Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

phân tích hoạt động thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước đối với các khu công nghiệp tam kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.71 KB, 126 trang )

- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Trong hơn thập kỷ qua, xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra
một cách mạnh mẽ trên rất nhiều phương diện, quan hệ giữa các quốc gia ngày càng
đa dạng trên mọi lĩnh vực, hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đã trở thành phổ
biến trên phạm vi toàn thế giới với mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết
liệt. Với thành công của sự kiện Việt Nam gia nhập WTO tháng 11/2006, vấn đề
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải tìm ra những bước đi quyết
liệt hơn trong quá trình cải cách nền kinh tế theo hướng phù hợp và gắn kết với
thông lệ quốc tế nhằm đẩy mạnh cạnh tranh thu hút các nguồn vốn, chất xám, công
nghệ vào Việt Nam, vừa tạo điều kiện thuận lợi để phát huy nội lực trên cơ sở kết
hợp “nội lực bên trong” với “ngoại lực bên ngoài” nhằm tạo ra sự phát triển có tính
bức phá cho sự phát triển kinh tế. Mặt khác, khủng hoảng tài chính khu vực đã
chấm dứt, nền kinh tế một số quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan,
Singapore… đã nhanh chóng phục hồi và phát triển, hoặc đã đẩy mạnh thu hút đầu
tư quốc tế, chẳng hạn nền kinh tế Trung Quốc đã bắt đầu phục hồi và vươn lên trở
thành một trong những quốc gia đang phát triển mạnh. Trong thời gian đến đòi hỏi
phải nhanh chóng cải tiến cơ chế chính sách mạnh hơn nữa, gia tăng các giải pháp
có tính khả thi cao để đẩy mạnh khuyến khích đầu tư trong nước và cạnh tranh thu
hút đầu tư nước ngoài, nhanh chóng đón tiếp thời cơ, đón nhận các luồng vốn đầu
tư mới, đáp ứng nhu cầu về vốn nhằm tạo đà tăng tốc phát triển kinh tế.
Theo thống kê sơ bộ, chỉ riêng trong tháng 6/2007, cả nước có 203 dự án được
cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 556 triệu USD, đưa tổng số dự
án cấp mới trong 6 tháng đầu năm 2007 là 575 dự án, với tổng vốn đầu tư đạt 4,3 tỷ
USD, tăng 69,6% về số dự án và 6,4% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước.
Cũng trong tháng 6, nếu tính cả số vốn đầu tư bổ sung 293 triệu USD với 58 lượt dự
án đã nâng tổng số vốn tăng thêm của cả 6 tháng là 870 triệu USD với 199 lượt dự
án, tăng 9,3% về số dự án tăng thêm và 16,8% về vốn bổ sung so với kỳ năm trước.
Trong 6 tháng qua, về cơ bản tình hình hoạt động sản xuất – kinh doanh của khu
vực đầu tư nước ngoài vẫn giữ mức tăng so với cùng kỳ năm trước, một số doanh


nghiệp đầu tư nước ngoài đã triển khai tích cực ngay sau khi được cấp giấy chứng
nhận đầu tư. Doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong 6
- 2 -
tháng đầu năm 2007 ước đạt 3,2 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch doanh thu trong 6
tháng là 14,3 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước, trong đó riêng giá trị
xuất khẩu đạt 8,8 tỷ USD, tăng 32,1% so với cùng kỳ. Theo thống kê của Bộ Kế
hoạch và đầu tư thì trong 6 tháng qua, số dự án có quy mô tương đối lớn được cấp
phép đã tăng gần 50% so với cùng kỳ. Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án
trong 6 tháng đầu năm 2007 đạt 7,5 triệu USD/dự án, cao hơn so với bình quân
cùng kỳ năm trước (6,7 triệu USD/dự án). Theo số liệu thống kê thì lĩnh vực công
nghiệp vẫn dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư đăng ký, với tỷ lệ 56,5%, nhưng cơ cấu
này đã có sự chuyển dịch tích cực sang lĩnh vực dịch vụ. So sánh tỷ lệ 56,5% đầu tư
trong lĩnh vực công nghiệp của 6 tháng 2005 với cùng kỳ năm 2006 là 72,7% và
tương tự trong lĩnh vực dịch vụ có tỷ lệ 43,2% và 22,6%. Hiện tại, một số ngành
nghề dịch vụ đang thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài như xây dựng
các khu vui chơi, nghỉ dưỡng, sản xuất phần mềm, dịch vụ tư vấn-tài chính
Nhanh chóng nắm bắt tình hình trên, Uỷ ban nhân dân thành phố Tam Kỳ đã đưa
ra nhận định Khu công nghiệp Tam Kỳ là một trong những hướng phát triển nhằm
từng bước đáp ứng mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá sự phát triển kinh tế
của thành phố. Với mục tiêu đó, có thể thấy rằng sự thành công của các Khu công
nghiệp Tam Kỳ sẽ có tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế tại thành phố nói
riêng và của tỉnh Quảng Nam nói chung trong việc tạo thế liên kết với khu kinh tế
mở Chu Lai, khu công nghiệp Đông Quế Sơn, khu công nghiệp Điện Nam - Điện
Ngọc trong định hướng phát triển của toàn tỉnh trong xu thế mới.
Trong điều kiện mà quá trình quốc tế hóa, với 2 xu thế là toàn cầu hóa và khu
vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, thì bất kỳ quốc gia nào nằm ngoài
cuộc chơi này, có nghĩa sẽ đi ngược lại với xu thế phát triển của thời đại. Bên cạnh
đó, sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, đã đưa loài người bước vào kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức, kỷ nguyên thông tin. Hai xu thế
này đã tạo điều kiện để rút ngắn khoảng cách giữa con người với con người, giữa

nền kinh tế các nước và giữa các doanh nghiệp. Chính vì lẽ đó, mà hàng hóa, dịch
vụ, nguồn lực… giữa các quốc gia, doanh nghiệp dễ dàng di chuyển qua lại. Đây là
một cơ hội lớn cho sự phát triển của các quốc gia và doanh nghiệp và là một cơ hội
lớn cho sự phát triển của các Khu công nghiệp nói chung và Khu công nghiệp Tam
Kỳ nói riêng. Hiển nhiên rằng sự phát triển này sẽ tuỳ thuộc rất nhiều vào kết quả
- 3 -
của việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Chính vì vậy, những hoạt động cải
thiện môi trường đầu tư, xây dựng và từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách
cũng như các giải pháp khả thi, khắc phục những tồn tại hạn chế trong quá trình xây
dựng và phát triển, từ đó đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước chính là
một trong những hướng cơ bản đối với các Khu công nghiệp Tam Kỳ trong thời
gian đến.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề mang tính lý luận cơ bản về Khu công
nghiệp, thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý và thu hút vốn đầu tư tại các
Khu công nghiệp Tam Kỳ, đồng thời tiến hành khảo sát hành vi các nhà đầu tư tại
các Khu công nghiệp Tam Kỳ trong thời gian qua, từ đó nhận định các mặt tích cực
và các mặt tồn tại nhằm tìm giải pháp khắc phục.
- Phân tích môi trường đầu tư, vận dụng chủ trương đường lối của Đảng và Nhà
nước về thu hút vốn đầu tư đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư
của các khu vực trong và ngoài nước, từ đó đề xuất hệ thống những giải pháp nhằm
nâng cao và đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp Tam
Kỳ trong thời gian đến.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phân tích mối quan hệ và tầm quan trọng
của thu hút vốn đầu tư và một số đề xuất phát triển hoạt động thu hút vốn đầu tư
trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Hơn nữa theo tinh thần Nghị
quyết số 09-NQ/TU ngày 15/7/2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam về
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội Quảng Nam thì đây là lĩnh vực có phạm vi

