TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA CHĂN NUÔI & NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
= = = = = = = =
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài:
“
“ Tìm hiểu biến động thành phần loài cá của khu hệ cá hồ chứa Thác Bà
”
”
Người thực hiện : Đỗ Học Dân
Lớp : TS
Khóa : 50
Địa điểm thực tập : Trung tâm thủy sản Yên Bái
Người hướng dẫn : 1.ThS. Ngô Sỹ Vân
2.TS. Đào Huy Giáp
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nguồn lợi thủy sản hồ chứa đóng vai trò
quan trọng trong chương trình xóa đói giảm nghèo của nhiều quốc gia.
Chương trình này đang trở thành một trong những hướng đi chiến lược và đạt
hiệu quả cao trong việc cung cấp nguồn Protêin động vật, tạo thêm cơ hội
việc làm cho cộng đồng dân cư miền núi. Việc tận dụng nguồn lợi tự nhiên có
sẵn này để phát triển thủy sản là một điều tất yếu và cần thiết của xã hội để
góp phần nâng cao đời sống cộng đồng dân cư ở khu vực quanh hồ. Việt
NamViệt Nam nằm ở vị trí tận cùng phía Đông Nam của lục địa Châu Á,
trong vùng nhiệt đới gió mùa, có 3.260 Km bờ biển nên có nhiều dạng hình
mặt nước khác nhau. Toàn quốc có 2.360 con sông lớn nhỏ với mật độ giữa
các vùng từ 0,3 km/km
2
đến 4 km/km
2
, 231 hồ tự nhiên với diện tích 34.600
ha, 2.470 hồ chứa với diện tích 1.835.780 ha có khả năng phát triển thuỷ sản.
Do mặt nước đa dạng, lại phân bố ở nhiều loại địa hình, độ cao và sinh thái
khác nhau nên Việt Nam có nguồn lợi thuỷ sản nói chung và nguồn lợi cá
nước ngọt nói riêng rất phong phú và đa dạng (Nguyễn Văn Hảo, 2005)
Hồ Thác Bà có diện tích khoảng 19.500 ha, trải dài trên hai huyện Lục
Yên và Yên Bình của tỉnh Yên Bái. Hồ được xây dựng năm 1962 và hoàn
thành vào năm 1971, từ đó đến nay có nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học
cho thấy: Hồ chứa Thác Bà không những có tiềm năng thuỷ điện, giao thông,
thuỷ lợi, điều kiện khí hậu, du lịch mà còn có tiềm năng rất lớn về nuôi trồng
thuỷ sản. Khu hệ cá của hồ rất phong phú và đa dạng, có nhiều loài cá kinh tế
quý hiếm như: Cá Lăng, cá Chiên, cá Anh Vũ, cá Quả, cá Bỗng, cá Chạch
sông…
Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, hồ bị khai thác quá mức làm mất cân
bằng sinh thái, nhất là về thuỷ sản. Nghề cá đang xuống cấp nghiêm trọng,
2
khai thác quanh năm, khai thác bằng mọi hình thức để tận thu sản lượng, đánh
lưới cỡ mắt rất nhỏ, biện pháp khôi phục và bảo vệ nguồn lợi cá không có
hiệu quả. Cho nên, khu hệ cá hồ ngày càng có nhiều biểu hiện xấu như: Sản
lượng cá giảm sút, cá nuôi chiếm tỉ lệ rất thấp, cá tự nhiên kém giá trị chiếm
đa phần. Các loài cá kinh tế quý hiếm của hồ ngày một giảm sút, công tác
nghiên cứu sinh sản nhân tạo các loài cá đó chưa đem lại kết quả cao thì việc
đánh giá đúng hiện trạng thành phần loài của khu hệ là hết sức cần thiết, góp
phần giúp các cấp, các cơ sở có những giải pháp phát triển bền vững nghề cá
hồ chứa, khai thác tiềm năng hồ một cách hợp lý và có hiệu quả. Trước tình
hình đó tôi tiến hành đề tài: “Tìm hiểu biến động thành phần loài cá của
khu hệ cá hồ chứa Thác Bà”.
* Mục tiêu của đề tài:
- Góp phần vào việc đánh giá hiện trạng thành phần loài cá khu hệ cá
hồ Thác Bà.
- Làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học và học hỏi kinh
nghiệm.
- Trên cơ sở đó góp phần đề xuất phương hướng sử dụng, bảo vệ và
phát triển nguồn lợi cá trong hồ.
* Nội dung nghiên cứu:
- Tìm hiểu vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên của hồ.
- Xác định hiện trạng thành phần loài cá trong khu hệ.
- Xem xét sự biến động của chúng so với các năm trước.
- Đánh giá ý nghĩa kinh tế của hồ.
3
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Lịch sử nghiên cứu ngư loại
Ngư loại học (Ichthyology) là môn khoa học chuyên nghiên cứu về cá,
nghiên cứu các đặc điểm hình thái cá, phân loại cá, sinh thái cá và phân bố địa
lý… Là một môn khoa học cơ bản chiếm một vị trí khá quan trọng không
những trong khoa học: Lưu giữ, bảo tồn tính đa dạng sinh học… Mà còn góp
phần phát triển bền vững nghề cá.
2.1.1. Lịch sử nghiên cứu ngư loại trên thế giới
Cùng với sự phát triển của rất nhiều nghành khoa học khác, sự phát triển
của ngư loại học đã chia thành 3 thời kỳ khác nhau:
+ Thời kỳ thứ I: Nhiều người cho rằng nghiên cứu ngư loại học có tính
chất khoa học bắt đầu từ Aristote (384 - 322 trước công nguyên) trong cuốn
sách Historia animalum (lịch sử động vật) ông đã giới thiệu được 115 loài cá
cùng với những dẫn liệu về sinh sản, di cư, nơi ở
+ Thời kỳ thứ II: Từ thế kỷ thứ XVII - XIX, ngư loại học bắt đầu được
tích luỹ nhiều dẫn liệu khác nhau nhất là những dẫn liệu về phân loại, địa lý,
phân bố và về khu hệ các loài cá ở các vùng nước khác nhau. Về phân loại cá
P.Artedi (1903 – 1734) (thuỷ điện) với 5 cuốn sách viết về cá, nổi tiếng lúc đó
là Bibliotheca ichty logica, Philosophia ichtyologica, Generapiscium
Speciespiscium, Synorym piscium, C. Linnaeus (1707 - 1778) với cuốn
Systema nature (1735) đã đề ra "cách gọi tên cá 2 chữ" và đã giới thiệu 2600
loài cá. G.Cuvier và A.Valenciennes với cuốn sách Histoire naturelle
despoissons
+ Thời kỳ thứ III: Từ thế kỷ XX đến nay, những nghiên cứu ngư loại
học đã tăng lên rất nhanh và toàn diện.
