Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

đề phân tích mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.38 KB, 11 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, Pháp luật và Đạo đức đều là những bộ phận của hình
thái ý thức xã hội. Giữa chúng thường xuyên có những mối quan hệ, tác động
qua lại đan xen lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau cho dù bản thân chúng có những
điểm riêng biệt. Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của xã hội trong tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học, pháp luật thì mức độ đan xen, tác
động qua lại giữa Pháp luật và Đạo đức ngày càng có những sự ảnh hưởng lẫn
nhau đúng như quan niệm của Đảng ta "Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng
thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức". Để nắm rõ hơn mối quan hệ này, em
đã lựa chọn đề tài “Phân tích mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và
chuẩn mực đạo đức”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Chuẩn mực pháp luật:
Tính chuẩn mực của pháp luật nói lên những giới hạn cần thiết mà nhà nước
quy định để mọi chủ thể có thể xủa sự một cách tự do trong khuôn khổ cho
phép, thường biểu hiện dưới dạng “cái có thể”, “cái được phép”,…Vượt qua
khỏi phạm vi, giới hạn đó là vi phạm pháp luật. Không thể có chuẩn mực pháp
luật chung chung, trừu tượng, mà nó phải được thể hiện thành các quy tắc, yêu
cầu cụ thể, dưới dạng các quy phạm pháp luật. Chuẩn mực pháp luật là các quy
tắc điều chỉnh hành vi, bởi vậy nếu không đặt ra các quy phạm pháp luật thì sẽ
không có căn cứ pháp lý để đánh giá hành vi nào là hợp lý và hành vi nào là bất
hợp pháp.
Chuẩn mực pháp luật được thực hiện chừng nào nó còn phù hợp với các quan
hệ xã hội và các lợi ích của giai cấp thống trị nảy sinh từ các quan hệ xã hội này.
Chuẩn mực pháp luật nào không còn phản ánh đúng các quan hệ xã hội nữa thì
[1]
nhà nước tước mấy của nó sức mạnh hoặc thay đổi nó về mặt hình thức. Nếu
chuẩn mực pháp luật thể hiện nhu cầu xã hội đứng đằng sau nó là chính quyền
nhà nước với nhiệm vụ bảo vệ các quan hệ xã hội thống trị; phù hợp với các
quan hệ xã hội ấy, chuẩn mực tạo thành hành vi phù hợp với pháp luật, tức là
cưỡng bức tuân theo nó. Sự thực hiện phổ biến tương ứng với các quan hệ xã hội


thống trị đồng thời cũng là tính chuẩn mực. Các cơ quan thực hiện, áp dụng
pháp luật thường quy định nội dung của một chuẩn mực pháp luật nhất định
bằng con đường giải thích tương ứng với các quan hệ mới, trong khi các quan hệ
mới về cơ bản lại được phản ánh cả trong lập pháp một cách thích hợp. Như vậy
tính hiệu lực của chuẩn mực pháp luật dựa trên không chỉ ý chí, mà trên cả thực
tế xã hội, không chỉ trong sự xuất hiện chuẩn mực pháp luật, mà cả trong tiếp
tục thực hiện chuẩn mực pháp luật đó nữa.
II. Chuẩn mực đạo đức:
Chuẩn mực đạo đức là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi với hành vi xã
hội của con người, trong đó xác lập những quan điểm, quan điểm chung về
công bằng và bất công, về cái thiện và cái ác, về lương tâm, danh dự, trách
nhiệm và những phạm trù khác thuộc đời sống đạo đức tinh thần của xã hội.
Các đặc điểm của chuẩn mực đạo đức:
- Chuẩn mực đạo đức là loại chuẩn mực xã hội bất thành văn, nghĩa là các
quy tắc, yêu cầu của nó không được ghi chép thành văn dưới dạng một “bộ luật
đạo đức” nào cả, mà nó tồn tại dưới dạng một hình thức là những giá trị đạo
đức, những bài học về luân thường đạo lý, phép đối nhân xử thế giữa con người
với nhau trong xã hội. Chuẩn mực đạo đức thường được củng cố, tiếp thu và lưu
truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Chuẩn mực đạo đức mang tính giai cấp, mặc dù tính giai cấp của nó không
thể hiện mạnh mẽ, rõ nét như tính giai cấp của chuẩn mực pháp luật. Tính giai
[2]
cấp của chuẩn mực đạo đức thể hiện ở chỗ, nó được sinh ra cũng là nhằm củng
cố, bảo vệ hay phục vụ cho các nhu cầu, lợi ích vật chất, tinh thần của giai cấp
này hay giai cấp khác trong một xã hội nhất định.
- Chuẩn mực đạo đức được đảm bảo tôn trọng và thực hiện trong thực tế xã
hội là nhờ vào hai nhóm các yếu tố: các yếu tố chủ quan và các yếu tố khác
quan.
+ Các yếu tố chủ quan là các yếu tố tồn tại, thường trực trong ý thức, quan
điểm của mỗi cá nhân, chi phối và điều khiển hành vi đạo đức của họ gồm: một