rộng nên việc xác định phạm vi nghiên cứu là rất cần thiết.
- Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu như trên thì luận văn chỉ giới hạn trong việc
thu hút các dự án đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước và các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư tại Khu công nghiệp Tam Kỳ, trong
đó ưu tiên vẫn là hệ thống các giải pháp thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế
trong nước.
4. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn kết hợp các phương pháp thống kê – khảo
sát, phân tích – tổng hợp – so sánh, kinh tế lượng (lượng hoá các vấn đề về thu hút
- 4 -
đầu tư) và coi trọng những bài học kinh nghiệm về thu hút đầu tư của các khu vực
trong nước và ngoài nước.
- Phương pháp thống kê : thu nhập và xử lý các số liệu liên quan đến nội dung
của đề tài.
- Phương pháp khảo sát : tiến hành khảo sát thực tế đối tượng nghiên cứu, kết
hợp với phương pháp thống kê để phân tích, đánh giá thực trạng các khu cụm công
nghiệp Tam Kỳ từ đó rút ra những điểm mạn và điểm yếu của các khu, cụm công
nghiệp Tam Kỳ.
- Các phương pháp phân tích, mô tả, so sánh được sử dụng làm phương pháp
luận cho nghiên cứu cả lý luận lẫn thực tiễn.
- Phân tích SWOT : phân tích cơ hội và nguy cơ bên ngoài các Khu công nghiệp
Tam Kỳ đối với quá trình thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp Tam Kỳ.
5. Nội dung của luận văn: kết cấu nội dung của luận văn gồm các phần mở đầu, ba
chương và phần kết luận.
Chương I : Tổng quan về khu công nghiệp và thu hút vốn đầu tư vào các khu
công nghiệp.
Chương II : Thực trạng công tác quản lý đầu tư và tình hình thu hút vốn đầu tư
tại các Khu công nghiệp Tam Kỳ.
Chương III : Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư vào các Khu
công nghiệp Tam Kỳ trong thời gian đến.
- 5 -

Chương I : TỔNG QUAN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP VÀ THU
HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1 Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao :
1.1.1 Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao :
1.1.1.1 Khu công nghiệp: là khu chuyên sản xuất hàng hoá công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành
lập theo quy định của Chính phủ.
1.1.1.2 Khu chế xuất: là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới
địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
1.1.1.3 Khu công nghệ cao: là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng
công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ
cao, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
1.1.2 Phân loại khu công nghiệp: KCN là cấu trúc kinh tế khá phức tạp, để tìm
hiểu mô hình định hướng phát triển các KCN, trước hết cần phải phân loại các KCN
để có sự nhận diện về những loại KCN cụ thể. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu
KCN, người ta có các tiếp cận phân loại khác nhau như sau :
1.1.2.1 Dựa vào tính chất ngành nghề: chia thành KCN chuyên ngành, KCN
đa ngành, KCN sinh thái.
- KCN chuyên ngành : hình thành do phân công chuyên môn hóa, bao gồm
các xí nghiệp trong cùng một ngành sản xuất ra một hoặc một số loại sản phẩm.
KCN chuyên ngành hoạt động trong một số ngành như : Cơ khí, hoá chất, vật liệu
xây dựng.
- KCN đa ngành : gồm nhiều xí nghiệp thuộc nhiều ngành khác nhau có mối
liên hệ với nhau. Loại hình này cho phép khai thác, sử dụng có hiệu quả cơ sở hạ
tầng kỹ thuật, dịch vụ.
- KCN sinh thái : là loại hình cộng sinh công nghiệp, tạo sự hài hoà giữa sản
xuất – cuộc sống và sự thân thiện với môi trường. Trong đó có sự lựa chọn xí
- 6 -
nghiệp của nhiều ngành công nghiệp có mối liên hệ hỗ trợ tương tác với nhau, tạo

ra sự cân bằng môi trường và phát triển bền vững.
1.1.2.2 Căn cứ vào qui mô : KCN chia thành KCN qui mô lớn, KCN qui mô
vừa và KCN qui mô nhỏ.
- Khu công nghiệp quy mô lớn là các khu công nghiệp có tổng diện tích quy
hoạch từ 200 ha đến 500 ha.
- Khu công nghiệp quy mô vừa là các khu công nghiệp có tổng diện tích quy
hoạch lớn hơn 50 ha và nhỏ hơn 200 ha.
- Khu công nghiệp quy mô nhỏ là các khu công nghiệp có tổng diện tích quy
hoạch nhỏ hơn 50 ha.
1.1.2.3 Dựa vào đặc thù của từng đối tượng quản lý KCN: được phân thành:
KCN tập trung, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao.
1.1.2.4 Phân theo cấp quản lý tương ứng với 3 cấp quản lý nhà nước: có các
loại KCN :
- KCN do Chính phủ thành lập.
- KCN do tỉnh, thành phố thành lập.
- Cụm CN do huyện, thị thành lập.
1.1.2.5 Các loại khu công nghiệp ở Việt Nam: dù phân loại KCN dựa trên các
tiêu thức khác nhau, song ở nước ta hiện nay có các loại KCN sau :
Thứ nhất là : các KCN được thành lập dựa trên cơ sở các xí nghiệp công
nghiệp hiện có dựa trên cơ sở cải tạo hoàn thiện kết cấu hạ tầng và bảo vệ môi
trường.
Thứ hai là : các KCN hình thành do giải tỏa các xí nghiệp công nghiệp đơn lẻ,
kỹ thuật lạc hậu để chỉnh trang lại đô thị và chống ô nhiễm môi trường.
Thứ ba là : các KCN (cụm CN) hình thành để thu hút vốn các doanh nghiệp
quy mô vừa và nhỏ thuộc các ngành công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất hàng
tiêu dùng hoặc phát triển làng nghề truyền thống.
Thứ tư là: các KCN có quy mô lớn, tập trung, hiện đại do Chính phủ thành lập.
- 7 -
1.1.3 Đặc điểm KCN:
Nhìn chung các KCN ở nước ta hiện nay khá đa dạng về ngành nghề, lĩnh vực

hoạt động, đa dạng về thành phần kinh tế và đa dạng cả về quy mô và trình độ. Tính
chất đa dạng hóa phát triển các KCN ở nước ta hiện nay, một mặt cho phép phát
triển ngành nghề, khai thác tiềm năng, tạo nhiều việc làm và thu nhập cho người lao
động, mặt khác tạo khả năng thu hút các nguồn vốn, khoa học kỹ thuật tiên tiến và
công nghệ quản lý hiện đại, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư lớn với công nghệ
nguồn.
1.1.4 Vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước:
Hiện nay, các khu công nghiệp đang là mục tiêu hướng tới của nhiều tỉnh,
thành phố trong cả nước. Mỗi khu công nghiệp ra đời sẽ là đầu mối quan trọng
trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), tạo động lực lớn cho quá trình tiếp thu công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và phân công lại lao động phù hợp với xu thế hội nhập kinh doanh quốc tế, tạo nhân
tố chủ yếu trong việc tăng trưởng công nghiệp theo quy hoạch tổng thể, tăng khả
năng thu hút đầu tư từ các nguồn lực trong và ngoài nước, đẩy mạnh nguồn hàng
xuất khẩu, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, tạo việc làm
và hạn chế tình trạng ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Ngoài ra, phát triển
các khu công nghiệp cũng thúc đẩy việc hình thành và phát triển các đô thị mới,
phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và dịch vụ, tạo điều kiện cho quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đạt hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích quốc gia, trong đó
đáng kể là tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói
giảm nghèo và đào tạo phát triển nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế.
Việc phát huy thế mạnh của mỗi vùng kinh tế sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp thúc
đẩy kinh tế khu vực này phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai. Đặc biệt, những nỗ
lực cho phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở khu vực này sẽ nhanh chóng
tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển công nghiệp trong vùng và góp phần tăng trường
- 8 -
kinh tế của cả nước. Vai trò của các khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam
trong giai đoạn Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá thể hiện ở các góc độ sau :
1.1.4.1 Tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho nền kinh tế:

Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và đầu tư, trong 6 tháng đầu năm 2007, tính
chung cả vốn cấp mới và tăng thêm, cả nước đã thu hút được hơn 5,2 tỷ USD vốn
FDI, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước. Trong các dự án mới được cấp phép, dự án
trong lĩnh vực công nghiệp chiếm 56,5%; dịch vụ chiếm 43,2%; số còn lại thuộc
lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Chỉ riêng trong tháng 6/2007, cả nước có
203 dự án được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 556 triệu
USD, đưa tổng số dự án cấp mới trong 6 tháng đầu năm 2007 là 575 dự án, với tổng
vốn đầu tư đạt 4,3 tỷ USD, tăng 69,6% về số dự án và 6,4% về vốn đăng ký so với
cùng kỳ năm trước. Cũng trong tháng 6, nếu tính cả số vốn đầu tư bổ sung 293 triệu
USD với 58 lượt dự án đã nâng tổng số vốn tăng thêm của cả 6 tháng là 870 triệu
USD với 199 lượt dự án, tăng 9,3% về số dự án tăng thêm và 16,8% về vốn bổ sung
so với kỳ năm trước. Trong đó doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài trong 6 tháng đầu năm 2007 ước đạt 3,2 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch doanh
thu trong 6 tháng là 14,3 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước, trong đó
riêng giá trị xuất khẩu đạt 8,8 tỷ USD, tăng 32,1% so với cùng kỳ. Theo thống kê
của Bộ KH&ĐT thì trong 6 tháng qua, số dự án có quy mô tương đối lớn được cấp
phép đã tăng gần 50% so với cùng kỳ. Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án
trong 6 tháng đầu năm 2007 đạt 7,5 triệu USD/dự án, cao hơn so với bình quân
cùng kỳ năm trước (6,7 triệu USD/dự án).
Mặc dù nước ta hiện đang là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao của thế giới, song với điều kiện cơ sở hạ tầng của nước ta chưa được cải
thiện, các thể chế và chính sách còn chưa hoàn thiện và phù hợp với yêu cầu của
khu vực và thế giới thì rõ ràng thành công từ việc thu hút được một lượng vốn đầu
tư như thống kê ở trên là một trong những hoạt động tạo vốn và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn khá quan trọng hiện nay.
- 9 -
1.1.4.2 Góp phần đổi mới công nghệ và tăng năng suất lao động:
Sự gia tăng nguồn vốn đầu tư liên quan đến việc mở rộng phạm vi sản xuất
và xu hướng toàn cầu hoá. Với những ưu thế của mình, các khu công nghiệp, khu
chế xuất đang phát huy tối đa những kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trên thế giới,

hơn nữa sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin đã tạo điều kiện tốt
nhất cho sự giao lưu và hợp tác gữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Và
tất yếu khách quan là một khi công nghệ và kỹ thuật được cải tiến, thêm vào đó là
sự đổi mới cơ chế quản lý thì năng suất lao động cũng được cải thiện. Ở nước ta,
theo thống kê thì lĩnh vực công nghiệp vẫn dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư đăng ký,
với tỷ lệ 56,5%, nhưng cơ cấu này đã có sự chuyển dịch tích cực sang lĩnh vực dịch
vụ. So sánh tỷ lệ 56,5% đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp của 6 tháng 2005 với
cùng kỳ năm 2006 là 72,7% và tương tự trong lĩnh vực dịch vụ có tỷ lệ 43,2% và
22,6%. Hiện tại, một số ngành nghề dịch vụ đang thu hút sự chú ý của các nhà đầu
tư nước ngoài như xây dựng các khu vui chơi, nghỉ dưỡng, sản xuất phần mềm, dịch
vụ tư vấn - tài chính Những ngành này đã và đã từng bước nâng cao được năng
lực sản xuất, năng suất lao động.
1.1.4.3 Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động:
Các khu công nghiệp đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 14 tỷ USD,
bằng 28% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước và xuất khẩu đạt 6 tỷ USD chiếm
19% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nộp ngân sách 650 triệu USD, sử dụng gần
1 triệu lao động
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá được hiểu là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý xã hội và tâm lý từ
sử dụng lao động thủ công là chủ yếu sang sử dụng một cách phổ biến lao động với
tay nghề có công nghệ và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của
công nghiệp, tiến bộ khoa học và công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Chính vì vậy, các khu công nghiệp, khu chế xuất đã từng bước góp phần giải quyết
- 10 -
việc làm cho người lao động nhưng cũng đồng thời thay đổi tác phong và kỹ năng
cho người lao động.
1.1.4.4 Góp phần gia tăng xuất khẩu, cân bằng cán cân ngoại thương và tăng
thu ngân sách cho Nhà Nước :
Cho đến năm 2005 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập khoảng 148
KCN, khu chế xuất (chưa kể hàng trăm các khu công nghiệp,cụm công nghiệp với

quy mô thích hợp do UBND các tỉnh quyết định thành lập). Các khu công nghiệp đã
thu hút 4.516 dự án đầu tư, trong đó có 2.202 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với số
vốn đăng ký đạt khoảng 18 tỷ USD và 2.314 dự án đầu tư trong nước với số vốn
đầu tư trên 100000 tỷ đồng. Các khu công nghiệp đã tạo ra giá trị sản xuất công
nghiệp đạt trên 14 tỷ USD, bằng 28% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước và xuất
khẩu đạt 6 tỷ USD chiếm 19% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nộp ngân sách
650 triệu USD, sử dụng gần 1 triệu lao động và tạo việc làm cho hàng triệu người
phục vụ cho việc phát triển các khu công nghiệp. Các doanh nghiệp hoạt động trong
các khu công nghiệp, khu chế xuất đóng góp đang kể vào ngân sách nhà nước, riêng
năm 2004, các khu công nghiệp, khu chế xuất nộp ngân sách nhà nước với số tiền
473 triệu USD. Những số liệu trên cho thấy các khu công nghiệp, khu chế xuất là
một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm gia tăng sản xuất, cán cân ngoại
thương và tăng ngân sách Nhà nước.
1.1.4.5 Góp phần đổi mới cơ chế quản lý và cải thiện môi trường đầu tư:
Các khu công nghiệp đã và đang tạo nhân tố chủ yếu trong việc tăng trưởng
công nghiệp theo quy hoạch, tăng khả năng thu hút đầu tư, đẩy mạnh nguồn hàng
xuất khẩu, tạo việc làm và hạn chế tình trạng ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây
ra. Chính sự phát triển các khu công nghiệp cũng đã thúc đẩy việc phát triển các đô
thị mới, phát triển các cơ sở phụ trợ và dịch vụ, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế xã hội nói chung. Vai trò tích cực của các khu công nghiệp có thể xác định
rõ trên một số khía cạnh chủ yếu như :
- 11 -
- Tạo điều kiện để thực hiện các liên kết, hỗ trợ kinh tế mới : hỗ trợ về công
nghệ, hỗ trợ về quản lý, đặc biệt với sự phát triển của công nghệ thông tin, hiện nay
sự gắn kết hỗ trợ các ngành cơ khí, điện, điện tử với nguyên lý điều khiển số, xử lý
tri thức
- Với cơ chế quản lý “một cửa”, quản lý “tại chỗ” các khu công nghiệp, khu
chế xuất, cụm công nghiệp đã từng bước tạo nên những thay đổi lớn trong môi
trường đầu tư và nâng cao tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư.
- Những tác động tích cực từ các dòng vốn đầu tư đã buộc Chính phủ cũng có

