Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái lai f1 (yorkshire x landrace) và lợn nái lai f1 (landrace x yorkshire) được phối tinh lợn đực f1 (pietrain x duroc) ở trại lợn vĩnh tân II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.16 KB, 45 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, nông nghiệp là ngành sản xuất chính của đại đa số người dân.
Trong đó, sản xuất chăn nuôi là nghành kinh tế quan trọng. Chăn nuôi lợn đóng
vai trò không thể thiếu trong việc đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho người tiêu
dùng. Thịt lợn là loại thực phẩm mang giá trị dinh dưỡng cao, 100g thịt lợn nạc
chứa 370 kcal và 22% protein, mùi vị thịt lợn còn hợp khẩu vị đối với nhiều đối
tượng tiêu dùng nên được sử dụng rộng rãi.
Các giống lợn nội của nước ta có khả năng thích nghi rất tốt với điều kiện
chăn nuôi của Việt Nam. Tuy nhiên năng suất thấp, tỷ lệ mỡ cao không đáp ứng
được nhu cầu. Đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu ăn no mặc
ấm của ngày xưa được thay bằng nhu cầu ăn ngon mặc đẹp, vì thế mà những
giống lợn của địa phương đang dần được thay bởi giống lợn cao sản có khả năng
tăng trọng và tỷ lệ nạc cao.
Từ những thập niên 60 của thế kỷ XX đến nay, nước ta đã nhập một số
giống lợn ngoại cao sản như: Yorkshire, Landrace, Hampshire, Duroc và Pietrain,
với mục đích cải tiến dần năng suất của đàn lợn nội, nuôi thuần hóa và nhân
rộng các giống lợn ngoại, để đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của thị trường.
Các tính trạng sinh sản là nhóm tính trạng quan trọng, là cơ sở khởi đầu để
nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, các tính trạng này thường có
hệ số di truyền thấp do vậy chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố ngoại cảnh.
Yorkshire và Landrace là hai giống sinh sản rất tốt. Chúng được chọn lọc
theo hướng năng suất sinh sản cao. Tổ hợp lai (Yorkshire x Landrace) và
(Landrace x Yorkshire) đã được sử dụng phổ biến trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng đóng vai trò làm nái nền cho phối giống với các giống lợn có khả
năng sản xuất thịt tốt nổi tiếng như Duroc, Pietrain, F1(Pietrain x Duroc), tạo ra
tổ hợp con lai thương phẩm có năng suất và chất lượng thịt tốt.
Mặc dầu vậy, do điều kiện khí hậu miền Nam nước ta là khí hậu nhiệt đới
nóng quanh năm, các giống nái ngoại chỉ sinh trưởng và phát triển bình thường
trong điều kiện chăn nuôi tại các trại kín, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt.


Xuất phát từ vấn đề này, được sự hướng dẫn của giáo viên, sự chỉ đạo của
khoa Chăn nuôi _ thú y, trường Đại học Nông Lâm Huế, cùng sự hỗ trợ của công
ty TNHH Đầu Tư Xây Dựng Vĩnh Tân, tôi tiến hành đề tài nghiên cứu:
1
“Đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái lai F
1
(Yorkshire x Landrace)
và lợn nái lai F
1
(Landrace x Yorkshire) được phối tinh lợn đực F
1
(Pietrain x
Duroc) ở trại lợn Vĩnh Tân II – huyện Tân Thành – tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài này chúng tôi thực hiện nhằm mục đích:
- Đánh giá năng suất sinh sản của tổ hợp lợn nái lai F
1
(Yorkshire x Landrace) và F
1
(Landrace x Yorkshire) trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp.
- Xác định được các tổ hợp lai phù hợp với điều kiện chăn nuôi của trang trại để tạo
ra lợn thương phẩm có năng suất, chất lượng cao.
- Đưa ra một số đề xuất để hạn chế mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến năng
suất sinh sản của lợn nái.
2
PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Sơ lược về địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Vị trí địa lý Bà Rịa – Vũng Tàu
Bà Rịa – Vũng Tàu là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Nam Bộ, phía

nam giáp Biển Đông, tiếp giáp các tỉnh Đồng Nai ở phía bắc, Thành phố Hồ Chí
Minh ở phía tây, và Bình Thuận ở phía đông.
Bà Rịa – Vũng Tàu có diện tích 1.982 km
2
, chiếm 0,6% diện tích tự nhiên
toàn quốc và 8,41 % diện tích tự nhiên vùng Đông Nam Bộ.
Bà Rịa – Vũng Tàu có 7 đơn vị hành chính: Thành phố Vũng Tàu, thị xã
Bà Rịa và 4 huyện trên đất liền: Châu Đức, Tân Thành, Xuyên Mộc và Long Đất.
Thềm lục địa rộng trên 100.000 km
2
.
Bà Rịa – Vũng Tàu là một trong những trung tâm kinh tế trọng điểm của
phía nam cùng với TP Hồ Chí Minh và Đồng Nai.
2.1.2. Đặc điểm địa hình
Bà Rịa – Vũng Tàu là một tỉnh với địa hình khá đa dạng có thể chia làm 4
vùng: Bán đảo, hải đảo, vùng đồi núi bán trung du và vùng thung lũng đồng bằng
ven biển. Bán đảo Vũng Tàu dài và hẹp diện tích 82,86 km
2
, độ cao trung bình 3-
4 m so với mặt biển. Hải đảo bao gồm quần đảo Côn Lôn và đảo Long Sơn.
Vùng đồi núi bán trung du nằm ở phía Bắc và Đông Bắc tỉnh phần lớn ở
huyện Tân Thành, Châu Đức, Xuyên Mộc. Ở vùng này có vùng thung lũng đồng
bằng ven biển bao gồm một phần đất của các huyện Tân Thành, Long Điền, Bà
Rịa, Đất Đỏ. Khu vực này có những đồng lúa nước, xen lẫn những vạt đồi thấp và
rừng thưa có những bãi cát ven biển.
2.1.3. Đặc điểm thời tiết khí hậu
Theo quan trắc của trạm khí tượng nông nghiệp thủy văn Vũng Tàu thì tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu có các thông số khí tượng thủy văn như sau: nhiệt độ không
khí trung bình là 26,8
o