4
Về phân loại học: D.S. Jordan (1854-1931) giới thiệu các loài cá ở Bắc
Mỹ và Trung Mỹ. G.A. Boulenger (1851) với 15 tập sách giới thiệu các loài
cá ở Viện bảo tàng Anh. L.S. Berg (1876-1950) (Liên Xô) với tập hệ thống
ngư loại. M.Weber và L.F.Debeaufort (Hà Lan) với 10 tập viết về các loài cá
ở vùng đảo Châu Úc (1911-1953); K. Matsubara (Nhật) với cuốn "Hình thái
và bảng tra cứu các loài cá" và rất nhiều nhà ngư loại khác của Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa khác đã góp phần thúc đẩy nền ngư loại học phát triển.
(Ngô Sỹ Vân, 1997, Luận văn thạc sỹ. Điều tra nghiên cứu hiện trạng khu hệ
cá hồ chứa Thác Bà – Yên Bái)
Ngày nay với các nhà ngư loại học như Pravdin, Chu Xinluo, Walter
Rainboth, Mai Đình Yên đã đi sâu vào nghiên cứu chi tiết hơn và đã phân
chia các vùng nghiên cứu, các khu hệ và phân bố địa lý. Điều đó chứng tỏ ngư
loại học thế giới đã và đang phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng
2.1.2. Lịch sử nghiên cứu ngư loại của Việt Nam
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì việc nghiên cứu về
ngư loại Việt Nam cũng không ngừng phát triển. Ngư loại học nước ta bắt đầu
phát triển từ khá lâu vào nửa cuối thế kỷ XVIII cùng với sự hợp tác của các
nhà khoa học phương tây nên công tác nghiên cứu về hình thái, phân loại và
khu hệ cá nước ta cũng phát triển vượt bậc và chia thành ba thời kỳ.
Vào thời kỳ trước những năm 1881 ngư loại học hầu như chưa phát triển
chủ yếu là những hiểu biết lẻ tẻ về đời sống các loài cá, nghề nuôi, nghề khai
thác cá cũng như nghành chế biến được ghi trong cuốn sử học và kinh tế học
thời phong kiến. Phải đến năm 1881 thì việc nghiên cứu ngư loại mới được
coi là bắt đầu và công trình đầu tiên là của H.E. Sauvage công bố năm 1881
(Theo Bộ Thuỷ sản, 1996. Nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam) trong tác phẩm
“Nghiên cứu về khu hệ cá Á châu và mô tả một số loài mới ở Đông Dương".
Năm 1883, G.Tiran đã công bố thành phần loài, mô tả 7 loài trong đó có 5
5
loài mới. Những năm tiếp theo có nhiều công bố về thành phần loài ở các
thuỷ vực khác nhau hoặc mô tả loài mới của nhiều tác giả như: H.E.Sauvage
thu thập 10 loài cá ở Hà Nội trong đó có 7 loài mới (1884); L.Vallant thu thập
6 loài và mô tả 4 loài ở Lai Châu (1891); J.Pellegrin trong các phẩm: Cá nước
ngọt Đông Dương, các loài cá thu thập ở Bắc Bộ (1906, 1907, 1928, 1932 )
Trong đó quan trọng nhất là kết quả phân tích mẫu thu thập ở Hà Nội của
đoàn thường trực khoa học Đông Dương gồm 92 loài, trong đó mô tả 2 loài
mới (1907) và 33 loài mới (1934); P. Chevey (1930, 1935, 1936, 1937) trong
đó P. Chevey thông báo bắt được cá chình Nhật ở sông Hồng. Đặc biệt năm
1937, một công trình tổng hợp về cá nước ngọt miền Bắc Việt Nam của
P.Chevey và J.Lemasson “Góp phần nghiên cứu cá nước ngọt miền Bắc Việt
Nam” được công bố. Công trình này giới thiệu 98 loài cá thuộc 17 họ, đây là
công trình tổng hợp đầy đủ nhất lúc bấy giờ.
Nhìn chung giai đoạn 1881 đến 1954 nghiên cứu ngư loại học cũng khá
phát triển nhưng chủ yếu là do người nước ngoài (chưa có cán bộ Việt Nam),
họ đã nghiên cứu khá nhiều về hình thái phân loại, khu hệ cá của cả nước
nhưng chỉ mới dừng lại ở mức độ mô tả, thống kê thành phần loài, còn việc đi
sâu vào nghiên cứu về nguồn lợi thì thời kỳ này chưa được thực hiện, tất cả
các tài liệu gốc và các mẫu chuẩn phần lớn đang được lưu trữ tại bảo tàng lịch
sử tự nhiên Paris (Pháp). Tuy chưa nhiều và đầy đủ song đó cũng là nền tảng
giúp cho các nhà ngư loại học Việt Nam nghiên cứu tiếp trong thời gian tiếp
theo.
Vào những năm 1945-1954, đất nước bị chiến tranh nên công tác nghiên
cứu tạm ngừng, phải đến khi hoà bình được lập lại, miền Bắc hoàn toàn giải
phóng, công tác nghiên cứu mới được tiếp tục và vẫn là các nhà khoa học Việt
Nam tiến hành.