là những thói quen, nếp sống trong sinh hoạt hang ngày của mỗi con người; hai
là sự tự nguyện, tự giác của mỗi con người trong việc thực hiện hành vi đạo đức
phù hợp với các quy tắc của chuẩn mực đạo đức; ba là sức mạnh nội tâm chi
phối bởi lương tâm của mỗi người.
+ Các yếu tố khách quan là những yếu tố tồn tại bên ngoài ý thức của mỗi
người, nhưng lại luôn giữ vai trò chi phối, điều chỉnh hành vi đạo đức của họ;
hoặc ít nhất cũng tác động đến việc tuân thủ chuẩn mực đạo đức, gồm: một là
ảnh hưởng của các thuần phong mỹ tục trong xã hội, hành vi hợp đạo đức của
những người xung quanh tới ý thức và hành vi đạo dức của mõi cá nhân; hai là
sức mạnh của dư luận trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi đạo đức của
con người.
- Chuẩn mực đạo đức được sinh ra từ sự mâu thuẫn được quy định về mặt vật
chất giữu các lợi ích chung và lợi ích riêng, từ sự thể hiện cái hiện có và cái cần
có, nó thể hiện năng lực của con người đối với sự hoàn thiện và phát triển năng
lực, nhân cách của mình.
III. Mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức:
1. Điểm giống và khác nhau giữa đạo đức và pháp luật.
[3]
Đạo đức và pháp luật có sự giống nhau ở 3 điểm sau:
- Thứ nhất, pháp luật và đạo đức đều gồm những quy tắc xử sự chung để
hướng dẫn cách xử sự cho mọi người trong xã hội hay gồm nhiều những quy
phạm xã hội cho nên chúng có các đặc điểm của các quy phạm xã hội là:
+ Chúng là khuôn khổ những khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫn cách xử
sự cho mọi người trong xã hội, để bất kỳ ai khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh do
chúng dự liệu thì đều phải xử sự theo cách thức mà chúng đã nêu ra. Căn cứ vào
pháp luật, đạo đức, các chủ thể sẽ biết mình được làm gì, không được làm gì và
làm như thế nào khi ở vào một điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
+ Chúng là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con
người. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, các quy tắc đạo đức, có thể xác
định được hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào là hợp đạo đức, hành vi nào là

trái pháp luật, hành vi nào là trái đạo đức.
+ Chúng được đặt ra không phải cho một chủ thể cụ thể hay một tổ chức, cá
nhân cụ thể đã xác định được mà là cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ
xã hội do chúng điều chỉnh.
- Tính tương đồng phổ biến thứ hai giữa pháp luật đạo đức là tính phổ biến
và xu hướng phù hợp với xã hội. Đạo đức và pháp luật mang tính quy phạm phổ
biến, chúng đều là khuôn mẫu chuẩn mực trong hành vi của con người. Chúng
tác động đến các cá nhân tổ chức trong xã hội, tác động đến hầu hết các lĩnh vực
trong đời sống. Để có phạm vi ảnh hưởng lớn như vậy, pháp luật và đạo đức
phải có sự phù hợp với các tiêu chuẩn nhất định.
- Thứ ba, pháp luật và đạo đức đều phản ánh sự tồn tại của xã hội trong
những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Chúng là kết quả của quá trình
[4]
nhận thức đời sống của chính mình. Pháp luật và đạo đức đều chịu sự chi phối,
đồng thời tác động lại đời sống kinh tế xã hội.
- Thứ tư, chúng được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống vì chúng
được ban hành ra không phải để điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể, một
trường hợp cụ thể mà để điều chỉnh một quan hệ xã hội chung, tức là một trường
hợp khi điều kiện hoàn cảnh do chúng dự kiến xảy ra.
Bên cạnh những điểm giống nhau, pháp luật và đạo đức còn có những điểm
khác nhau:
- Thứ nhất, về con đường hình thành nhà nước, pháp luật hình thành thông
qua hoạt động xây dựng pháp lý của nhà nước. Trong khi đó đạo đức được hình
thành một cách tự do nhận thức của cá nhân.
- Thứ hai, hình thức thể hiện của pháp luật và đạo đức. Hình thức thể hiện
của đạo đức đa dạng hơn với hình thức thể hiện của pháp luật, nó được biểu hiện
thông qua dạng không thành văn như văn hoá truyền miệng, phong tục tập
quán…và dạng thành văn như kinh, sách chính trị,…còn pháp luật lại biểu hiện
rõ ràng dưới dạng hệ thống của văn bản quy phạm pháp luật.
Xác định của hình thức văn bản thì đạo đức mang tính chung, định hướng