C, nhiệt độ cao nhất 33
o
C, nhiệt độ thấp nhất 20,1
o
C. Nhìn
chung không có sự sai lệch lớn về biên độ dao động nhiệt độ ngày/đêm trong cả
năm, độ chênh lệch trung bình giữa các tháng nóng nhất (tháng 4) và tháng lạnh
nhất (tháng 12) khoảng 3,6 - 4
o
C.
3
Độ ẩm không khí thay đổi theo mùa. Trong các tháng mùa mưa độ ẩm
trung bình 86,8%, có tháng đạt đến 90% (tháng 9). Trong thời gian mùa khô độ
ẩm bình quân 76%, có tháng chỉ khoảng 73% (tháng 3). Các tháng có độ ẩm trung
bình cao nhất là từ tháng 8 đến tháng 10 và nhỏ nhất từ tháng 1 đến tháng 3.
Trong ngày độ ẩm không khí biến thiên nghịch với nhiệt độ, thấp nhất khoảng 13
– 14 giờ, cao nhất vào lúc 7 giờ sáng.
Mùa mưa của vùng bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa cao nhất
vào các tháng 7, tháng 10. Lượng mưa trung bình năm là 1.300 mm, cao nhất là
1.700 mm.
Lượng bốc hơi: bình quân năm là 39,8 mm, cao nhất vào mùa khô từ tháng
11 đến tháng 4 năm sau.
Mùa khô gió Đông hoặc Đông Bắc, ảnh hưởng không khí lạnh miền Bắc,
lạnh về đêm và sáng tốc độ gió không lớn (1 - 5 m/s). Mùa khô gió Tây hoặc Tây
Nam vận tốc từ 3- 5 m/s. Ngoài ra khu vực trại còn chịu ảnh hưởng gió Đông
hoặc Đông Nam, tương đối ẩm vào mùa khô (tháng 10, 3) có lúc mạnh lên đến
cấp 6 - 7 (vận tốc 11 - 17m/s) [34].
2.2. Một vài nét về trại lợn Vĩnh Tân II
2.2.1. Tọa độ, vị trí địa lý
Tọa độ địa lý trung tâm khu đất theo hệ tọa độ Việt Nam 2000: kinh tuyến

Trung ương là 107
0
45’, mốc chiếu 3 độ như sau: X: 1080254,582 m và Y:
435061,662 m.
Vị trí địa lý: Trại được xây dựng trên vùng đất thuộc ấp Sông Xoài 2 – xã
Sông Xoài – Tân Thành – tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu [34].
- Giới thiệu sơ lược về trại lợn Vĩnh Tân II
Trại lợn Vĩnh Tân II, là một trại lợn nái có quy mô tổng đàn tầm cỡ trong
khu vực Nam Trung Bộ nói riêng và nước ta nói chung với quy mô 2800 lợn nái.
Trại được thành lập vào tháng 05/2009, là một thành viên trực thuộc công ty
TNHH Đầu Tư Xây Dựng Vĩnh Tân. Một trong những khách hàng lớn nhất của
công ty CP Việt Nam. Hệ thống chuồng trại xây dựng theo mô hình chăn nuôi
khép kín theo thiết kế của tập đoàn CP Việt Nam. Thức ăn, con giống, quy trình
chăn nuôi tiên tiến của tập đoàn CP Việt Nam, sở hữu một đội ngũ cán bộ kĩ
thuật, công nhân tâm huyết và lành nghề.
4
2.2.2 Quy mô trại
Trại với tổng diện tích 15 ha nằm trên một khu đất khá cao ráo và rất thuận
tiện cho vận chuyển xuất nhập lợn, bao gồm: 4 trại mang thai mỗi trại có 530 ô cá
thể và 6 ô lớn để nhốt lợn đực giống và lợn nái có vấn đề; 1 trại chờ phối có 229 ô
nhốt cá thể và 16 ô rộng nhốt lợn đực giống, thử lợn nái lên giống; 1 trại đực
giống có 36 ô rộng để nhốt lợn đực giống; 6 trại đẻ mỗi trại có 120 ô chuồng, 2
trại cách ly, mỗi trại có 16 ô chuồng mỗi ô nuôi 10 cá thể lợn nái hậu bị. Trại cai
sữa có 5 trại cai sữa nền và 4 trại cai sữa đan. Ngoài ra còn có các hạng mục xây
dựng khác như nhà sát trùng, sân bóng chuyền, khu nhà ở công nhân, nhà ăn, văn
phòng làm việc hệ thống điện nước trong trại …
2.2.3 Nhiệm vụ của trại
Trại có nhiệm vụ giống như một cỗ máy chuyên sản xuất cung cấp lợn nuôi
thịt thương phẩm cho các trại trực thuộc Công ty đặt tại tỉnh Bình Dương với quy
mô 7200 lợn thịt. Ngoài ra trại còn cung cấp lợn thương phẩm chất lượng cao cho

các cơ sở chăn nuôi trong tỉnh và các vùng lân cận, cung cấp lợn thịt chất lượng
cao cho thị trường.
2.2.4 Cơ cấu tổ chức nhân sự của trại
Tổng số nhân sự cho trại lợn Vĩnh Tân II có 90 người (85 người chính thức
và 05 người dự phòng), trong đó:
+ Giám đốc trại: 01 người
+ Giám đốc kỹ thuật: 01 người
5
+ Phó giám đốc: 04 người
+ Văn phòng: 02 người
+ Trại mang thai và trại cách ly: 18 người (05 tổ trưởng, 13 CN)
+ Trại nọc và trại chờ phối: 06 người ( 01 tổ trưởng, 05 CN)
+ Trại đẻ: 24 người (03 tổ trưởng, 01 tổ phó, 20 CN)
+ Trại cai sữa: 09 người (02 tổ trưởng, 07 CN)
+ Nhà bếp: 03 người (01 tổ trưởng, 02 CN)
+ Kỹ thuật điện và bảo trì: 02 người
+ Tài xế: 02 người
+ Bảo vệ: 03 người
+ Lao động làm ngoài: 04 người
2.3 Tình hình chăn nuôi lợn Việt Nam
2.3.1. Hiện trạng ngành chăn nuôi Lợn và hướng phát triển
2.3.1.1 Tổng số đầu lợn ( 6 tháng đầu năm 2010)
Theo số liệu thống kê tại thời điểm 01/4/2010, cả nước có 27,3 triệu con,
tăng 3,06% so với cùng kỳ năm 2009. Các vùng có số đầu lợn nhiều là vùng
ĐBSH có 7,2 triệu con, chiếm 27,1% tổng đàn lợn trong cả nước, Đông Bắc 4,6
triệu con, chiếm 17,3%, ĐBSCL 3,6 triệu con, chiếm 13,6%, Bắc Trung Bộ 3,4
triệu con, chiếm 12,9%, ĐNB 2,5 triệu con, chiếm 9,3%, DHNTB 2,4 triệu con,
chiếm 9,0% [16].
Các tỉnh có số đầu lợn lớn trên 1 triệu con tại thời điểm 01/4/2010 là Hà
Nội, Đồng Nai, Nghệ An, Thái Bình, Bắc Giang.