6
Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975) hai miền Nam Bắc
tạm thời bị chia cắt, nghiên cứu được tiến hành rộng rãi nhưng cũng có nhiều
hạn chế do chiến tranh. Các công tác nghiên cứu hầu như do các Trạm, Trại
thực hiện ở các loại hình, vực nước khác nhau như sông, suối, hồ chứa, hồ tự
nhiên, đầm, ao và ruộng. Các công trình và tác giả tiêu biểu thời kỳ này ở
miền Bắc có Đào Văn Tiến và Mai Đình Yên (1959): Dẫn liệu sơ bộ nguồn
lợi ngòi Thia. Đào Văn Tiến, Đặng Ngọc Thanh, Mai Đình Yên (1961): Sơ bộ
điều tra thành phần nguồn gốc và phân bố của chủng quần cá sông Hồng.
Nguyễn Văn Hảo (1964): Dẫn liệu nguồn lợi cá hồ Ba Bể. Ở miền Nam Việt
Nam cũng có một số công trình do các nhà khoa học người Việt Nam và
người nước ngoài thực hiện như Trần Ngọc Lợi và Nguyễn Cháu (1964),
Nguyễn Viết Trương, Trần Tuý Hoa, Kawamoto (1972), Fourmanvir (1964),
M.Yamarmura (1966), Y.Taki (1975)
Nhìn chung, giai đoạn này cũng khá phát triển nhưng vẫn chưa mạnh
mẽ, do thời kỳ này khoa học kỹ thuật còn non trẻ ảnh hưởng phần nào trong
việc định loại.
Tiếp đến vào giai đoạn từ 1975 đến nay thì các nhà ngư loại học Việt
Nam đã kết hợp với các nhà nghiên cứu nước ngoài trong công tác điều tra để
có thể lấp dần những thiếu sót mà trước đây chưa đề cập tới.
Đặc biệt thời kỳ này có một số công trình đã tổng hợp các kết quả nghiên
cứu trước đây như: Định loại cá nước ngọt miền Bắc Việt Nam của Mai Đình
Yên (1978) đã lập danh mục, mô tả chi tiết, lập khoá định loại, đặc điểm phân
bố và ý nghĩa kinh tế của 201 loài; Định loại cá nước ngọt Nam Bộ của Mai
Đình Yên, Nguyễn Văn Thiện, Lê Hoàng Yến, Hứa Bạch Loan và Nguyễn
Văn Trọng (1992) đã phân loại và mô tả 255 loài và Định loại cá nước ngọt vùng
Đồng bằng sông Cửu Long của Trương Thủ Khoa và Trần Thị Hương (1993)
gồm 173 loài. Một công trình có tính chất tổng kết các kết quả nghiên cứu cá từ
7
trước tới nay là nguồn lợi thủy sản Việt Nam của Bộ Thủy Sản (1996). Đây là
công trình được nhiều nhà khoa học trong và ngoài ngành tham gia. Riêng khu hệ
cá nước ngọt gồm 544 loài, 228 giống, 57 họ và 18 bộ khác nhau.
Bộ cá chép (Cyprinifomes) gồm 4 họ, 100 giống, 327 loài và phân loài
(chiếm 50,7%) trong đó họ cá chép (Cyprinidae) có tới 228 loài và phân loài
(chiếm 41,9%) và có nhiều loài có giá trị kinh tế cao.
Bộ cá Nheo (Silurifmes) có 10 họ, 31 giống, 88 loài và phân loài (chiếm
16,2%), đáng lưu ý là các họ cá Lăng (Bagridae), họ cá Tra (Pangasiidae) cà họ
cá Nheo (Siluridae), đây là họ có nhiều loài cá kinh tế cao.
Bộ cá Vược (Percifomes) có 17 họ, 44 giống, 70 loài và phân loài (chiếm
12,9%).
Các loài cá kinh tế bao gồm 97 loài trong đó Bắc bộ 52 loài, Bắc Trung bộ
28 loài, Nam trung bộ 20 loài và Nam bộ 44 loài.
Về đặc trưng phân bố đã nêu lên sự phân bố ở các vùng Bắc bộ 226 loài, Bắc
Trung bộ 145 loài, Nam trung bộ 120 loài và Nam bộ 306 loài. Phân bố theo sinh
thái: Nước chảy, nước sông, nước ngầm và tính chất địa động vật của cá nước
ngọt cả nước.
Về đặc điểm sinh học cá kinh tế đã trình bày 54 loài chủ yếu phân bố, đặc
điểm sinh trưởng, dinh dưỡng, sinh sản và ý nghĩa kinh tế.
Nhìn chung công tác nghiên cứu về cá ở nước ta trong những năm qua
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, thúc đẩy nghề thuỷ sản nước nhà phát
triển ngang tầm với những nước phát triển, góp phần không nhỏ đưa nền kinh
tế đất nước phát triển nhanh và mạnh nhưng bên cạnh đó không thể không có
những tồn tại cần được quan tâm để từ đó có những biện pháp khôi phục và
bảo vệ tính đa dạng sinh học, đồng thời cũng cần nghiên cứu sâu hơn nữa để
bổ sung, tu chỉnh lại danh pháp và thống nhất hệ thống phân loại cho phù hợp
với hệ thống phân loại của thế giới.
8
2.1.3. Lịch sử nghiên cứu Ngư loại ở hồ chứa Thác Bà – Yên Bái
Từ khi hồ được khởi công xây dựng năm 1962 đến nay, để đánh giá
tiềm năng và khai thác nguồn tài nguyên của hồ, nhiều nhà khoa học đã đầu
tư nghiên cứu và có nhiều công trình khoa học ra đời. Trong đó, ngành thuỷ
sản đã có những tác giả với những công trình sau.
Nguyễn Văn Hảo, 1962 – 1964, ngư loại học hồ Thác Bà và sông chảy,
Tài liệu lưu trữ ở Viện nghiên cứu NTTS I (TLLT ở Viện NCNTTS I); Tác
giả đã điều tra, nghiên cứu được 57 loài và nêu một số loài đặc hữu.
Nguyễn Quốc Ân, 1972. Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra khu hệ cá và
đặc điểm sinh học cá hồ chứa Thác Bà 1971–1972, (TLLT ở Viện NCNTTS
I).
Tạ Quang Minh, 1976. Đặc điểm sinh học cá Mè hoa ở hồ chứa Thác
Bà 1971 – 1975, (TLLT ở Viện NCNTTS I).