những thay đổi từ cơ chế, chính sách cho đến quan hệ đối ngoại theo hướng tích cực
cải thiện môi trường nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư.
1.1.4.6 Góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế địa phương, cải thiện môi
trường:
Sự phát triển nhanh, có chất lượng của các KCN, KCX và khu công nghệ cao
có tác động rất tích cực đối với sự chuyển dịch cơ cấu của một tỉnh, một vùng, và
của cả nước. Nước ta từ một nước nông nghiệp đang ở trong giai đoạn đầu của quá
trình công nghiệp hoá, nhu cầu việc làm rất lớn. Phát triển công nghiệp nói chung
và các khu công nghiệp nói riêng nhằm tạo ra nhiều việc làm, thu hút ngày càng
nhiều lao động dư thừa ở khu vực nông nghiệp, góp phần nâng cao được năng suất
ở khu vực này. Theo số liệu điều tra, hiện nay 1 ha đất khu công nghiệp, khu chế
xuất tạo ra khoảng 150 chỗ làm việc kể cả gián tiếp và trực tiếp (trong đó lao động
trực tiếp bình quân khoảng 81 người/ha).
Các khu công nghiệp, khu chế xuất góp phần thúc đẩy mạnh quá trình chuyển
biến cơ cấu sản xuất công nghiệp theo hướng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu một
cách có hiệu quả, nâng dần tỷ trọng các mặt hàng đã qua chế biến, hạn chế đến mức
thấp nhất việc xuất khẩu nguyên liệu thô. Do tập trung các cơ sở sản xuất nên có
điều kiện thuận lợi trong việc kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường, do
vậy khu công nghiệp là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nội
thành, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Đây là một trong số các mục tiêu đặt
- 12 -
ra đối với việc thành lập khu công nghiệp. Cho đến nay, hầu hết các khu công
nghiệp tập trung được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trong
thiết kế cũng như trong quá trình triển khai xây dựng có chú ý đến việc xử lý nước
thải công nghiệp, và đã có các cơ sở hạ tầng xử lý.
1.1.5 Mô hình quản lý môi trường của khu công nghiệp:
Có 3 mô hình quản lý môi trường KCN chính : mô hình quản lý KCN theo
hướng xử lý chất thải, mô hình quản lý KCN mô phỏng theo hệ sinh thái tự nhiên
và mô hình quản lý KCN theo chuỗi sản xuất.
1.1.5.1. Mô hình quản lý KCN theo hướng xử lý chất thải:

Theo mô hình này, tại mỗi KCN có ít nhất một hệ thống xử lý chất thải tập
trung. Các nhà máy nằm trong KCN phải xử lý chất thải sơ bộ trước khi đổ vào hệ
thống xử lý tập trung nếu chất thải có chứa chất độc hại có ảnh hưởng đến quá trình
xử lý chung. Cũng theo mô hình này, có sự áp dụng kết hợp hai công cụ mệnh lệnh
và kiểm soát và công cụ kinh tế trong việc quản lý môi trường KCN. Chất thải của
từng nhà máy phải đạt tiêu chuẩn nhất định trước khi đổ vào hệ thống xử lý chung,
tiêu chuẩn này được định bởi cơ quan quản lý hệ thống xử lý chung, thông thường
là cơ quan quản lý môi trường KCN. Chất thải sau khi xử lý ở hệ thống xử lý chung
phải đạt tiêu chuẩn thải qui định bởi cơ quan chuyên trách môi trường, thông
thường là Sở Khoa học - Công nghệ và Môi trường hay Bộ Khoa học - Công nghệ
và Môi trường (KHCN&MT).
Nhà máy phải trả chi phí sử dụng tỉ lệ với thể tích chất thải hay nồng độ chất
thải cần xử lý. Về phương diện không khí, giữa các nhà máy trong KCN có thể tiến
hành buôn bán giấy phép ô nhiễm không khí. Qua đó nhà máy nào có khả năng
giảm thiểu ô nhiễm dưới mức chấp nhận sẽ có quyền bán phần tiêu chuẩn còn lại
cho các nhà máy gặp khó khăn trong việc giảm thiểu ô nhiễm. Như vậy đôi bên đều
có lợi và nhà quản lý môi trường KCN cũng có lợi trong việc bảo đảm chất lượng
môi trường không khí chung của KCN ở mức cho phép.
- 13 -
Đa số các KCN ở các nước Đông Nam Á đều được quản lý theo mô hình này
(UNEP, 1997a). Có thể lấy KCN ở Thái Lan làm ví dụ điển hình. Các KCN ở Thái
Lan được đặt dưới sự quản lý của ban quản lý KCN Thái Lan. Ban quản lý chịu
trách nhiệm chung về quản lý và phát triển KCN, kiểm soát ô nhiễm, quản lý môi
trường kể cả quan trắc chất lượng môi trường KCN. Tất cả các KCN ở Thái Lan
đều có hệ thống xử lý nước thải tập trung, các nhà máy đổ nước thải vào các hệ
thống xử lý chung phải đạt tiêu chuẩn quy định bởi Ban quản lý, nếu không các nhà
máy phải xử lý sơ bộ. Các nhà máy sử dụng hệ thống xử lý chung phải trả phí sử
dụng tỷ lệ với thể tích và nồng độ chất thải. Nước thải sau xử lý phải đạt tiêu chuẩn
của Bộ KHCN&MT. Việc theo dõi kiểm tra chất lượng nước thải, khí thải và tiếng
ồn trong KCN được thực hiện bởi các công ty ký hợp đồng với Ban quản lý KCN.