2.3.1.2. Số đầu lợn nái
Tổng đàn lợn nái thời điểm 01/4/2010 là 4,18 triệu con (chiếm 15,3% tổng
đàn), tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2009.
Các vùng có số lượng lợn nái nhiều là ĐBSH có khoảng 1,18 triệu con,
chiếm 28,4% tổng số lợn nái trong cả nước, Đông Bắc khoảng 643 ngàn con,
chiếm 15,4%; Bắc Trung Bộ khoảng 590 ngàn con, chiếm 14,1%; Đồng bằng
sông Cửu Long khoảng 513 ngàn con, chiếm khoảng 12,3% [16].
2.3.1.3. Sản lượng thịt lợn hơi
Theo ước tính của Cục Chăn nuôi, mỗi tháng cả nước sản xuất và tiêu thụ
khoảng 290-300 ngàn tấn thịt lợn hơi. Dự báo, tổng sản lượng thịt lợn hơi xuất
chuồng sản xuất trong 06 tháng đầu năm 2010 khoảng 1,77 triệu tấn, tăng khoảng
6
3,5% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, các vùng sản xuất thịt lợn có tỷ trọng
lớn nhất lần lượt là: Đồng bằng sông Hồng khoảng 29%; Đồng bằng sông Cửu
Long khoảng 18%; Đông Nam Bộ khoảng 12%.
Duy trì mức tăng trưởng giá trị ngành chăn nuôi đạt trung bình/năm qua
các giai đoạn như sau : 2010 - 2015 tăng 6,5 - 7%: 2015 - 2020: 5,5 - 6%. Sản
lượng thịt xẻ các loại dự kiến tiến độ qua các giai đoạn phát triển: Năm 2015 là:
4.309 ngàn tấn (trong đó thịt lợn 2.797 ngàn tấn (65%); thịt gia cầm 1.326 ngàn
tấn (32%); thịt trâu bò: 144 ngàn tấn (3%); năm 2020 là: 5.521 ngàn tấn (trong đó
thịt lợn 3.493 ngàn tấn (chiếm 63%); thịt gia cầm 1 .779 ngàn tấn (32%); thịt trâu
bò 200 ngàn tấn (4%).
Theo xu hướng tiêu dùng hiện nay, nhu cầu các loại thịt vẫn tăng cao trong
thời gian tới, đặc biệt thịt lợn vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất 63 - 65% trong tổng số các
loại thịt. Vì vậy ngành chăn nuôi lợn vẫn đóng một vai trò rất quan trọng cung cấp
thực phẩm trong tiêu dùng của chúng ta.
Với nhu cầu thực phẩm từng loại theo định hướng, đến năm 2020 có 3.493
ngàn tấn thịt lợn xẻ, chúng ta phải có đàn lợn thịt tương đương: 52.132 ngàn
con, đạt trọng lượng hơi 90 kg/con. Nếu không tính đến chăn nuôi trang trại
bình quân chia đều cho mỗi hộ gia đình nông dân phải nuôi 4,3 con lợn (ước

tính theo số hộ có đến 2020 là: 12 triệu hộ). Thực tế số hộ có chăn nuôi chỉ
chiếm 70% trong số hộ nông dân (Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có hơn
50% số hộ nông dân có chăn nuôi lợn).
Như vậy thực tế mỗi hộ chăn nuôi lợn phải nuôi 10 lợn thịt để xuất chuồng
được 6,2 lợn thịt đạt 90kg/con/năm [16].
Nếu phát triển được một trăm ngàn trang trại chăn nuôi lợn quy mô nhỏ (10
nái và 180 lợn thịt/hộ/năm), ước tính có 8,4 triệu hộ có chăn nuôi lợn, đến năm
2015 sẽ cung cấp cho xã hội được 18 triệu lợn thịt có chất lượng cao. Vậy với một
trăm ngàn mô hình này đến 2015 mỗi tỉnh phấn đấu để có bình quân 1.562 hộ mô
hình chăn nuôi quy mô nhỏ để có cơ sở phát triển lên quy mô chăn nuôi vừa và
lớn vào năm 2020. Như vậy cũng chỉ mới cung cấp được 50% nhu cầu. Dù chăn
nuôi trang trại đang trên đà phát triển, song cũng cần có những chính sách cho các
hộ chăn nuôi nghèo, chăn nuôi nhỏ lẻ ở các vùng nông thôn khác nhau, nếu
chương trình 100.000 hộ chăn nuôi quy mô nhỏ này được thực thi sẽ giúp hộ
nông dân tích lũy vốn, kinh nghiệm và nhận thức, từng bước chuyển dần qua chăn
nuôi lợn trang trại quy mô vừa và lớn. Đây là giải pháp đào tạo thực tế cho hướng
phát triển chăn nuôi trang trại cho người nông dân, chăn nuôi nhỏ lẻ. Chúng ta
không thể không tính đến tỷ lệ đóng góp sản phẩm chăn nuôi của bộ phận này
hiện chiếm khoảng 70% nhu cầu thực phẩm tiêu dùng của xã hội. Nhưng quan
trọng hơn cả là, chăn nuôi của bộ phận này chính là giải pháp xóa đói giảm nghèo
7
theo kiểu bỏ ống. Nếu chương trình 100.000 hộ chăn nuôi quy mô nhỏ này thực
thi sẽ giảm nghèo bằng chăn nuôi trang trại với cơ cấu HTX chăn nuôi kiểu mới
ra đời và các hình thức giết mổ, tiêu thụ theo một chuỗi sẽ hình thành, được
ngành hàng theo chuỗi dọc rộng lớn. Nếu có 100.000 hộ với mô hình chăn nuôi
quy mô nhỏ đến 2015, để đến năm 2020 sẽ có 25% số hộ chuyển lên chăn nuôi
vừa, quy mô 20 nái +360 lợn thịt và 25% nuôi 30 nái + 540 lợn thịt, cùng với số
trang trại đã có hiện nay sẽ cung cấp được 50% nhu cầu thịt lợn xẻ cho tiêu dùng,
50% còn lại từ các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ và các trang trại lớn.
Nhà nước cần có một chương trình hỗ trợ phát triển 100.000 hộ chăn nuôi