còn pháp luật thì cụ thể, rõ ràng. Đạo đức chỉ nhằm định hướng cho con người
nên con người cần tự tìm tòi khám phá và qua dư luận mà điều chỉnh hành vi
một cách cụ thể.
- Thứ ba, đạo đức có nguồn gốc giá trị lâu dài, khi con người ý thức hành vi
tự do sẽ điều chỉnh hành vi đó. Do sự điều chỉnh đó xuất phát từ tự thân chủ thể
nên hành vi đạo đức có tính bền vững. Ngược lại, pháp luật là sự cưỡng bức, tác
động bên ngoài, dù muốn hay không người đó cũng phải thay đổi hành vi của
[5]
mình. Sự thay đổi này có thể là không bền vững vì nó có thể lập lại nơi này hay
nơi khác nếu vắng bóng pháp luật.
- Thứ tư, về biện pháp thực hiện, pháp luật đảm bảo rằng nhà nước thông qua
bộ máy cơ quan như cơ quan lập pháp, tư pháp,…còn đạo đức lại được đảm bảo
bằng dư luận và lương tâm của con người.
- Thứ năm, pháp luật có tính quyền lực nhà nước, nó chỉ do nhà nước đặt ra
hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp quyền lực nhà nước, từ
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục cho đến áp dụng các biện pháp
cưỡng chế của nhà nước. Trong khi đó, đạo đức được hình thành một cách tự
phát trong xã hội, được lưu truyền từ đời này sang đời khác theo phương thức
truyền miệng; được đảm bảo bằng thói quên, bằng dư luận xã hội, bằng lương
tâm, niềm tin của mỗi người và bằng biện pháp cưỡng chế phi nhà nước.
- Thứ sáu, pháp luật có tác động tới mọi tổ chức và cá nhân có liên quan
trong xã hội, còn đạo đức tác động tới các cá nhân trong xã hội.
- Thứ bẩy, pháp luật có những quan hệ xã hội, điều chỉnh còn đạo đức không
điều chỉnh.
- Thứ tám, pháp luật có tính hệ thống, bởi vì nó là một hệ thống các quy tắc
xử sự chung đề điều chỉnh mọi loại quan hệ xã hội phát sinh trong những lĩnh
vực khác nhau của đời sống như dân sự, kinh tế, lao động,…song các quy phạm
đó không tồn tại một cách độc lập mà giữ chúng có mối quan hệ nội tại thống
nhất với nhau để tạo nên một chỉnh thể là hệ thống pháp luật. Ngược lại, đạo đức
không có tính hệ thống.