Ban quản lý KCN Thái Lan ký hợp đồng với công ty B.J.T Water Co. Ltd để phân
tích chất lượng nước thải của từng nhà máy trước khi đổ vào hệ thống xử lý chung,
công ty này làm việc với sự theo dõi và đôn đốc của nhân viên Ban quản lý. Để thực
hiện kiểm chứng, các nhà máy có phòng thí nghiệm riêng có thể phân tích nước thải
của chính nhà máy mình. Các nhà máy không có phòng thí nghiệm riêng có thể gửi
mẫu đến các trung tâm dịch vụ môi trường để kiểm chứng. Việc kiểm tra chất lượng
không khí và tiếng ồn KCN do công ty S.G.S Thailand. Ltd đảm nhiệm. Ban quản
lý KCN Thái Lan có phòng thí nghiệm di động có thể lấy mẫu và phân tích tại chỗ
chất lượng không khí trong trường hợp khẩn cấp hay có khiếu nại. Ban Quản lý
KCN Thái Lan dự định thiết lập hệ thống quan trắc tự động để theo dõi chất lượng
không khí và chất lượng nước thải từ hệ thống xử lý chung.
1.1.5.2. Mô hình quản lý KCN mô phỏng theo hệ sinh thái tự nhiên:
Mô hình quản lý KCN theo hướng xử lý chất thải giúp các doanh nghiệp nhỏ
và vừa không có đủ vốn và nhân lực để đầu tư vào hệ thống xử lý cục bộ có thể đạt
được tiêu chuẩn thải quy định bởi cơ quan chuyên trách môi trường, mặt khác giúp
cải thiện chất lượng môi trường chung của KCN. Tuy nhiên đây chỉ là mô hình sơ
khởi có tính cách đối phó với qui định và luật lệ môi trường. Khi giá nguyên liệu,
- 14 -
năng lượng gia tăng; khi tiêu chuẩn môi trường ngày càng khắt khe nghiêm ngặt,
mô hình quản lý KCN theo hướng xử lý chất thải không còn thích hợp. Giải pháp
cho vấn đề sẽ là mô hình quản lý KCN mô phỏng theo hệ sinh thái tự nhiên.
Theo mô hình này thì KCN sẽ được tổ chức sao cho nhu cầu nguyên liệu tiêu
thụ sẽ giảm tối đa đồng thời lượng chất thải cần được xử lý sẽ giảm đến mức tối
thiểu. Để thực hiện được việc giảm thiểu chất thải trong KCN, bản thân mỗi nhà
máy phải áp dụng quy trình ngăn ngừa chất thải của từng công đoạn sản xuất, tiết
kiệm và tiêu thụ nước, nguyên liệu một cách hợp lý và hiệu quả hơn. Công cụ kinh
tế như phí ô nhiễm sẽ giúp nhà máy thay đổi thái độ hành vi ứng xử, mục tiêu của
nhà máy không còn là vấn đề xử lý chất thải mà phải thay đổi quy trình công nghệ
hay cách quản lý để có thể giảm thiểu chất thải càng nhiều càng tốt, để phí ô nhiễm
phải trả ở mức thấp nhất.

Nhà quản lý KCN có thể hỗ trợ cho các nhà máy bằng cách thu nhập và truyền
bá thông tin về công nghệ sạch. Ví dụ : Ban quản lý KCN Thái Lan dự định sẽ
thành lập một trung tâm môi trường cho KCN cung cấp các thông tin cần thiết về
biện pháp kiểm soát ô nhiễm cho từng loại công nghệ, công nghệ sạch, hệ thống
quản lý môi trường theo ISO, các biện pháp an toàn lao động Ban quản lý KCN
Jebal Ali ở Dubai đã tổ chức cung cấp thông tin về công nghệ sạch, các phương
pháp tái sử dụng chất thải cho các nhà máy trong KCN. Mô hình này mô phỏng
theo sự hoạt động của hệ sinh thái tự nhiên và dựa vào khái niệm hệ sinh thái công
nghiệp, hệ trao đổi chất công nghiệp và sinh thái công nghiệp
Hiện nay một số KCN ở Pháp, Thuỵ Điển, Canada, cũng được xem là những ví
dụ quản lý theo mô hình này (UNEP 1997b). Ở tại Mỹ đang có những nghiên cứu
thành lập các KCN mô phỏng theo hệ sinh thái tự nhiên. Hà Lan đang có chương
trình nghiên cứu trao đổi chất thải giữa các nhà máy trong KCN cảng Rotterdam.
Công cụ truyền thông hai hay đa chiều với hình thức thoả hiệp tự nguyện sẽ
tạo điều kiện để các nhà máy trong KCN thảo luận phương pháp trao đổi chất thải,
và nhà quản lý môi trường KCN sẽ đóng vai trò khởi xướng và là chiếc cầu nối
- 15 -
trong các cuộc thảo luận. Nhà quản lý môi trường KCN phải lập chương trình kiểm
toán chất thải, hỗ trợ các nghiên cứu ứng dụng tiềm năng trao đổi chất thải giữa các
nhà máy, liên lạc và thông tin cho các nhà máy để thực hiện chương trình kiểm toán
và tổ chức ứng dụng trao đổi chất thải.
1.1.5.3. Mô hình quản lý KCN theo chuỗi sản xuất :
Mô hình quản lý KCN theo chuỗi sản xuất chỉ thực sự cần thiết khi có yêu cầu
về tiêu chuẩn sinh thái của thị trường thế giới hay nội địa, nhu cầu của người tiêu
dùng về sản phẩm sạch với nhãn hiệu sinh thái. Một sản phẩm sạch là sản phẩm
được sản xuất theo một qui trình không gây tác hại môi trường từ giai đoạn đầu cho
đến khi thải bỏ, từ quá trình khai thác nguyên liệu, chuyên chở nguyên liệu để tạo
sản phẩm, quá trình sản xuất sản phẩm, quá trình bảo quản, sử dụng và cho đến khi
bị thải bỏ và toàn bộ các quá trình này phải hạn chế đến mức tối thiểu những tác hại
cho môi trường. Để thực hiện được điều này cần có sự hợp tác chặt chẽ và tin cậy

lẫn nhau giữa các thành viên trong chuỗi sản xuất. Nhà quản lý môi trường KCN sẽ
đóng vai trò cung cấp thông tin về yêu cầu tiêu chuẩn sinh thái, tổ chức phối hợp
với nguồn cung cấp nguyên liệu, tìm thị trường hay đăng ký thị trường sản phẩm
sạch. Nếu các nhà máy có liên hệ với nhau trong chuỗi sản xuất cùng nằm trong
một KCN thì đó là cơ hội tốt để tổ chức KCN theo mô hình này. Công cụ truyền
thông đóng vai trò quan trọng trong việc thông tin và thảo luận các phương pháp cải
tiến công nghệ; thay đổi công nghệ cho phù hợp với dây chuyền sản xuất sạch; mối
liên hệ giữa công ty cung cấp nguyên liệu, nhà máy sản xuất sản phẩm và người tiêu
dùng. Tuy nhiên, thực hiện tổ chức mô hình này không phải dễ dàng và cho đến nay
có rất ít ví dụ minh hoạ triển khai mô hình này trên thực tế.
1.1.6 Hình thức quản lý Nhà nước của khu công nghiệp :
Căn cứ Nghị định của Chính phủ về ban hành Quy chế khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao ban hành ngày 24/04/1997 thì trách nhiệm quản lý Nhà
nước đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao phải có sự phối
hợp của các Bộ Kế hoạch – Đầu tư, Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học
- 16 -
Công nghệ, Bộ Tài Nguyên – Môi trường, Bộ Thương mại, Ban tổ chức Chính phủ,
Ban Quản lý các khu công nghiệp Việt Nam và các cơ quan chuyên ngành Thương
mại, Tài chính, Hải quan, Công an và các chuyên ngành cần thiết khác đặt cơ quan
đại diện đủ thẩm quyền giải quyết trực tiếp công việc tại từng KCN hoặc từng cụm
KCN. Tuy nhiên, việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trực tiếp tại các khu
công nghiệp thì do Ban quản lý các khu công nghiệp cấp tỉnh hoặc thành phố trực
thuộc Trung Ương nơi có khu công nghiệp thực hiện và nếu có các vấn đề vượt quá
thẩm quyền thì phối hợp với các Bộ và cơ quan ngang Bộ giải quyết (trừ các khu
kinh tế do Thủ tướng Chính Phủ ký quyết định thành lập thì có Ban quản lý riêng).
Và hiện nay, về mô hình quản lý các khu công nghiệp thì có thể khái quát như
sau :
- Đối với các khu công nghiệp tập trung : phần lớn công tác quản lý được thực
hiện thông qua Công ty đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng và các Công ty này hoạt
động theo quy định tại Quy chế quản lý KCN ban hành kèm theo Nghị định 36/CP