lợn quy mô trang trại nhỏ (10 lợn nái + 180 lợn thịt), tổ chức lại trong các HTX chăn
nuôi lợn kiểu mới nhằm thụ hưởng sự chuyển giao các kỹ thuật tiến bộ cho họ, trước
tiên chú ý đến đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải miền Trung, vùng khu 4 cũ,
Đồng bằng sông Hồng, Đông và Tây bắc Bắc bộ trong những năm đầu của định
hướng phát triển chăn nuôi này, nhằm có mô hình chăn nuôi trang trại quy mô nhỏ
phổ cập để tiến lên phát triển chăn nuôi lợn trang trại quy mô vừa và lớn bền vững
góp phần từng bước công nghiệp hóa ngành chăn nuôi lợn ở nước ta.
2.3.2. Phương thức chăn nuôi
Phương thức chăn nuôi khác nhau phản ánh điều kiện kinh tế và trình độ
chăn nuôi của từng hộ gia đình, từng đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi vùng. Hiện
nay ở nước đang tồn tại ba dạng phương thức.
2.3.2.1. Chăn nuôi nông hộ
Chăn nuôi nông hộ vẫn đã và đang là phương thức chăn nuôi phổ biến nhất
nước ta, chiếm khoảng 75 – 80%. Đặc trưng của phương thức này là quy mô nhỏ
lẻ chăn nuôi từ 1-10 con và nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương như các sản
phẩm nông nghiệp, phế phụ phẩm của ngành chế biến sản phẩm nông nghiệp là
thức ăn cho lợn. Con giống chủ yếu là giống địa phương hoặc giống có tỷ lệ máu
nội cao (F1: ngoại x nội) có năng suất và giá trị chăn nuôi thấp, khả năng cung
ứng thị trường của sản phẩm không cao. Đồng thời việc chăn nuôi nhỏ lẻ phân tán
gây khó khăn cho việc quản lý con giống, vận chuyển, mua bán, giết mổ, … gây
nên những rủi ro về con giống, dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm, ô nhiễm
môi trường, … Phương thức chăn nuôi nông hộ đang có xu hướng giảm dần và
được thay thế bằng chăn nuôi gia trại.
2.3.2.2. Chăn nuôi gia trại
Chăn nuôi gia trại là phương thức chăn nuôi có sự kết hợp giữa kinh
nghiệm truyền thống và kỹ thuật chăn nuôi ngày càng hiện đại. Đặc trưng của
8
phương thức này là: quy mô đàn lợn từ 10 – 30 nái, hay 10 – 50 lợn thịt (Cục
Chăn nuôi, 2007) [16]; ngoài các phụ phẩm nông nghiệp có khoảng 40 – 50%
thức ăn công nghiệp; con giống chủ yếu là con lai có từ 50 – 75 % máu ngoại trở

lên; công tác vệ sinh thú y, chuồng trại chăn nuôi đã được xem trọng. Phương
thức chăn nuôi này phổ biến ở các tỉnh phía Bắc và đang phát triển mạnh hầu hết
cả nước. Chăn nuôi theo phương thức này đã mang tính sản xuất hàng hóa hơn
hẳn so với chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ song năng suất vẫn chưa cao, chưa đáp ứng
được nhu cầu thị trường nhất là nhu cầu về chất lượng thịt.
2.3.2.3. Chăn nuôi trang trại
Phương thức chăn nuôi trang trại phát triển mạnh trong thời gian gần đây
và có xu hướng ngày càng phát triển. Đây có thể coi là bước đột phá mới trong
phát triển của ngành chăn nuôi. Quy mô từ trên 20 nái hoặc trên 100 lợn thịt [16],
chăn nuôi được thực hiện theo các quy trình khép kín, quay vòng nhanh. Con
giống chủ yếu là lợn ngoại 2 máu hoặc 3 máu. Chỉ sử dụng thức ăn công nghiệp;
chuồng trại được thiết kế tiên tiến, chuồng sàn có hệ thống làm mát để giảm nóng
về mùa hè, sưởi ấm cho gia súc non, máng ăn tự động, bán tự động; máng uống
cho lợn, thiết bị cung cấp nước uống cũng có sự cải tiến phù hợp với độ tuổi vật
nuôi, xử lý chất thải bằng công nghệ biogas, Công tác vệ sinh phòng bệnh
được đảm bảo chắc chắn. Chính vậy mà năng suất chăn nuôi cao, chất lượng thịt
tốt, có khả năng cạnh tranh trên thị trường, đáp ứng phần lớn nhu cầu cho người
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu nước ngoài.
2.4. Ưu thế lai về các tính trạng sinh sản của lợn nái sinh sản
Ưu thế lai là hiện tượng con lai có sức sống, sức chống đỡ bệnh tật và sức
sản xuất cao hơn mức trung bình của thế hệ bố mẹ. Có thể hiểu cách khác: Ưu thế
lai là hiện tượng sinh học biểu hiện ở sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của các
cá thể do lai tạo giữa các con không cùng nguồn gốc huyết thống.
Trong chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nái nói riêng, việc ứng dụng
ưu thế lai là rất phổ biến nhằm mục đích tạo cho con lai có tính năng vượt trội đưa
lại năng suất cao.
Theo nghiên cứu của William (1997) [38] có 3 loại ưu thế lai sau:
- Ưu thế lai cá thể (H
I
): Là ưu thế lai do kiểu gen của chính con vật quy định.

- Ưu thế lai của mẹ (H
M
): Là ưu thế lai do kiểu gen mà mẹ con vật quy
định thông qua điều kiện ngoại cảnh cung cấp bởi con mẹ. Chẳng hạn nếu mẹ là
con lai, thông qua sản lượng sữa, khả năng nuôi con khéo mà con lai có được ưu
thế lai này.
9
- Ưu thế lai của bố (H
P
): Là ưu thế lai do kiểu gen mà bố con vật quy định
thông qua điều kiện ngoại cảnh cung cấp bởi con bố. Ưu thế lai của bố không phổ
biến bằng ưu thế lai của mẹ. Có rất ít tính trạng có được ưu thế lai của bố, song có
thể thấy rằng: khả năng thụ thai, tính trạng sức khoẻ của con đực lai tạo nên ưu
thế lai cho đời con của nó. Bảng 2.1 trình bày ưu thế lai cá thể và ưu thế lai con
mẹ của một số tính trạng sinh sản.
Bảng 2.1. Ưu thế lai cá thể và ưu thế lai con mẹ của một số tính trạng sinh
sản của lợn
Tính trạng H
I
(%) H
M
(%)
Số con đẻ ra/lứa 2,0 8,0
Số con cai sữa/lứa 9,0 11,0
Tỷ lệ thụ thai 3,0 -
Nguồn: Đặng Vũ Bình trích từ William (1997) [1]
Thông thường trong ưu thế lai thì các tính trạng liên quan đến khả năng nuôi
sống, khả năng sinh sản có ưu thế lai cao nhất. Điều đó cũng nói lên rằng: Các tính
trạng có hệ số di truyền thấp thường có ưu thế lai cao (Erick và Willam, 1996). Vì
vậy, để cải tiến tính trạng này so với chọn lọc, lai giống là một biện pháp nhanh

