậu quả
của nó, tuy vậy không phải là không cần còn nhiều bất cập. Hiện nay, điều
kiện cho vay đặc biệt đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gần như bắt
buộc là phải thế chấp tài sản trong khi đó chúng ta chưa có Luật về sở hữu

nên không có cơ quan nào chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và
quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản. Vì thế trong nhiều trường hợp
Ngân hàng khó có thể xác định chính xác chủ sở hữu của tài sản đó, hoặc phải
lấy chứng nhận của cơ quan nào về nguồn gốc tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
nguồn gốc số tiền nợ là hợp pháp. Mặt khác, pháp luật cho phép các doanh
nghiệp thế chấp giá trị quyền sử dụng đất nhưng lại phải có điều kiện gắn với
tài sản thuộc quyền sở hữu của chính mình cho nên quy định này khó có thể
được áp dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
Việc quản lý của Nhà nước, quản lý kinh doanh của NHNN đối với ngân
hàng cấp dưới, các ngân hàng cổ phần còn chưa chặt chẽ, đầy đủ đúng với
chức năng là ngân hàng của các ngân hàng. NHNN chủ yếu mới chỉ quản lý
điều hành bằng mệnh lệnh, văn bản vừa cứng nhắc vừa không cụ thể và
không nắm được tình hình và hỗ trợ cho ngân hàng cấp dưới.
4.1.2. Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh doanh còn chưa ổn định. Các chính sách và cơ chế quản
lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước ta đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện,
đòi hỏi phải thật năng động, nhiều doanh nghiệp chưa điều chỉnh kịp kế hoạch
kinh doanh với sự thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô hoặc có trường hợp
ngộ nhận nhu cầu thị trường dẫn đến phát triển tràn lan quá mức. Ví dụ về các
25

×