- Thứ chín, pháp luật luôn thể hiện ý chí của nhà nước. Đạo đức thường thể
hiện ý chỉ của một cộng đồng dân cư, ý chí chung của xã hội.
[6]
- Thứ mười, pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong những giai đoạn lịch sử nhất
định, giai đoạn có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp. Đạo
đức ra đời và tồn tại trong tất cả các giai đoạn phát triển của lịch sử.
2. Pháp luật và đạo đức có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại, ảnh
hưởng lẫn nhau.
a. Tác động của đạo đức tới pháp luật
Chuẩn mực đạo đức là nền tảng tinh thần để thực hiện các quy định của pháp
luật. Trong nhiều trường hợp, các cá nhân xã hội thực hiện một hành vi pháp
luật hợp pháp không phải vì họ hiểu các quy định của pháp luật, mà hoàn toàn
xuất phát từ các quy tắc của đạo đức. Nhiều quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi các chuẩn
mực đạo đức được nhà nước sử dụng và nâng lên thành quy phạm pháp luật. Khi
xây dựng và ban hành pháp luật, nhà nước không thể không tính tới các quy tắc
chuẩn mực đạo đức. Ví dụ như “Tội không tố giác tội phạm” (Điều 314 BLHS
năm 1999), nếu tội phạm đó không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc
tội đặc biệt nghiêm trọng thì nhà nước không truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị, em ruột, vợ hoặc chồng của người
phạm tội vì về mặt đạo đức và tâm lý, không ai muốn người thân mình dính vào
vòng tù tội.
- Đối với việc hình thành pháp luật:
+ Nhiều quan điểm đạo đức được thể chế hoá trong pháp luật, nhiều quy tắc
đạo đức phù hợp với ý chí của nhà nước được thừa nhận trong pháp luật qua đó
góp phần tạo nên pháp luật. Ví dụ như quan niệm, quy tắc đạo đức về mối quan
hệ thầy trò được thừa nhận trong giáo dục.
+ Những quan niệm, quy tắc đạo đức trái với ý chí của nhà nước sẽ trở thành
tiền đề để hình thành nên những quy phạm thay thế chúng, từ đó cũng góp phần
[7]
hình thành nên pháp luật. Ví dụ quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” trong

hôn nhân trước đây trở thành tiền đề để hình thành nên quy định hôn nhân là tự
nguyện trên cơ sở giữ tình yêu nam và nữ trong luật hôn nhân và gia đình.
- Đối với việc thực hiện pháp luật:
+ Những quan niệm, quy tắc đạo đức được thừa nhận trong pháp luật góp
phần làm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác hơn, bởi
vì chúng đã ngấm sâu vào tiềm thức của nhân dân nên ngoài những biện pháp
của nhà nước, chúng còn được đảm bảo thực hiện bằng thói quen, bằng lương
tâm và niềm tin của mỗi người, bằng dư luận của xã hội.
+ Ngược lại, những quan niệm, quy tắc đạo đức trái với ý chí của nhà nước
sẽ cản trở thực hiện pháp luật trong thực tế. Ví dụ quan niệm trọng năm khinh
nữ dẫn đến tình trạng một số người cố đẻ đến con thứ ba, thứ tư, tức là vi phạm
chính sách và pháp luật về dân số của nhà nước.
b. Tác động của pháp luật tới đạo đức
Trong một số trường hợp, định hướng đạo đức muốn được thực hiện một
cách phổ biến trong xã hội thì phải thông qua các quy phạm pháp luật để thể
hiện. Điều đó cho thấy ở một số khía cạnh nhất định pháp luật có ưu thế nổi trội
hơn so với chuẩn mực đạo đức. Pháp luật không chỉ là sự ghi nhận các chuẩn
mực đạo đức, mà còn là công cụ phương tiện bảo vệ chuẩn mực đạo đức một
cách hữu hiệu bằng các biện pháp, chế tài cụ thể. Pháp luật có vai trò to lớn
trong việc duy trì, bảo vệ và phát triển các quy tắc đạo đức phù hợp, tiến bộ
trong xã hội.
- Pháp luật có thể góp phần củng cố, phát huy vai trò, tác dụng thực tế của
các quan niệm, quy tắc đạo đức khi chúng phù hợp với ý chí của nhà nước và
được thừa nhận trong pháp luật, bởi vì ngoài việc đảm bảo thực hiện bằng lương
[8]
tâm, niềm tin, dư luận xã hội,…chúng còn được nhà nước đảm bảo thực hiện
bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước. Ví dụ như quy định cha mẹ
có nghĩa vụ yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con trong luật hôn
nhân và gia đình đã góp phàn củng cố, phát huy vai trò, tác dụng thực tế của
quan niệm, quy tắc đạo đức về vấn đề này.