hơn và hiệu quả hơn. Hai quần thể vật nuôi khác nhau về di truyền bao nhiêu thì ưu
thế lai thu được khi lai giữa chúng càng lớn bấy nhiêu. Ưu thế lai phụ thuộc rất lớn
vào điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng. Khi điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì
tiềm năng ưu thế lai được phát huy một cách tối đa và ngược lại.
Bản chất di truyền sâu xa của ưu thế lai là sự tăng lên của giá trị kết
hợp của các gen (GVC). Khi mức độ dị hợp tử càng cao thì ưu thế lai càng
cao và ngược lại. Ưu thế lai cao nhất ở thế hệ F
1
do thế hệ F
1
có mức độ dị
hợp tử cao nhất.
Một số nghiên cứu trong và ngoài nước cũng cho biết: Ưu thế lai là năng
suất tốt nhất của con lai F
1
so với bố mẹ chúng. Ưu thế lai bằng không khi mà
năng suất của con lai chỉ bằng trung bình của lợn bố mẹ. Ưu thế lai được tính
bằng phần trăm (%) năng suất tăng lên của con lai so với bố mẹ thuần của chúng.
Ưu thế lai cũng có thể được tính dưới dạng tuyệt đối, tức là cùng đơn vị với tính
trạng nghiên cứu, nó chính là chênh lệch giữa trung bình con lai của phép lai
nghịch đảo và trung bình của bố mẹ thuần của chúng, hoặc trung bình của dòng,
giống của bố mẹ.
10
Hanimand (1992) qua nhiều thí nghiệm đã cho biết những lợn đực lai nói
chung trội hơn đực thuần chủng về khả năng phẩm giống. Chúng có khả năng
sinh trưởng, phát triển nhanh hơn, tính năng rõ hơn, tỷ lệ thụ thai cao hơn và thời
gian sử dụng cao hơn so với đực thuần.
Về khả năng sinh sản, một số nghiên cứu gần đây nhất cho biết: Lợn nái
Móng Cái khi được phối với lợn Yorkshire cho số con đẻ ra/ổ dao động từ 11,85 -
14,72 con/ổ [8].

Nghiên cứu về năng suất sinh sản của nái Móng Cái và nái lai F
1
(Móng
Cái x Yorkshire) kết quả cho thấy: Năng suất sinh sản của nái lai F
1
(Móng Cái x
Yorkshire) về một số tính trạng sinh sản trội hơn so với nái Móng Cái trong điều
kiện chăn nuôi nông hộ (bảng 2.2).
Bảng 2.2. Năng suất sinh sản của lợn lai F
1
(Móng Cái x Yorkshire) và lợn nái Móng
Cái
Chỉ tiêu Đơn vị F
1
(MC x Y) Lợn MC
Số con đẻ ra còn sống 24 giờ Con/lứa 11,0 10,67
Số con vào thời điểm 2 tháng tuổi Con/lứa 11,0 10,0
Tỷ lệ nuôi sống lợn con đến 2 tháng tuổi % 100,0 93,72
Khối lượng lúc 2 tháng tuổi Kg/lứa 197,0 149,8
Nguồn: [31]
Tóm lại, các tính trạng sinh sản thông thường là tính trạng có hệ số di
truyền thấp, dễ bị lay động bởi lai tạo và thông thường có ưu thế lai cao. Các
nghiên cứu cho thấy rằng: Lợn nái lai có khả năng sản xuất vượt trội về một số
tính trạng sinh sản so với trung bình của các dòng, các giống bố mẹ thuần.
2.5. Đặc điểm một số giống lợn ngoại
2.5.1. Giống lợn Pietrain
-Nguồn gốc xuất xứ và phân bố : Giống lợn có nguồn từ một làng có tên
Pietrain, thuộc Bỉ. Người ta không rõ giống này được tạo ra năm nào nhưng ước
chừng vào khoảng 1950 - 1951. Giống lợn này đã trở nên phổ biến ở Bỉ và sau đó xuất
qua các nước khác, đặc biệt là Đức, sau đó lợn được nuôi khá nhiều nơi trên thế giới.

- Đặc điểm ngoại hình : Toàn thân có màu trắng và có nhiều đốm màu
xám trên cơ thể và không ổn định, đầu nhỏ, dài, tai to hơi vểnh, cổ to và chắc
chắn, mình dài, vai - lưng - mông - đùi rất phát triển. Toàn thân trông như hình
trụ, đây là giống lợn tiêu biểu cho hướng nạc.
11
- Khả năng sản xuất : Lợn có tầm vóc trung bình và khả năng sản xuất thịt
nạc cao, nuôi tốt có thể đạt 66,7% nạc trong thân thịt. Khối lượng sơ sinh 1,1 - 1,2
kg con, cai sữa 60 ngày đạt 15 - 17 kg/con, 6 tháng tuổi đạt 100 kg. Lợn đực có
nồng độ tinh trùng cao, 250 - 290 triệu/ml. Lợn cái có khả năng sinh sản tương
đối tốt, lợn đẻ trung bình 9 - 11 con/lứa, năm đạt 1,7 - 1,8 lứa/năm [35], [7].
- Hướng sử dụng : Lợn Peitrain được coi là giống lợn tốt và cao nạc trên
thế giới hiện nay và được nuôi ở nhiều nước. Giống lợn này được nhập vào nước
ta vào khoảng 1993, hiện nay giống lợn Peitrain được sử dụng để lai tạo với các
giống lợn khác tạo thành các tổ hợp lai có nhiều ưu điểm như PiDu x LandYork
hay [Pi x (Yr x MC)]. Giống lợn này được nhập vào nước ta qua nhiều chương
trình và các công ty chăn nuôi khác nhau. Giống lợn Peitrain được chọn một trong
những giống tốt để thực hiện chương trình nạc hóa đàn lợn ở Việt Nam.
2.5.2. Giống lợn Duroc
- Nguồn gốc xuất xứ và phân bố: Có nguồn gốc miền Đông, nước Mỹ và
vùng Corn Belt. Dòng Duroc được tạo ra ở vùng New York năm 1823, bởi Isaac
Frink. Giống lợn Duroc-Jersey có nguồn của hai dòng khác biệt Jersey Red của
New Jersey và Duroc của New York. Còn dòng lợn Jersey đỏ được tạo ra vào
năm 1850 vùng New Jersey bởi Clark Pettit, lợn Duroc chủ yếu được nuôi ở vùng
New Jersey và vùng New York, nước Mỹ.
- Đặc điểm ngoại hình: Toàn thân có màu hung đỏ (thường gọi lợn bò),
đầu to vừa phải, mõm dài, tai to và dài, cổ nhỏ và dài, mình dài, vai - lưng -mông
- đùi rất phát triển. Giống lợn Duroc là giống lợn tiêu biểu cho hướng nạc, có tầm
vóc trung bình so với các giống lợn ngoại.
-Khả năng sản xuất: Lợn Duroc có khả năng sinh sản tương đối cao, trung
bình đạt 1,7 - 1,8 lứa/năm. Mỗi lứa đẻ từ 9 đến 11 con, trọng lượng sơ sinh lợn