Nguyễn Hữu Tường, 1975. Đặc điểm thuỷ lý, hóa thuỷ sinh và ngư loại
học hồ chứa Thác Bà 1971 – 1975. Đây là công trình nghiên cứu tổng kết toàn
bộ kết quả điều tra nghiên cứu liên tục 5 năm (1971 – 1975) của các cán bộ
phòng điều tra nghiên cứu nguồn lợi và môi trường, Viện NCNTTS I; Tác giả
cho biết đặc tính thuỷ lý, thuỷ hoá và thông kê được 79 loài cá sống trong khu
hệ.
Nguyễn Văn Hảo, Phạm Xuân Am và Nguyễn Hữu Nghi, 1993. Báo
cáo tổng kết đề tài: Điều tra hiện trạng nghề cá hồ chứa, (TLLT ở viện
NCNTTS I). Các tác giả đánh giá cơ bản về năng suất, sản lượng và biến
động của nguồn lợi.
Ngô Sỹ Vân, 1997, Luận văn thạc sỹ. Điều tra nghiên cứu hiện trạng
khu hệ cá hồ chứa Thác Bà – Yên Bái. Tác giả cho biết đặc tính thuỷ lý, thuỷ
hoá và thống kê được 76 loài. Trong tổng số 76 loài cá thu được thì bộ cá
Chép chiếm số lượng nhiều nhất, với 50 loài chiếm 65,79%. Bộ cá Vược 13
9
loài chiếm 17,10%. Bộ cá Nheo chiếm 13,16%. Còn các bộ khác: Cá Hồi, cá
Sóc và cá Mang liền chiếm 3,95% tổng số cá trong khu hệ. Kết quả điều tra
của tác giả đã bổ sung cho danh sách cá Thác Bà 11 loài, trong đó: 7 loài cá
nuôi mới di nhập, 1 loài cá mới của khu hệ cá hồ chứa Thác Bà là cá Mi
Barbodes namlenensis (Hảo & Hoa, 1962), 2 loài là loài mới: Cá Sỉnh Trắng
Varicorhinus (Onychostoma) yeni nsp (Dực & Vân, 1998), cá Sỉnh đỏ
Varicorhinus (O.) thacbaensis nsp (Hảo & Vân, 1998) và 1 loài có thể là mới:
Cá Chạch sông Mastacembelus sp. Và đồng thời chỉ ra 3 loài đặc hữu (chỉ
sống) ở vùng hồ Thác Bà. Đồng thời có nhiều loài quý hiếm như. Cá Lăng, cá
Chiên, cá Dầm Xanh, cá Anh vũ, cá Hoả, Lươn
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về hồ chứa Thác Bà và Sông chảy
có từ lâu và đã nêu ra: Hồ có tiềm năng lớn, có đủ điều kiện để nuôi và khai
thác thuỷ sản. Song, những năm gần đây hồ hầu như không được đầu tư
nghiên cứu. Vì vậy việc nghiên cứu hiện trạng hồ là việc làm hết sức quan
trọng, cấp bách để khôi phục tiềm năng sẵn có, khai thác và sử dụng hồ một
cách hợp lý đem lại hiệu quả hơn.
2.2. Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên của hồ Thác Bà
2.2.1. Vị trí địa lý
Hồ Thác Bà được khởi công xây dựng năm 1962 và hoàn thành năm
1971 trên hệ sinh thái sông Chảy và vùng đồi núi, đồng bằng hai huyện Lục
Yên và Yên Bình. Hồ ở vị trí phía Đông Bắc của tỉnh Yên Bái có tọa độ địa lý
từ 21
0
40
′
đến 22
0
17
′
Vĩ độ Bắc và 104
0
33
′
đến 105
0
06
′
Kinh độ Đông. Phía
Bắc hồ giáp tỉnh Lao Cai, phía Đông giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Nam giáp
tỉnh Phú Thọ, phía Tây giáp thị xã Yên Bái, Huyện Trấn yên và Văn Yên tỉnh
Yên Bái.
Hồ dài 80km, trung bình hồ rộng 8km, nơi rộng nhất là 10km. Độ sâu
trung bình của hồ là 15m, chỗ sâu nhất 40m. Ven bờ của hồ khúc khuỷu và có
10
nhiều eo ngách. Dung tích của hồ 2,940 tỷ m
3
, diện tích của hồ lớn nhất ở cốt
58 là 24300ha, trong đó diện tích mặt nước 19500ha và 1330 đảo lớn nhỏ với
diện tích là 4350ha. Nguồn cung cấp lượng nước cho hồ là lưu lượng nước
của sông Chảy và lượng nước mưa từ lưu vực đổ vào. Hồ thuộc loại hình thủy
vực mang tính chất nhân tạo có hệ sinh thái "nửa hở" . Thượng lưu hồ là khu
vực sông Chảy tính theo mặt cắt ngang từ ngòi Biệc lên phía Tây Bắc gồm
các xã Trung Tâm, Tân Nguyên, An Phúc, Hà Oai, Phúc Lợi mang tính
chất sông suối. Vùng trung lưu hồ là vùng trung gian giữa sông suối và hồ tự
nhiên gồm các xã từ Cẩm Ân đến Tân Hương. Vùng hạ lưu của hồ tính từ Tân
Hương đến đập thủy điện Thác Bà, có tính chất hồ tự nhiên (Ngô Sỹ Vân,
1999).
2.2.2. Điều kiện tự nhiên của hồ
Điều kiện tự nhiên của vùng hồ phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự
nhiên - xã hội của tỉnh Yên Bái như: khí hậu, chế độ thủy văn, và các yếu tố
xã hội như: trình độ dân trí, trình độ quản lý, phương hướng phát triển của
tỉnh
2.2.2.1. Khí hậu
Yên Bái thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Một năm có hai mùa rõ
rệt: mùa mưu và mùa khô.
+ Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11 và cũng là mùa nóng. Nhiệt độ
trung bình là 23
0
– 28
0.
tháng nóng nhất là tháng 7, nhiệt độ lúc đó lên tới
38
0
C, lượng mưa trung bình 1800mm – 2200mm. Mùa này thường có lũ quét
và mưa đá.
+ Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Đây là mùa khô hanh ít mưa.