ngày 24/4/1994 của Chính phủ. Các công ty hạ tầng thu phí quản lý hạ tầng hàng
năm của các doanh nghiệp nên có kinh phí cho công tác duy tu, bảo dưỡng, hạ tầng
kỹ thuật thường xuyên. Một đặc trưng khác nữa là các cơ quan dịch vụ khác như :
Hải quan, Bưu điện, PCCC thường có trụ sở chi nhánh của mình trong KCN. Tại
các KCN đều có Văn phòng đại diện của ban quản lý các khu công nghiệp và khu
chế xuất của tỉnh hoặc thành phố trực thuộc TW nên bước đầu kịp thời xử lý tại chỗ
các vướng mắc của doanh nghiệp. Vì vậy, các dịsch vụ cung cấp cho doanh nghiệp
trong KCN tập trung cơ bản được xử lý tại chỗ và khép kín, tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp trong KCN tập trung.
- Đối với các khu công nghiệp vừa và nhỏ : việc quản lý các khu, cụm công
nghiệp này theo các mô hình rất khác nhau (hiện đang tồn tại song song 02 mô hình
quản lý khu, cụm công nghiệp). Phần lớn các khu công nghiệp vừa và nhỏ đều tổ
chức quản lý theo dạng riêng từng khu, cụm công nghiệp.
- 17 -
+ Ở những khu công nghiệp đã hoạt động và đã có các dự án đang hoạt động
thì thành lập Ban quản lý các khu công nghiệp để làm nhiệm vụ quản lý nhà nước
trong đầu tư và điều hành chung các hoạt động sau đầu tư.
+ Ở các khu, cụm công nghiệp đang được triển khai đầu tư thì chỉ thành lập
Ban quản lý dự án khu, cụm CN để làm nhiệm vụ quản lý nhà nước trong đầu tư và
điều hành chung các hoạt động sau đầu tư.
Sự khác biệt cơ bản của hai hình thức này so với KCN tập trung ở chỗ : các
khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ không theo mô hình Công ty đầu tư kinh doanh
cơ sở hạ tầng mà hầu hết tổ chức theo dạng riêng từng cụm công nghiệp.
1.1.7 Mối quan hệ giữa khu công nghiệp với bên ngoài :
Mối quan hệ giữa các khu công nghiệp với bên ngoài thể hiện ở những tác
động tích cực của khu công nghiệp đến hoạt động kinh tế, xã hội và môi trường của
địa phương, khu vực có khu công nghiệp. Điều này được thể hiện trên các mặt : tạo
sự chuyển dịch tích cực trong cơ cấu ngành kinh tế theo xu hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hướng về xuất khẩu; tác động tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội cho khu vực có khu công nghiệp; tác động tích cực

và giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề xã hội, giải quyết việc làm và
nâng cao thu nhập cho dân cư, giảm thiểu tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường
trong quá trình phát triển khu công nghiệp.
Những tác động này được đánh giá thông qua hệ thống các tiêu chí như sau :
Thứ nhất : Tiêu chí về kinh tế - kỹ thuật.
Các chỉ tiêu đo lường chính là : Thu nhập bình quân đầu người tính cho toàn
khu vực hoặc địa phương, so với mức chung của cả nước; cơ cấu kinh tế của địa
phương có KCN, thể hiện ở tỷ trọng về doanh thu, giá trị gia tăng, vốn sản xuất, lao
động tính theo ba lĩnh vực : ngành kinh tế, theo thành phần kinh tế, theo khu vực
thể chế; đóng góp của khu công nghiệp cho ngân sách địa phương, thể hiện bằng :
mức và tỷ lệ thu ngân sách của địa phương từ khu công nghiệp đem lại, tốc độ tăng
thu thuế từ các khu công nghiệp; số lượng và chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
- 18 -
thuật - xã hội của địa phương có khu công nghiệp, cụ thể là hệ thống đường xá, cầu
cống, hệ thống nhà ở, các công trình điện, nước, hệ thống bưu điện, thông tin liên
lạc; tỷ lệ đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của địa phương.
Thứ hai : Tiêu chí phản ánh về xã hội.
Tiêu chí phản ánh ảnh hưởng xã hội của khu công nghiệp được tập trung vào
các chỉ tiêu phản ánh khả năng giải quyết việc làm của khu công nghiệp cho địa
phương như sau :
- Sử dụng lao động địa phương : thể hiện ở quy mô và tỷ lệ lao động địa
phương so với tổng số lao động làm việc trong khu công nghiệp.
- Tỷ lệ hộ gia đình (hoặc là số lao động) tham gia cung cấp sản phẩm - dịch vụ
cho khu công nghiệp so với tổng số hộ của địa phương (hoặc so với tổng lao động
địa phương); trong đó nhấn mạnh đến số lượng và tỷ lệ hộ gia đình (lao động) mất
đất tham gia cung cấp sản phẩm - dịch vụ cho khu công nghiệp so với tổng số hộ
(hoặc lao động) bị mất đất.
- Cơ cấu lao động địa phương phản ánh ảnh hưởng của khu công nghiệp đến
sự chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn có khu công nghiệp.
Thứ ba : Tiêu chí phản ánh môi trường.

Gồm ba nội dung chính : khả năng duy trì vấn đề đa dạng hóa sinh học, tiết
kiệm tài nguyên; chống ô nhiễm môi trường.
1.1.8 Các định hướng cơ bản để giải quyết các vấn đề của khu công nghiệp :
Từ nghiên cứu tiêu chí đánh giá mối quan hệ giữa các khu công nghiệp với
bên ngoài, có thể đưa ra một số định hướng cơ bản để giải quyết các vấn đề của việc
phát triển bền vững các khu công nghiệp ở Việt Nam như sau :
Thứ nhất, nâng cao chất lượng, hiệu quả và bảo đảm tính hệ thống trong quy
hoạch khu công nghiệp trên toàn quốc. Quy hoạch các khu công nghiệp phải phù
hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đất đai, quy hoạch điểm
dân cư, thành phố, khu đô thị. Quy hoạch KCN không chỉ nói chung về bố trí địa
điểm, vị trí đóng của khu mà còn phải tính tới cả hướng bố trí ngành công nghiệp,
- 19 -
sản phẩm sẽ sản xuất, phù hợp với đặc điểm dân cư, khả năng đất đai, tài nguyên,
giá cả lao động và yêu cầu về môi trường của từng khu vực.
Thứ hai, nghiên cứu và vận dụng cho Việt Nam các mô hình KCN theo hướng
hiện đại và phù hợp với điều kiện thị trường mở. Cần thay đổi lại quan niệm về
KCN, kể cả khái niệm và mục tiêu thành lập KCN trong các văn bản pháp quy của
nhà nước. Theo xu thế chung, không nên coi KCN là chỉ có sản xuất công nghiệp và
cần phải có hàng rào riêng. Đặc biệt là, xây dựng KCN hiện nay, không phải chỉ với
mục tiêu thu hút bằng mọi cách vốn đầu tư, mà còn phải đặt ra những yêu cầu khác
như: tính hiệu quả, tính bền vững và khả năng lan tỏa cho các khu vực khác.v.v.
- Thực hiện chuyển đổi mô hình tổ chức KCN theo hướng hiện đại, cụ thể :
(1) Chuyển từ KCN thành lập mang tính tận dụng lao động, điều kiện tự nhiên
để thu hút các nhà đầu tư thuộc nhiều ngành nghề sản xuất công nghiệp khác nhau
với mục tiêu lấp đầy khu công nghiệp thành những KCN mang tính sản xuất và chế
biến chuyên môn hoá ngày càng cao và với mục tiêu hiệu quả kinh tế đặt ra là chủ
yếu.
(2) Chuyển từ KCN chỉ bao gồm chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp,
chuyên môn hoá sản xuất cho xuất khẩu, sang mô hình khu công nghiệp tổng hợp,
trong đó bao gồm cả sản xuất công nghiệp, thương mại (xuất khẩu và tiêu thụ nội