con trung bình đạt 1,2 - 1,3 kg, trọng lượng cai sữa 12 - 15 kg. Sức tiết sữa của
lợn đạt 5 - 8 kg/ngày. Khả năng sinh trưởng của lợn tốt. Theo một số kết quả sản
xuất ở Đài Loan và Thái Lan cho thấy lợn Duroc có nhiều ưu điểm: Tăng trọng
nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp, tỷ lệ nạc cao và chất lượng thịt tốt. Lợn có khả năng
tăng trọng từ 750 - 800 g/ngày, 6 tháng tuổi lợn thịt có thể đạt 105 - 125 kg. Lợn
Duroc trưởng thành con đực nặng tới 370 kg, con cái 250 - 280 kg [35], [7].
- Hướng sử dụng: Lợn Duroc là giống lợn tốt trên thế giới hiện nay và
được nuôi rất phổ biến ở nhiều nơi, đặc biệt nuôi theo hướng nạc và sử dụng thịt
nướng. Giống lợn này đã được nhập vào nước ta vào khoảng 1956 ở miền Nam,
sau đó đến 1975, lợn vào nước ta qua nhiều chương trình và các công ty chăn
12
nuôi. Giống lợn Duroc được chọn một trong những giống tốt để thực hiện chương
trình nạc hóa đàn lợn ở Việt Nam. Tuy nhiên, nuôi lợn Duroc cần có chế độ dinh
dưỡng cao và chăm sóc tốt mới đạt được kết quả tốt.
2.5.3. Giống lợn Landrace
- Nguồn gốc xuất xứ và phân bố: Lợn Landrace có nguồn gốc Đan Mạch
được hình thành vào khoảng 1924 - 1925. Lợn Landrace được tạo thành bởi quá
trình lai tạo giữa giống lợn Youtland (có nguồn gốc Đức) với lợn Yorkshire (có
nguồn từ Anh). Giống lợn này chủ yếu được nuôi nhiều ở Đan Mạch. Sau 1990,
lợn được chọn lọc và có năng suất cao và được nuôi ở nhiều nước châu Âu.
- Đặc điểm ngoại hình: Lợn Landarce toàn thân có màu trắng tuyền, đầu
nhỏ, dài, tai to dài rủ xuống kín mặt, cổ nhỏ và dài, mình dài, vai - lưng -mông -
đùi rất phát triển. Toàn thân có dáng hình thoi nhọn giống như quả thủy lôi, đây là
giống lợn tiêu biểu cho hướng nạc.
- Khả năng sản xuất: Lợn Landrace có khả năng sinh sản cao, mắn đẻ và
đẻ nhiều, trung bình đạt 1,8 - 2 lứa/năm. Mỗi lứa đẻ 10 - 12 con, khối lượng sơ
sinh (Pss) trung bình đạt 1,2 - 1,3 kg, khối lượng cai sữa từ 12 - 15 kg. Sức tiết
sữa từ 5 - 9 kg/ngày. Khả năng sinh trưởng của lợn rất tốt, theo một số kết quả sản
xuất ở Thái Lan và Công ty chăn nuôi C.P. Việt Nam cho thấy lợn Landrace có
rất nhiều ưu điểm: Sinh sản tốt, tăng trọng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp, tỷ lệ nạc

cao và chất lượng thịt tốt. Lợn có khả năng tăng trọng từ 750 - 800 g/ngày, 6
tháng tuổi lợn thịt có thể đạt 105 - 125 kg. Khi trưởng thành con đực nặng tới 400
kg, con cái 280 - 300 kg [18].
- Hướng sử dụng: Lợn Landrace được coi là giống lợn tốt nhất trên thế
giới hiện nay và được nuôi rất phổ biến ở nhiều nơi. Giống lợn này được nhập
vào nước ta vào khoảng 1970 qua Cuba. Những năm sau 1990, lợn Yorkshire
được nhập vào ta qua nhiều con đường của nhà nước, công ty và từ nhiều dòng
khác nhau như Yorkshire Pháp, Bỉ, Anh, Úc, Mỹ, Nhật. Mỗi dòng đều có những
đặc điểm ngoại hình và sản xuất đặc trưng của nó. Giống lợn Landrace được chọn
một trong những giống tốt để thực hiện chương trình nạc hóa đàn lợn ở Việt Nam.
2.5.4. Giống lợn Yorkshire
- Nguồn gốc xuất xứ và phân bố: Năm 1851 Joseph Luley, là người tạo
giống đã tạo giống lợn Yorkshire ở vùng Bắc Shires. Trong thời gian này, nhà
chọn giống Bakewell đã cải tạo lợn Leicestershire, của giống lợn đại phương Bắc
Shires, Yorkshire và Lancashire, của Lincolnshire và Leicestershire để tạo ra
giống lợn Yorkshire ngày nay nhưng đến năm 1884, Hội đồng giống Hoàng gia
13
Anh mới công nhận giống lợn Yorkshire. Lợn được nuôi nhiều ở vùng Đông Bắc
nước Anh, nhân dân ở đây có tập quán nuôi lợn chăn thả trên đồng cỏ, sau đó lợn
được cải tiến thành nhiều nhóm khác nhau [7].
- Đặc điểm ngoại hình: Lợn Yorkshire toàn thân có màu trắng, lông có
ánh vàng, đầu nhỏ, dài, tai to dài hơi hướng về phía trước, thân dài, lưng hơi vồng
lên, chân cao khỏe và vận đông tốt, chắc chắn, tầm vóc lớn.
- Khả năng sản xuất: Lợn có khối lượng sơ sinh trung bình 1 - 1,2 kg; lợn
đực trưởng thành đạt 350 - 380 kg, dài thân 170 - 185 cm, vòng ngực 165-185
cm. Con cái có cân nặng 250 - 280 kg, lợn thuộc giống lợn cho nhiều nạc. Lợn cái
đẻ trung bình 10 - 12 con/lứa. Có lứa đạt 17 - 18 con, cai sữa 60 ngày tuổi đạt 16 -
20 kg/con [35].
- Hướng sử dụng: Lợn Yorkshire là giống lợn phổ biến nhất trên thế giới,
lợn được nuôi ở nhiều nơi. Ở nước ta lợn cũng được nhập vào từ những năm 1920