Nhiệt độ trung bình 15
0
C – 24
0
C, có lúc xuống thấp tới 5
0
C, lượng mưa trung
bình đạt 1000mm – 1100mm.
- Độ ẩm: Ở Yên Bái độ ẩm thường rất cao 83 – 87%
11
* Xét riêng đối với vùng hồ chứa Thác Bà chịu ảnh hưởng của chế độ khí
hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa đông lạnh mang tính chất của vùng đồi núi nên
nhiệt độ biến thiên rất lớn. Một đặc điểm khác của hồ chứa Thác Bà là có
nhiều mưa phùn, suơng mù vào mùa đông, nhưng không có sương muối. Chế
độ mây cao, thuộc vùng có chế độ mây nhiều nhất nước ta. Chế độ nắng
tương đối ít, tổng số giờ nắng năm đạt 1400 – 1520 giờ/ năm. Chế độ bức xạ,
nắng, mây phân hóa theo mùa và sự hoạt động hoàn lưu của gió mùa.
- Chế độ gió: Gió thường thổi theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, trùng với
Hướng chảy của sông Chảy. Nhìn trung gió có vận tốc chậm, song ở vùng hồ
do ảnh hưởng của núi cao chắn gió, mặt hồ rộng, vì vậy có nhiều cơn gió lốc,
gió xoáy.
- Chế độ nhiệt: Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm đạt 22,6 – 22,7
0
C.
Chế độ nhiệt phân hóa theo mùa rõ rệt. Biên độ nhiệt trung bình năm đạt 6,9 –
7,5
0
C.
- Chế độ mưa, độ ẩm: Lượng mưa hàng năm của vùng hồ hàng năm
không lớn lắm, ở nơi ít mưa, lượng mưa: 1600 – 1800mm, nơi nhiều mưa:
2100 – 2200mm (Ngô Sỹ Vân, 1999).
2.2.2.2 Thuỷ văn
Độ trong
Độ trong thể hiện khá cách biệt ở hai mùa. Mùa khô độ trong cao, mùa
mưa độ trong thấp hơn. Độ trong ở thượng lưu thường thấp hơn ở hạ lưu. Kết
quả nghiên cứu cho thấy: Mùa khô, độ trong ở hạ lưu cao hơn 0,5 m so với
kết quả nghiên cứu những năm 1971 - 1976 chủ yếu do: Sinh khối động thực
vật phù du phát triển và do vật chất lơ lửng trong hồ. Mùa mưa, độ trong ở
thượng lưu hiện nay thấp hơn những năm 1971 – 1976 là 0,2m, chủ yếu là do
mưa lũ, đất lưu vực bị bào mòn nhiều, lượng phù sa lớn (Ngô Sỹ Vân, 1999).
pH
12
Cũng như các yếu tố khác, độ pH của hồ dao động theo quy luật chung.
Biên độ dao động không lớn lắm giữa các tầng nước. Độ pH của hồ dao động
từ 6,3-9,4. Mùa mưa, vùng thượng lưu có độ pH nghiêng về kiềm cao hơn so
với mùa khô, vùng hạ lưu độ pH thường thấp nghiêng về acide. Đặc điểm này
phù hợp cho các thuỷ sinh vật trong đó có cá sinh sống và phát triển. (Ngô Sỹ
Vân, 1999).
Nhiệt độ
Nhiệt độ nước hồ chủ yếu phụ thuộc vào nhiệt độ không khí. Sự biến
động của nhiệt độ nước cũng tuân theo quy luật chung của hồ chứa. Biến
dộng theo ngày đêm, biến động theo mùa, biến động theo tầng nước. Mùa hè,
nhiệt độ tầng nước mặt cao hơn nhiều so với tầng đáy. Mùa đông nhiệt độ
tầng mặt thấp hơn nhiệt độ tầng đáy.
Mặt khác, nhiệt độ nước ở vùng thượng lưu cũng biến động so với
vùng hạ lưu. Mùa hè ở vùng thượng lưu do chế độ mưa lũ nên nhiệt độ ít có
sự chênh lệch giữa tầng mặt và tầng đáy (chênh lệch thấp) hơn so vơi hạ lưu.
Hàm lượng oxy
Sự biến động oxy hoà tan cũng tuân theo quy luật chung. Biến động
ngày đêm, biến động giữa các tầng nước và các vùng theo mùa vụ. Theo kết
quả nghiên cứu của cơ quan thuỷ sản Tỉnh Yên Bái, sự biến động hàm lượng
oxy hoà tan trong các năm qua không thay đổi nhiều so với nghiên cứu của
Ngô Sỹ Vân, 1999.
13
Hình 2.1. Biến động hàm lượng oxy ở thượng lưu và hạ lưu hồ chứa Thác
Bà
14
PHẦN III: PHƯƠNG PHÁP VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU
3.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.1.1 Địa điểm nghiên cứu
Tiến hành thu mẫu trên vùng hồ, các bến cá, chợ cá và các ngòi, suối
thuộc lưu vực hồ Thác Bà.
3.1.2 Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu từ tháng 1 tới tháng 7 năm 2009.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Tìm hiểu điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội của hồ
Qua số liệu của các cơ quan chuyên nghành và tài liệu nghiên cứu của
một số nhà nghiên cứu trước đó.
Tìm hiểu trực tiếp qua những lần đi khảo sát và thu mẫu.
3.2.2 Nghiên cứu thành phần các loài cá ở hồ chứa Thác Bà
3.2.2.1 Thu thập tài liệu
Trong quá trình tiến hành đề tài, để phục vụ cho công tác nghiên cứu
tôi tìm hiểu:
- Sách báo có liên quan, các công trình nghiên cứu của một số tác giả
đã công bố.
- Các tạp chí khoa học, các số liệu của các sở, các uỷ ban có liên quan
như Uỷ ban nhân dân Huyện, Tỉnh, Trung tâm thuỷ sản Yên Bái và ngư dân.
3.2.2.2 Thu thập và xử lý mẫu vật
Thu thập số liệu qua Trung tâm thuỷ sản Yên Bái.
Dùng thuyền máy đi thu thập mẫu vật tại ngư trường, bến cá và các chợ
cá của hồ chứa Thác Bà.