địa), dịch vụ như ngân hàng, bưu điện, dịch vụ cung ứng thường xuyên và các hoạt
động dịch vụ; hoạt động khoa học công nghệ cao.
(3) Chuyển từ KCN không có dân cư sang KCN có dân cư thường gọi là khu
kinh tế mở, đặc khu kinh tế .v.v.
- Thực hiện sự liên kết toàn diện theo xu hướng thị trường mở, cụ thể là sự
liên kết trong nội bộ KCN, liên kết giữa các KCN trên cùng một khu vực, và hình
thành nhiều kiểu, loại khu công nghiệp đa dạng.
Thứ ba, thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ KCN theo hướng hiệu quả
và phù hợp với sự phát triển của khoa học, công nghệ. Để bảo đảm sự phát triển bền
vững, có hiệu quả KCN, cần chuyển dịch cơ cấu nội bộ KCN theo những xu thế :
- 20 -
(1) Chuyển từ KCN sản xuất sản phẩm sử dụng nhiều lao động, tài nguyên
sang KCN sử dụng nhiều vốn và công nghệ kỹ thuật cao.
(2) Chuyển từ KCN bao gồm ngành sản xuất gây ô nhiễm môi trường sang sản
phẩm công nghiệp sạch.
(3) Chuyển từ KCN sản xuất, kinh doanh đơn thuần sang KCN kết hợp sản
xuất kinh doanh với nghiên cứu hoạt động khoa học công nghệ và triển khai kỹ
thuật công nghệ cao.
Thứ tư, bảo đảm tính đồng bộ của các yếu tố cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội
và môi trường. Mục đích chung của hướng này là nhằm bảo đảm cho sự phát triển
bền vững không những nội tại KCN mà cả những từng địa phương có KCN đóng
cũng như thực hiện phát triển bền vững toàn quốc gia. để thực hiện được mục tiêu
trên, sự phát triển các KCN phải được kết hợp chặt chẽ với các yếu tố cần phát triển
khác như : hệ thống bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường; hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và xã hội: đường xá, điện, nước, nhà cửa, mạng lưới thông tin viễn thông, y tế,
giáo dục; phát triển KCN đi đôi với quy hoạch đồng bộ mạng lưới thị tứ, thành phố,
khu vực thành thị với các điều kiện sinh hoạt hiện đại.
Thứ năm là, Chính phủ luôn có các chính sách phù hợp cho việc phát triển các
khu công nghiệp. Các chính sách nhằm phát triển bền vững KCN cần hướng tới
việc : thực hiện mục tiêu quy hoạch phát triển các KCN; đẩy mạnh hoạt động, nâng

cao khả năng cạnh tranh và tăng hiệu quả hoạt động cho các DN; thu hút được các
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài vào KCN. Yêu cầu đặt ra đối với các chính
sách, cần phải :
(1) Linh hoạt và có sự khác biệt đối với từng vùng, miền, từng khu vực khác
nhau trong quá trình thực hiện xây dựng KCN.
(2) Có sự phân biệt đối với từng loại KCN và các khu vực khác nhau trong đó
lưu ý đến yếu tố lịch sử của quá trình hình thành KCN, để có những tác động phù
hợp.
- 21 -
(3) Có sự thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của KCN và tưng xứng với
hoạt động phát triển kinh tế khác. Để bảo đảm tính bền vững và hiệu quả trong hoạt
động, cần phải lưu ý đến những điều kiện cụ thể cho việc thành lập, nhất là sự ra đời
của những khu công nghệ cao. Mặt khác, phải có những quy định cụ thể về trình tự
xây dựng các khu công nghiệp theo hướng giải quyết được vấn đề môi trường trước.
1.2 Một số nội dung cơ bản về khu kinh tế và khu kinh tế mở :
1.2.1 Khu kinh tế: là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường
đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác
định, được thành lập theo quy định của Chính Phủ.
1.2.2 Khu kinh tế mở:
Đề án xây dựng Khu kinh tế mở Chu Lai nêu rõ : “Khu kinh tế mở là một bộ
phận lãnh thổ thuộc chủ quyền của Việt Nam, có ranh giới xác định, được vận hành
bằng khung pháp lý riêng với những cơ chế chính sách đặc biệt về kinh tế, có sự
giao lưu thông thường với nước ngoài và có sức hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư
trong và ngoài nước, có cơ chế quản lý hành chính tinh gọn, một cửa, mở rộng
quyền tự do kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
Khu kinh tế mở Chu Lai được thành lập nhằm mục tiêu : áp dụng các thể chế,
cơ chế chính sách mới, môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, phù hợp với thông
lệ quốc tế cho các loại hình kinh doanh của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước,
qua đó có thêm kinh nghiệm cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; Áp
dụng các mô hình, động lực mới cho phát triển kinh tế, khắc phục những vướng

mắc trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế hiện hành trong khi chưa có điều
kiện thực hiện trên phạm vi cả nước; Phát triển sản xuất, tạo ra những sản phẩm có
chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng thị trường
ra thế giới; Tạo việc làm, thúc đẩy công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực; Khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý kinh tế và chính trị
trong giao thương, dịch vụ quốc tế và trong nước để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Quảng Nam, góp phần tạo động lực kinh tế - xã hội cho toàn khu vực miền
- 22 -
Trung, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa khu vực này với các vùng khác trong cả
nước. Chính phủ Việt Nam khuyến khích và bảo hộ các tổ chức, cá nhân Việt Nam
thuộc mọi thành phần kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu
tư nước ngoài tham gia đầu tư và hoạt động tại khu kinh tế mở Chu Lai trong các
lĩnh vực : đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng và đô thị, phát triển công nghiệp, phát
triển đô thị, kinh doanh thương mại, dịch vụ, du lịch, giải trí, tài chính - ngân hàng,
vận tải, bảo hiểm, giáo dục đào tạo, y tế, nhà ở, xuất nhập khẩu hàng hoá và mọi
hoạt động sản xuất khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước
quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Ngoài những quyền được hưởng theo
quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết
hoặc gia nhập, các doanh nghiệp hoạt động trong khu kinh tế mở Chu Lai còn được
hưởng các quyền sau : Sử dụng các công trình kết cấu tầng, tiện ích công cộng, và
các dịch vụ phục vụ chung cho khu kinh tế mở Chu Lai như đường giao thông, bến
cảng, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, điện chiếu sáng, cung cấp điện, nước, thông tin liên
lạc theo giá thoả thuận với các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng; Được hưởng các
ưu đãi đầu tư quy định tại quy chế hoạt động của Khu kinh tế mở Chu Lai (ban
hành kèm theo QĐ số 108/2003/TTg ngày 05/06/2003 của Thủ tướng Chính phủ);
Được chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thời hạn
thuê đất, thuê lại đất theo quy định của pháp luật, phù hợp với mục đích sử dụng đất
của dự án đã được đầu tư; Được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất trong thời hạn thuê đất, thuê lại đất tại các tổ chức tín dụng hoạt động
tại Việt Nam và tại các tổ chức tín dụng nước ngoài theo các quy định của pháp