ở miền Nam để tạo ra lợn Thuộc Nhiêu Nam Bộ. Đến 1964, lợn được nhập vào
miền Bắc thông qua Liên Xô cũ. Đến năm 1978, chúng ta đã nhập lợn Yorkshire
từ Cu Ba. Những năm sau 1990, lợn Yorkshire được nhập vào nước ta qua nhiều
con đường của nhà nước, công ty và từ nhiều dòng khác nhau như Yorkshire
Pháp, Bỉ, Anh, Úc, Mỹ, Nhật. Mỗi dòng đều có những đặc điểm ngoại hình và sản
xuất đặc trưng của nó. Giống lợn này cũng một trong những giống nước ta đang
chọn cho chương trình nạc hóa đàn lợn.
2.5.5. Lợn lai F1 (Yorshire x Landrace)
-Nguồn gốc: Lợn lai F1(Yorshire x Landrace) có nguồn gốc từ các chương
trình giống của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Ở nước ta lợn lai F1(Yorshire x Landrace) có mặt ở hầu hết các trại chăn
nuôi tiên tiến trên mọi tỉnh thành của cả nước.
-Đặc điểm chung: Lợn lai F1(Yorshire x Landrace) thể hiện đặc điểm của
cả giống lợn Yorshire và lợn Landrace nhưng nghiêng về giống lợn Landrace
nhiều hơn. Lợn có sắc lông trắng (có thể có vài đốm lông đen hiển diện), tầm vóc
lớn, cổ dài, đầu thon nhỏ, mõm dài nhỏ và thẳng. Tai ngang (không đứng cũng
không cụp). Dài đòn, lưng thẳng, sườn tròn, bụng gọn, đùi nở nang.
Lợn lai F1(Yorshire x Landrace) có khả năng sinh trưởng và phát dục tốt,
khối lượng sơ sinh từ 1,2 – 1,8 kg, khối lượng cai sữa lúc 21 ngày tuổi từ 5,6 – 6,7
kg. Ở 6 tháng tuổi lợn đực đạt 100 kg, lợn nái đạt 90 kg, trong thời gian sinh sản
đạt 250 – 400 kg. Lợn có tốc độ tăng trọng nhanh 750 – 800 g/ ngày. Lợn có
14
phẩm chất thịt tốt, tỷ lệ thịt xẻ 70 – 80%, tỷ lệ nạc 42 -45%. Lợn nái đẻ trung bình
10 – 12 con / lứa có khi nhiều hơn, sức tiết sữa 5 - 9 kg/ ngày. Hệ số lứa đẻ 2 –
2,2 lứa/ năm.
Lợn nái, lợn nọc sử dụng làm giống lúc 7 -8 tháng tuổi, nặng trung bình
khoảng 100 – 110 kg, lúc 2 năm tuổi, lợn đực đạt 220 -230 kg và lợn nái nặng
khoảng 180 -200kg.
-Hướng sử dụng: Lợn lai F1(Yorshire x Landrace) được sử dụng làm
giống trong các phép lai 3 máu, 4 máu trở lên. Lợn lai F1(Yorshire x Landrace)

được sử dụng nuôi thịt trong các trại chăn nuôi lợn thịt thương phẩm.
2.6. Các chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh sản và các yếu tố ảnh hưởng
2.6.1. Các chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh sản
Khả năng sinh sản là yếu tố quan tâm hàng đầu của người chăn nuôi lợn
nái. Để đánh giá năng suất sinh sản, người ta đã đưa ra các chỉ tiêu sinh sản. Từ
các chỉ tiêu đó tạo ra một thang chuẩn để đánh giá, so sánh khả năng sinh sản của
một cá thể hay một giống nào đó. Nhằm đưa ra những biện pháp kĩ thuật tác động
nâng cao hiệu quả kinh tế, chọn lọc, loại thải, … theo từng mục đích riêng.
Năng suất sinh sản là chỉ tiêu tổng hợp, được đánh giá bằng số lợn con cai
sữa/ nái/ năm và tổng khối lượng lợn con cai sữa/ nái/ năm. Hai chỉ tiêu này phụ
thuộc vào tuổi đẻ lứa đầu, tỷ lệ thụ thai, số con đẻ ra, tỷ lệ nuôi sống lợn theo mẹ,
hệ số lứa đẻ/ năm, sản lượng và chất lượng sữa mẹ, chế độ nuôi dưỡng chăm sóc
(Lê Đình Phùng, 2010) [20].
Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái, nhưng xét về
mặt di truyền, chọn giống, người ta thường quan tâm đến một số tính trạng năng
suất nhất định. Holnes (1991); Vander Steem (1986), (trích bởi Nguyễn Thiện,
2008) [26 ] cho cho biết năng suất sinh sản của lợn nái được đánh giá qua các chỉ
tiêu: tuổi động dục lần đầu, tỷ lệ thụ thai, số con/ ổ và thời gian tứ khi cai sữa đến
động dục lại và phối giống có kết quả. Hamon (1994) cho rằng tuổi đẻ lứa đầu, số
con đẻ ra còn sống, số con cai sữa, khoảng cách lứa đẻ và thời gian cai sữa là các
chỉ tiêu quan trọng nên dùng để đáng giá khả năng sinh sản của lợn nái. Trần
Đình Miên và cs (1997) [15] cho biết việc tính toán khả năng sinh sản của lợn nái
cần phải xét đến các chỉ tiêu như chu kỳ động dục, tuổi thành thục về tính, thời kì
chửa và số con đẻ ra/ lứa. Theo Nguyễn Thiện (2008) [26], các tính trạng chủ yếu
phản ánh năng suất sinh sản ở lợn nái là số con đẻ ra/ lứa, số lợn con cai sữa và
khối lượng con lúc cai sữa.
15
Ở nước ta, tiêu chuẩn nhà nước (TCNN – 1280 – 81, ngày 30/9/2003) [17]
đã quy định các chỉ tiêu giám định về khả năng sinh sản của lợn nái nuôi tại các
cơ sở công nghiệp bao gồm:

- Số con đẻ ra/lứa (con)
- Số con đẻ ra còn sống/lứa (con)
- Số con đẻ ra chết/lứa (con)
- Khối lượng sơ sinh/con (kg)
- Khối lượng sơ sinh/ lứa (kg)
- Số con để nuôi/lứa (con)
- Số con 21 ngày tuổi/lứa (con)
- Khối lượng 21 ngày tuổi/con (kg)
- Khối lượng 21 ngày tuổi/lứa (kg)
- Số con cai sữa/lứa (con)
- Khối lượng cai sữa/lứa (kg)
- Khối lượng cai sữa/con (kg)
- Thời gian cai sữa (ngày)
- Khoảng cách giữa hai lứa đẻ (ngày)
- Tuổi (ngày) và khối lượng (kg) động dục lần đầu
- Tuổi (ngày) và khối lượng (kg) phối giống lần đầu
- Tuổi đẻ lứa đầu (ngày)
- Thời gian phối giống sau cai sữa (ngày)
- Số lứa đẻ/nái/năm
- Số con cai sữa/nái/năm (con)
Phần lớn các tính trạng này phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngoại cảnh (dinh
dưỡng, mùa vụ, phương thức và thời điểm phối giống, đực giống, điều kiện chăm
sóc nuôi dưỡng, yếu tố chuồng trại, khả năng phòng trừ dịch bệnh, …). Như vậy, có
nghĩa là các biến dị do di truyền như biến dị cộng gộp, tương tác giữa các gen là
thấp. Vấn đề đặt ra là các nhà chọn giống phải tìm cách nâng cao hệ sổ di truyền các
tính trạng số lượng dẫn tới việc tăng hiệu quả chọn lọc (Nguyễn Thiện - Đào Đức
Thà, 2008) [26]; đồng thời người chăn cần phải áp dụng các biện pháp kĩ thuật tiên
tiến, hiệu quả nhất để khai thác tối đa tiềm năng sản xuất của con giống.
2.6.2 Các yếu tố ảnh hưởng năng suất sinh sản
Năng suất sinh sản của lợn nái được đánh giá trên rất nhiều chỉ tiêu. Hơn