Đến các ngòi, suối thuộc lưu vực của hồ cùng ngư dân để thu mẫu.
15
Đặt bình thu mẫu có pha sẵn Formalin tại các chủ thuyền đánh cá ở các
điểm đại diện trên hồ. Hướng dẫn nhờ ngư dân thu mua hộ.
Các mẫu thu được sẽ được ngâm trong dung dịch formalin 10%, sau đó
được vận chuyển về phòng phân tích ngư loại học thuộc viện nghiên cứu
NTTS1 - Bắc Ninh.
3.2.2.3 Phân tích định loại mẫu vật
Sau khi vận chuyển mẫu vật về phòng, tôi tiến hành phân tích và định
loại theo các bước sau.
Mẫu vật được đo đếm hình thái dựa vào Hình 3.1 và Bảng 3.1. theo
Pravdin, 1963 (bản dịch của Nguyễn Thị Mai Giang) hoặc Raiboth, 1996.
- Theo Mai Đình Yên, 1978 - Định loại cá nước ngọt các tỉnh phía Bắc
Việt Nam. Nguyễn Văn Hảo và Ngô Sỹ Vân (2001), Nguyễn Văn Hảo (2005)
- Vương Dĩ Khang, 1958 – Ngư loại, phân loại học - Bản dịch của
Nguyễn Bá Mão NXB Nông thôn 1962, 844 trang; Chu Xinluo và Chen
Yinrui, 1989, 1990 – The fishes of Yunnan China.
- Mẫu vật sau khi định loại có thể so sánh đối chứng với các mẫu chuẩn
sẵn có ở phòng tiêu bản ngư loại của viện nghiên cứu NTTS I.
Các bộ, họ, giống, loài được xắp xếp theo hệ thống phân loại cá thế giới
của W.N.Eschmeger 1998 và Fishbase, 2008.
16
Hình 3.1: Một số chỉ tiêu đo hình thái ngoài của cá
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu đo đếm hình thái ngoài của cá
TT CÁC CHỈ TIÊU TT CÁC CHỈ TIÊU
1 Chiều dài toàn thân (L) 22 Khoảng cách P- V
2 Khối lượng cá (P g) 23 Khoảng cách V-A
3 Chiều dài đến tia giữa vây đuôi
(Ls)
24 Chiều dài gốc vây lưng (lD)
4 Chiều dài cá bỏ đuôi (L0) 25 Chiều cao vây lưng (hD)
5 Chiều dài mõm (Ot) 26 Chiều dài gốc vây hậu môn
(lA)
6 Đường kính mắt (O) 27 Chiều cao vây hậu môn (hA)
7 Phần đầu sau mắt (Op) 28 Chiều cao vây ngực (hP)
8 Chiều dài đầu (T) 29 Chiều cao vây bụng (hV)
9 Chiều cao đầu qua chẩm (hT) 30 Chiều dài tia giữa vây đuôi
10 Chiều cao đầu qua giữa mắt (hT') 31 Số tia vây lưng (D)
11 Khoảng cách 2 mắt (OO) 32 Số tia vây hậu môn (A)
17
12 Chiều dày của thân 33 Số tia vây ngực (P)
13 Chiều rộng của đầu 34 Số tia vây bụng (V)
14 Chiều rộng của miệng 35 Số tia vây đuôi (C)
15 Chiều dài hàm trên 36 Vẩy dọc đường bên (Ll)
16 Chiều dài hàm dưới 37 Vẩy trên dưới đường bên (Tr)
17 Chiều cao thân lớn nhất (H) 38 Vẩy trước vây lưng
18 Chiều cao thân nhỏ nhất (h) 39 Số tia màng mang (B)
19 Khoảng cách trước vây lưng (daD) 40 Số lược mang ở cung mang I
20 Khoảng cách sau vây lưng (dpD) 41 Công thức răng hầu (E)
21 Chiều dài cán đuôi (lcd) 42 Đốt sống toàn thân (Thân + đuôi)
Sau đó tính một số tỷ số các số đo chính được thiết lập.
- Chiều cao thân và chiều dài bỏ đuôi (H/Lo).
- Chiều dài đầu và chiều dài bỏ đuôi (T/Lo).
- Đường kính mắt và chiều dài đầu (O/T).
- Chiều rộng trán và chiều dài đầu (OO/T).
3.2.2.4. Sự biến động của thành phần loài
Sau khi thu và xác định hiện trạng thành phần loài cá, so sánh với các
nghiên cứu trước, các số liệu của trung tâm thuỷ sản Yên Bái để biết sự biến
động thành phần của các loài cá trong hồ.
3.2.2.5. Xử lý số liệu
Các số liệu về chỉ tiêu hình thái dược xử lý qua thống kê mô tả trên phần
mềm EXEL.
18
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Hiện trạng thành phần loài cá ở khu hệ cá hồ chứa Thác Bà
4.1.1. Danh sách thành phần loài của khu hệ cá hồ chứa thác bà
Qua việc phân tích mẫu vật cá thu được và so sánh với các mẫu có sẵn trong
phòng bảo tàng Viện NCNT I, đồng thời đối chiếu với danh mục các loài cá của
các tác giả trước nghiên cứu ở hồ chứa Thác Bà thì thành phần loài cá biết được ở
hồ chứa Thác Bà cho tới nay gồm: 99 loài và phân loài thuộc 72 giống nằm trong
18 họ, 6 bộ.