- Ngược lại, pháp luật cũng có cũng có thể góp phần loại trừ, thanh toán dần
các quan niệm, quy tắc đạo đức trái với ý chí của nhà nước. Ví dụ quy định cấm
cưỡng ép kết hôn, tảo hôn trong luật hon nhân và gia đình góp phần loại bỏ quan
hệ đạo đức “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” trong hôn nhân.
IV. Liên hệ với Việt Nam.
Ở Việt Nam hiện nay, vị trí cũng như vai trò mối quan hệ của pháp luật và
đạo đức ngày càng được nhìn nhận đúng đắn, tích cực.
Pháp luật được xây dựng để trở thành công cụ quan trọng nhất của nhà nước
để quản lý các quan hệ xã hội. Tuy vậy đối với đời sống xã hội rộng lớn, phức
tạp thì còn cần có những công cụ phương tiện khác nữa, trong số đó đầu tiên
phải nhắc đến đạo đức. Chính vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Đảng ta đã khẳng định quan điểm: “Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi
trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.
- Do được nhà nước xây dựng dựa trên các quan diểm đạo đức của nhân dân,
pháp luật không những thể hiện được tư tưởng cách mạng, đạo đức truyền thống
dân tộc, đạo đức tiến bộ mà còn thể hiện được ý chí, nguyện vọng và hướng tới
lợi ích của nhân dân lao động. Hiến pháp năm 1992, Điều 2 quy định: “Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, vì nhân dân”.
[9]
- Đồng thời, pháp luật phản ảnh rõ nét tinh thần nhân đạo – tư tưởng đạo đức
cơ bản của nhân dân ta. Tính nhân đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam được
thể hiện rất rõ trong các quy định về các chính sách xã hội của nhà nước. Nhà
nước Việt Nam đã có nhiều chính sách ưu đãi, quan tâm đặc biệt tới các thương
binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, người già, trẻ em không nơi nương
tựa, người tàn tật.
- Đạo đức trong xã hội đã thực sự hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện cho pháp luật,
tạo điều kiện cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống. Nhà
nước ta thừa nhận tập quán có thể thay thế pháp luật trong những trường hợp
pháo luật chưa quy định và nội dung tập quán không trái với quy định của pháp

luật. Ở chiều ngược lại, pháp luật đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và
phát huy các quan niệm đạo đức tốt đẹp, hình thành những tư tưởng đạo đức tiến
bộ, ngăn chặn sự thoái hoá xuống cấp của đạo đức, loại trừ những tư tưởng đạo
đức cũ, lạc hậu. Trong chừng mực nhất định, nhà nước pháp luật hoá các quy
phạm, nguyên tắc đạo đức hình thành quy phạm pháp luật – những quy tắc xử sự
tương đối cụ thể cho các chủ thể trong xã hội, xác định rõ hành vi được phép
thực hiện, các hành vi buộc phải thực hiện, các hành vi bị ngăn cấm.
- Bên cạnh đó, trong một số trường hợp thì ranh giới điều chỉnh giữa đạo đức
và pháp luật chưa rõ ràng hay sự pháp luật hoá các quy tắc các quan niệm đạo
đức không cụ thể dẫn đến khó ứng dụng vào cuộc sống. Chẳng hạn, Bộ luật dân
sự quy định, các giao dịch dân sự không được trái với đạo đức xã hội. Trên thực
tế, đánh giá một hành vi nào đó là trái hay không với đạo đức xã hội, không phải
là vấn đề đơn giản, cùng một hành vi nhưng có thể có các đánh giá khác nhau,
thậm chí đối lập nhau.
- Trong xã hội nhiều quan niệm, tư tưởng, đạo đức cổ hủ, lạc hậu vẫn còn tồn
tại mà chưa bị ngăn chặn đúng mức cần thiết. Ví dụ như tư tưởng gia trưởng,
[10]
thói cá nhân chủ nghĩa, tư tưởng địa vị, đẳng cấp, trọng nam khinh nữ,…vẫn có
ảnh hưởng không nhỏ trong đại bộ phận dân cư.
- Cuối cùng, đạo đức trong xã hội xuống cấp là nguyên nhân chính làm gia
tăng các vi phạm pháp luật cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng: người dân,
cán bộ, công chức nhà nước… Nguyên nhân cơ bản là sự nhận thức không đúng
đắn về vai trò của dạo đức, nhất là đạo đức truyền thống.
Nói tóm lại, giữa pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ qua lại, tác động
lẫn nhau, cả hai đều có vai trò trong sự điều chỉnh hành vi con người, hướng tới
chân – thiện - mỹ. Đồng thời góp phần vào sự ổn định và đảm bảo cho sự phát
triển của xã hội và cộng đồng.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Từ những điều đã nói ở trên, có thể thấy được chuẩn mực pháp luật và đạo
đức có những điểm chung và đồng thời cũng có những khác biệt riêng. Đạo đức

và pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau.
Một xã hội có nền tảng đạo đức tốt sẽ là cơ sở để pháp luật được thực hiện
nghiêm chỉnh và tự giác. Mặt khác, pháp luật nghiêm sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc
giữ gìn, phát triển nền đạo đức xã hội tốt đẹp!
[11]

×