luật. Khu kinh tế mở Chu Lai được phát triển bằng các nguồn vốn chủ yếu sau :
Vốn ngân sách Nhà nước hỗ trợ xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng
cấp thiết nhất cho sự vận hành của khu kinh tế mở Chu Lai, vốn của doanh nghiệp
và dân cư trong nước, vốn nước ngoài…
Tổ chức hoạt động của khu kinh tế mở Chu Lai bao gồm hai khu : Khu phi
thuế quan và khu thuế quan. Khu phi thuế quan gắn với một phần cảng Kỳ Hà (Khu
- 23 -
cảng tự do), có hàng rào cứng ngăn cách với các khu vực xung quanh. Trong khu
phi thuế quan không có khu dân cư; Khu thuế quan là khu vực còn lại của khu kinh
tế mở Chu Lai. Trong khu thuế quan có các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu giải
trí đặc biệt, khu du lịch, khu dân cư và hành chính.
1.2.3 Đặc khu kinh tế: là mô hình đặc thù của chính sách mở cửa nền kinh tế
Trung Quốc. Đặc khu kinh tế được hiểu là khu vực mà quốc gia dành ra một phạm
vi nhất định trong hoạt động kinh tế đối ngoại thực hành chính sách kinh tế đặc thù.
Chính sách kinh tế đặc thù này bao gồm đặc khu thực hành nhiều hình thức kinh tế
cùng tồn tại, cùng lấy trong ngoài hợp doanh kinh tế làm chính. Việc xây dựng đặc
khu kinh tế lấy việc thu hút và lợi dụng đầu tư nước ngoài làm chính, sản phẩm xuất
khẩu làm chính, hoạt động kinh tế của đặc khu kinh tế lấy việc điều tiết thị trường
làm chính, đặc khu kinh tế được hưởng sự đãi ngộ tối huệ về miễn giảm thuế quan
trong mậu dịch đối ngoại.
1.3 Vốn đầu tư và sự cần thiết phải thu hút vốn đầu tư :
1.3.1 Khái niệm vốn đầu tư và hoạt động đầu tư :
Theo quan điểm kinh tế thị trường thì vốn đầu tư là giá trị của những tài khoản
mà cá nhân, công ty hoặc nhà nước bỏ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
mục đích thu được lợi nhuận trong tương lai. Như vậy vốn đầu tư là toàn bộ giá trị
của đầu tư để tạo ra những tài sản nhằm mục tiêu lợi nhuận trong tuơng lai.
Hơn nữa trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc sử dụng tài sản trong thời
gian dài thì dễ bị hao mòn và do nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh
cần thiết phải có sự gia tăng về tài sản nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù
đắp hao mòn tài sản và gia tăng tài sản mới. Quá trình này được tiến hành bằng vốn

đầu tư thông qua hoạt động đầu tư.
Như vậy, hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực
sản xuất đã bị hao mòn và tạo ra năng lực sản xuất mới, đây chính là quá trình
chuyển hoá vốn thành các tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất.
- 24 -
1.3.2 Sự cần thiết phải thu hút vốn đầu tư :
Thu hút vốn đầu tư là những hoạt động nhằm khai thác, huy động các nguồn
vốn đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế. Thu hút vốn
đầu tư có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế địa phương,
quốc gia, thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản sau :
- Thu hút đầu tư góp phần tạo tăng trưởng kinh tế. Đầu tư là yếu tố cấu thành
chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng cầu, chủ yếu là cầu về tư liệu sản xuất. Hoạt động
đầu tư diễn ra sẽ làm gia tăng tổng cầu, từ đó góp phần gia tăng tiêu thụ các hàng
hoá dịch vụ được sản xuất ra từ nền kinh tế, cũng như kích thích năng lực sản xuất
của nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu từ hoạt động đầu tư. Đầu tư có tác động trực
tiếp đến tổng cung và về dài hạn nó quyết dịnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Mô hình kinh tế Harrod - Dorma nghiên cứu hệ số ICOR đã chỉ ra rằng : Đầu
ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, ngành hay toàn bộ nền kinh tế quốc gia sẽ phụ
thuộc vào tổng số vốn đầu tư đơn vị đó. Như vậy, kết quả của quá trình thu hút vốn
đầu tư sẽ làm gia tăng vốn sản xuất, tức tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế dưới
dạng tài sản cố định và hàng tồn kho. Sự thay đổi này thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
theo hướng tác động đến tổng cung của nền kinh tế .
- Thu hút vốn đầu tư có vai trò quyết định đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của các quốc gia, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu sở
hữu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thực hiện thông qua các hoạt động đầu tư
nhiều ít khác nhau tuỳ theo nhu cầu phát triển và chính sách đầu tư của nhà nước
đối với từng ngành, vùng, thành phần kinh tế.
- Đầu tư tạo cơ hội cho các doanh nghiệp và quốc gia đổi mới công nghệ,
hiện đại hoá quá trình sản xuất, thực hiện chiến lược “đi tắt đón đầu” trong điều
kiện cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.

1.3.3 Phân loại các nguồn vốn đầu tư :
1.3.3.1 Các nguồn vốn đầu tư trong nước :
- 25 -
- Đầu tư từ ngân sách nhà nước : đây là nguồn chi của ngân sách cho đầu tư
theo nguyên tắc cấp phát không hoàn lại, hướng ưu tiên chủ yếu của nguồn này là
dành cho các dự án đầu tư công cộng, kết cấu hạ tầng, phát triển các ngành kinh tế
mũi nhọn, phát triển nguồn nhân lực hoặc đầu tư cho các ngành, vùng hay khu vực
khó khăn.
- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước : về bản chất cũng giống như
đầu tư từ ngân sách nhà nước nhưng theo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Hướng ưu
tiên chủ yếu của nguồn này là dành cho các dự án thuộc các chương trình phát triển
ưu tiên của quốc gia và trong nhiều trường hợp được huy động từ vay nước ngoài .
- Đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước : được hình thành từ nguồn lợi
nhuận sau thuế, các quỹ không chia, hoặc đi vay của các định chế tài chính. Quy mô
nguồn đầu tư này phụ thuộc nhiều vào chiến lược phát triển doanh nghiệp nhà nước
của từng quốc gia.
- Đầu tư từ khu vực liên doanh : nguồn này hoàn toàn do thành phần kinh tế
liên doanh tự quyết định. Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, nguồn đầu tư
liên doanh có vai trò to lớn và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng vốn đầu tư
xã hội.
1.3.3.2 Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài :
- Viện trợ phát triển chính thức (ODA) : nguồn vốn ODA là các khoản viện trợ
không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi dưới hình thức hỗ trợ phát triển chính thức. Đây
là nguồn vốn phát triển do Chính phủ nước ngoài hoặc các tổ chức quốc tế cung cấp
cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy, hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế và
phúc lợi xã hội của các nước này.
- Viện trợ các tổ chức phi chính phủ (NGO) : là các viện trợ không hoàn lại,
chủ yếu là viện trợ vật chất với mục tiêu nhân đạo, quy mô nguồn vốn này khá nhỏ.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) : đây là hình thức nước chủ nhà cho
phép tư nhân, các công ty nước ngoài dùng vốn của họ thực hiện hoạt động đầu tư

tại lãnh thổ nước chủ nhà, đây là nguồn vốn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với

×