BẢNG 4.1: THÀNH PHẦN LOÀI CÁ CỦA KHU HỆ CÁ THÁC BÀ
TT
TÊN BỘ, HỌ, GIỐNG, LOÀI NĂM THU
TÊN VIỆT
NAM
TÊN KHOA HỌC 19
64
19
75
19
99
20
08
I Bộ cá Chép Cypriniformes
1 Họ cá Chép Cyprinidae
1.1 Phân họ cá Lòng
tong
Danioninae
1 Cá Cháo Opsariichthys bidens Günther, 1873 + + + +
2 Cá diếc nhẳng Aphyocypris pooni Lin, 1993 + + +
3 Cá Mại sọc Rasbora steineri Nichols & Pope, 1927 + + +
1.2 Phân họ cá
Trắm
Leuciscinae
4 Cá Trắm đen Mylopharyngodon piceus (Richardson,
1846)
+ + +
19
5 Cá Măng Elopichthys bambusa (Richardson,1844) + + +
6 Cá Trắm cỏ Ctenopharyngodon idellus (Cuvier &
Valenciennes, 1844)
+ + +
7 Cá Chày mắt đỏ Squaliobarbus curriculus (Richardson,
1846)
+ + + +
8 Cá Chày tràng Ochetobius elongatus (Kner, 1867) + + +
1.3 Phân họ cá
Mương
Cultrinae
9 Cá Mương Hemiculter leucisculus (Basilewsky,
1853)
+ + + +
10 Cá Thiên hô Pseudolaubuca sinensis Bleeker, 1864 + + +
11 Cá Dầu hồ bằng Toxabramis swinhonis Günther, 1873 + + +
12 Cá Dầu thân
mỏng
Pseudohemiculter dispar (Peters, 1880) + + +
13 Cá Mương gai Hainania serrata Koller, 1927 + +
14 Cá Vền Megalobrama terminalis (Richardson,
1845)
+ + + +
15 Cá Vền dài Megalobrama skolkovii Dybowsky, 1832 + + + +
16 Cá Nhác Sinibrama affinis (Vaillant, 1891) + +
17 Cá Thiểu Ancherythroculter erythropterus (Basil,
1855)
+ + + +
18 Cá Ngão gù Erythroculter recurvirostris Sauvage,
1884
+ +
19 Cá Ngão mắt to Erythroculter daovantieni Banarescu,
1967
+ +
20 Cá Mại bầu Rasborinus lineatus Pellegrin, 1907 + + + +
21 Cá Mại bạc Rasborinus formosae Oshima,1920 + +
1.4 Phân họ cá
Nhàng
Xenocyprinae
22 Cá Nhàng Bạc Xenocypris argentea Gỹnther, 1868 + + + +
23 Cá Mần Xenocypris davidi Bleeker, 1871 + +
1.5 Phân họ cá Mè Hypophthalmichthyinae
24 Cá Mè trắng VN Hypophthalmichthys harmandi Sauvage,
1884
+ + + +
20
25 Cá Mè trắng TQ Hypophthalmichthys molitrix (C. & V.,
1844)
+ + +
26 Cá Mè hoa Aristichthys nobilis (Richardson, 1844) + + +
1.6 Phân họ cá Đục Gobioninae
27 Cá Đục chấm Hemibarbus macracanthus Lo, Yao &
Chen, 1977
+ +
28 Cá Đục ngộ Hemibarbus medius Yue, 1995 + +
29 Cá Đục trắng Squalidus chankaensis Dybowsky, 1872 + + + +
30 Cá Đục đanh Saurogobio dabryi Bleeker, 1871 + + + +
1.7 Phân họ cá Thè
be
Acheilognathinae
31 Cá Bướm gai Rhodeus spinalis Oshima, 1926 + +
32 Cá Thè be Acheilognathus tonkinensis (Vaillant,
1892)
+ + + +
1.8 Phân họ cá
Bỗng
Barbinae
33 Cá Cầy Parasprinibarbus macracanthus (Pelleg.
& Chev., 1936)
+ +
34 Cá Mè Vinh Barbodes gonionotus (Bleeker, 1850) + +
35 Cá Bỗng Spinibarbus denticulatus (Oshima, 1926) + + + +
36 Cá Chầy đất Spinibarbus hollandi Oshima, 1919 + + + +
37 Cá Đòng đong Capoeta semifasciolata (Günther, 1868) + + + +
38 Cá Mi (rai) Neolissochilus benasi (Pellegrin &
Chevey, 1936)
+
39 Cá Chát trắng Acrossochilus krempfi (Pellegrin &
Chevey, 1936)
+ +
40 Cá Chát sọc Lissochilus laocaiensis Hao & Hoa, 1969 +
41 Cá Hân Acrossochilus elongatus (Pelle. & Chev.,
1934)
+
42 Cá Sỉnh Onychostoma gerlachi (Peters,1880) + +
43 Cá Sỉnh gai Onychostoma laticeps Günther,1868 +
44 Cá Sỉnh đỏ Thác
Bà
Onychostoma thacbaensis Hảo & Vân,
1998
+ + +
45 Cá Đát đỏ Scaphesthes erythrogenys Hao & Hoa,
1969
1.9 Phân họ cá Trôi Labeoninae
46 Cá Anh vũ Semilabeo obscurus Lin, 1981 + + +
21
47 Cá Hoả Sinilabeo tonkinensis (Pellegrin &
Chevey, 1936)
+ + +
48 Cá Mị Sinilabeo graffeuilli (Pellegrin &
Chevey,1963)
+
49 Cá Rầm xanh Sinilabeo lamassoni (Pellegrin &
Chevey, 1936)
+
50 Cá Măn Garra gracilis (Pell & Chev., 1936) +
51 Cá Trôi ta Cirrhinus molitorella (Cuvier &
Valenciennes, 1842)
+ + + +
52 Cá Mrigan Cirrhinus mrigala (Hamilton, 1822) + +
53 Cá Rô hu Labeo rohita (Hamilton, 1822) + +
54 Cá Dầm đất Osteochilus salsburyi (Nichols & Pope,
1927)
+ + + +
55 Cá Đo Garra pingi Tchang, 1929 + + +
56 Cá Sứt môi Garra orientalis Nichols, 1925 + +
1.10 Phân họ cá
Chép
Cyprininae
57 Cá Chép Cyprinus carpio Linnaeus, 1758. + + + +
58 Cá Lợ Cyprinus multitaeniata (Pellegrin &
Chevey, 1936)
+ +
59 Cá Nhưng Carassioides cantonensis (Heinke, 1892) + + + +
60 Cá Diếc Carassius auratus (Linnaeus, 1758) + + + +
2 Họ cá Chạch
bùn
Cobitidae
61 Cá Chạch suối Micronemacheilus taeniatus (Pell. &
Chev., 1936)
+
62 Cá Chạch đá sọc Schistura fasciolata (Nichols & Pope,
1927)
+
63 Cá Chạch bùn Misgurnus aguillicauda (Cantor, 1842) + + + +
64 Cá Chạch bùn
núi
Misgurnus mizolepis Günther, 1888 +
65 Cá Chạch hoa Cobitis taenia Nichols, 1918 + + + +
66 Cá Chạch cát dài Botia elongata Yên, 1978
II Bộ cá Nheo Siluriformes
3 Họ cá Lăng Bagridae
22
67 Cá Bò Pelteobagrus fulvidraco (Richardson,
1846)
+ + + +
68 Cá Mầm Pelteobagrus vachellii (Richasdson,
1846)
+ + + +
69 Cá Mịt Leiocassis virgatus (Oshima, 1926) + + + +
70 Cá Lăng chấm Hemibagrus guttatus (Lacépède, 1803) + + + +
71 Cá Lường Hemibagrus pluriradiatus (Vaillant,
1904)
+ + +
4 Họ cá Ngạnh Cranoglanidae
72 Cá Ngạnh Cranoglanis sinensis (Vaillant, 1893) + + + +
5 Họ cá Nheo Siluridae
73 Cá Nheo Silurus asotus Linnaeus, 1758 + + + +
6 Họ cá Chiên Sisoridae
74 Cá Chiên Bagarius rutilusi Kottelat & ng, 2000 + + + +
75 Cá Chiên suối
Hải Nam
Glyptothorax hainanensis, (N. & P.,
1927)
+
7 Họ cá Trê Clariidae
76 Cá Trê đen Clarias fuscus (Lacépède, 1803) + + + +
77 Cá Trê phi Clarias gariepinus (Burchell,1882) + +
III Bộ cá Ốt me Osmerifomes
8 Họ cá Ngần Salangidae
78 Cá Ngần Neosalanx taihuensis Chen, 1956 + +
IV Bộ cá Nhái Belonifomes
9 Họ cá Sóc Ađrianichthyiae
79 Cá Sóc Oryzias latipes (Temm. & Schl., 1846) + + + +
V Bộ mang liền Synbranchiformes
10 Họ Lươn Synbranchidae
80 Lươn Monopterus albus (Zuiew, 1793) + + + +
11 Họ cá Chạch
sông
Mastacembelidae
81 Cá Chạch sông Mastacembelus armatus (Lacépède,
1800)
+ + + +
82 Cá Chạch gai Mastacembelus aculeatus (Bloch, 1876) + +
83 Cá Chạch Thác
Bà
Mastacembelus thacbaensis Hảo & Vân,
1999
+
VI Bộ cá vược Perciformes
VI.1 Phân bộ cá
Vược
Percioidei
23
12 Họ cá Rô mo Percichthyidae
84 Cá Rô mó Coreoperca whiteheadi Boulenger, 1899 +
85 Cá Rô mo Siniperca chuatsi (Basilewsky, 1855) +
VI.2 Phân bộ cá
Hàng chài
Labroidei
13 Họ cá Rô phi Cichlidae
86 Cá Rô Phi đen Oreochromis mossambicus (Peters, 1880) + +
87 Cá Rô Phi vằn Oreochromis niloticus (Linnaeus, 1758) + +
VI.3 Phân bộ cá
Bống
Gobioidei
14 Họ cá Bống đen Eleotridae
88 Cá Bống suối
đầu ngắn
Percottus chalmersi (Nichols & Pope,
1927)
+ + +
89 Cá Bống đen nhỏ Eleotris oxycephala Temminck &
Schlegel, 1845
+
90 Cá Bống đen lớn Eleotris melanosoma Bleeker, 1852 +
15 Họ cá Bống
Trắng
Gobiidae
91 Cá Bống Cát tối Glossogobio giuris (Hamilton, 1822) + + +
92 Cá Bống Đá Rhinogobius giurinus ( Rütter, 1897) + + + +
93 Cá Bống Than Rhinogobius leavelli (Herre, 1935) + +
VI.4 Phân bộ cá Rô
đồng
Anabantoidei
16 Họ cá Rô đồng Anabantidae
94 Cá Rô đồng Anabas testudineus (Bloch, 1792) + + + +
17 Họ cá Sặc Belontidae
95 Cá Đuôi cờ Macropodus opercularis (Linnaeus,
1788)
+ + +
96 Cá Sặc bướm Trichogaster trichopterus (Pallas, 1770) +
VI.5 Phân bộ cá
Chuối
Channoidei
18 Họ cá Chuối Channidae
97 Cá Chuối Channa maculata (Lacépède, 1802) + + +
98 Cá Quả Channa striata (Bloch, 1793) + + + +
99 Cá Trèo đồi Channa asitica (Linnaeus, 1758) + +
Tổng cộng 57 79 76 57
24
4.1.2. Thảo luận kểt quả
4.1.2.1. Thành phần các loài cá ở hồ Thác Bà cho đến nay
Trong danh sách 99 loài thống kê được thì bộ cá Chép có số lượng nhiều
nhất với 66 loài chiếm 66,66%. Bộ cá Vược có 16 loài chiếm 16,16%. Bộ cá Nheo
có 11 loài chiếm 11,11%. Còn các bộ khác: Cá Nhái, cá Ốt me chiếm 1.01%. Bộ cá
Mang liền chiếm 4,04% trong tổng số loài, thể hiện qua bảng số liệu 4.2 hoặc biểu
đồ 4.1.
Bảng 4.2: Tỷ lệ thành phần các họ, giống và các loài cá ở vùng hồ Thác Bà
Tổng cộng 18 100 72 100 99 100
TT
Tên Việt
Tên khoa học
Các họ Các giống Các loài
n % n % n %
1 Bộ cá Chép Cyprinifomes 2 11,11 48 66,66 66 66,66
2 Bộ cá Nheo Silurifomes 5 27,77 8 11,11 11 11,11
3 Bộ cá Nhái Belonifomes 1 5,56 1 1,39 1 1,01
4 Bộ cá Vược Perfomes 7 44,44 11 15,28 16 16,16
5 Bộ Mang liền Synbranhchiforme
s
2 5,56 3 4,17 4 4,04
6 Bộ cá Ốt me Osmeriformes 1 5,56 1 1,39 1 1,01
25