thế nữa các tính trạng sinh sản là các tính trạng có hệ số di truyền thấp. Do vậy
cũng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái.
2.6.2.1. Ảnh hưởng của yếu tố di truyền
16
Các giống khác nhau thì sự thành thục về tính là không đồng nhất. Gia súc
có tầm vóc nhỏ thì thường có sự thành thục về tính sớm hơn gia súc có tầm vóc
lớn. Lợn nội thường có sự thành thục về tính sớm hơn lợn ngoại.
Sự khác nhau giữa các giống lợn về tính trạng năng suất sinh sản đã được
nhiều tác giả công bố. Theo Venev (1985) sự khác nhau về tuổi động dục lần đầu
giữa các giống lợn có thể lên tới 200%, sự khác nhau về số con đẻ ra giữa các
giống trong hai lứa lên đến 200- 300%. Có những giống lợn ở châu Á và Châu
Phi thành thục sinh dục khi mới 90-95 ngày tuổi, trong khi đó có những giống lợn
ở Châu Âu hoặc có nguồn gốc từ Châu Âu chỉ tiêu lên tới 200-240 ngày tuổi
( Dickson và Chiboka-1981).
Theo Nguyễn Hữu Tỉnh và cs (2006) [24], giá trị di truyền và kiểu hình của
một số tính trạng sản xuất trên giống lợn Yorkshire và Landrace có nguồn gốc
nhập nội khác nhau. Kết quả này cho thấy, các nguồn gốc khác nhau có sự
phân tách khá rõ nét về hướng sản xuất khi xem xét về giá trị di truyền của
từng tính trạng. Tiềm năng di truyền về khả năng sinh sản (số con sơ sinh sống/
ổ) và khả năng nuôi con ( khối lượng 21ngày tuổi) của nguồn gốc nhập từ Đan
Mạch và Mĩ tốt hơn so với nguồn gốc nhập từ Australia trên cả hai giống. Giá
trị giống trung bình của tính trạng số con sơ sinh sống/ổ thay đổi trong khoảng
0,013- 0,055 và 0,059- 0,066 tương ứng với hai nguồn giống nhập từ Mỹ và
Đan mạch. Giá trị giống trung bình của tính trạng khối lượng 21 ngày tuổi giao
động tương ứng với nguồn gốc nhập từ Mỹ và Đan Mạch là 0,124- 0,132 và
0,152 - 0,281. Trong khi đó khả năng sinh trưởng và dày mỡ lưng của nguồn
giống nhập từ Úc lại cho giá trị di truyền tốt hơn ở giống Landrace và tương
đối tốt ở Yorkshire, tương ứng với hai tính trạng tuổi đạt 90kg và dày mỡ lưng
lúc 90kg là -1,268 và -0,135 ở giống Landrace; -0,237 và 0,002 ở giống
Yorkshire. Tuy vậy, tiềm năng sinh sản của nguồn giống này (Australia) lại rất

thấp với các giá trị giống trung bình đều âm đối với cả hai tính trạng số con sơ
sinh sống/ổ và khối lượng 21ngày tuổi trên cả hai giống.
Theo Vũ Đình Tường và cs (2005) [28] qua phân tích một số chỉ tiêu sinh
sản chính và chọn lọc theo hai tính trạng số con sơ sinh sống và khối lượng
21ngày tuổi của lợn Landrace và Yorkshire kết quả cho thấy, đàn giống lợn
Landrace là trưởng thành sinh dục sớm và cho lứa đẻ đầu sớm hơn, số con sơ
sinh/lứa cũng nhiều hơn Yorkshire. Giống Yorkshire có khả năng lên giống lại và
phối đậu thai tốt hơn Landrace nên có số ngày không sản xuất thấp hơn và cho số
con bình quân/năm nhiều hơn.
17
Đực giống có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái các tính trạng
chịu ảnh hưởng lớn của đực giống là các tính trạng về khối lượng con sơ sinh,
khối lượng con cai sữa. Ảnh hưởng của đực giống thể hiện trên 2 phương diện là
giống đực và chất lượng tinh dịch. Lợn nái F1 (Yorkshire x Landrace) khi phối
với đực F1(Duroc x Landrace) có năng suất sinh sản cao hơn khi phối với đực
Duroc (Lê Đình Phùng và Nguyễn Trường Thi (2009) [22].
Một số tác giả xác nhận: Sự mất cân bằng hormone chịu sự di truyền.
Lagerdolf (1971) cho rằng cấu trúc nội tiết tốt hay xấu có bản chất di truyền.
Tính dục giảm, thể trạng hướng cái ở con đực cũng như sự mất cân bằng nội tiết
ở con cái biểu hiện ở con cái qua sự động dục liên tục và thể trạng hướng đực là
hậu quả của một cấu trúc nội tiết sai lệch. Động dục thầm lặng hoặc không rõ,
chu kỳ động dục không có quy luật cũng được xem như có tính di truyền (Lê
Xuân Cương, 1986) [2].
Qua đó thấy rằng năng suất sinh sản của lợn nái phụ thuộc vào giống, việc tác
động vào giống để nâng cao năng suất sinh sản là cần thiết trong chăn nuôi lợn.
2.6.2.2. Ảnh hưởng của yếu tố dinh dưỡng
Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của
lợn nái. Cung cấp đủ dinh dưỡng cho lợn sinh sản không những nâng cao được
khối lượng sơ sinh của lợn con mà còn đảm bảo sức đề kháng của lợn mẹ, đặc
biệt trong giai đoạn có chửa và nuôi con [14].

Thức ăn cho lợn nái sinh sản cần đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng, trong đó cần
chú ý đến các thành phần quan trọng như: năng lượng, protein, khoáng,
vitamin, giảm lượng ăn vào của lợn nái trong giai đoạn mang thai sẻ không đáp
ứng đủ nhu cầu cho lợn mẹ và sự phát triển của bào thai (Trottier và Johnston,
2001). Khẩu phần thiếu dinh dưỡng là nguyên nhân kéo dài thời gian chờ phối
của lợn nái sau cai sữa lợn con (King và Willams, 1981), giảm tỷ lệ thụ tinh, giảm
số con trên lứa, giảm khối lượng sơ sinh và khối lượng cai sữa của lợn con.
Mức protein trong khẩu phần thích hợp cho lợn nái thường 15 - 17% tùy
thuộc vào thể trạng và các giai đoạn sinh sản (NRC_1998), Lã Văn Kính (2002)
[12] khuyến cáo khẩu phần cho lợn nái giống ngoại giai đoạn mang thai nên ở
mức 3100 kcal ME/kg thức ăn và 13% protein thô.
Đối với lợn Móng Cái trong giai đoạn có chửa mức protein thích hợp trong
khẩu phần là 12%. Khi nuôi theo mức này thì các chi tiêu sinh sản của lợn nái đều
tăng cao. Số con sơ sinh cao (12,3 con/lứa), khối lượng sơ sinh cao (trọng lượng
cả ổ đạt 8 kg, trung bình 0,65 kg/con), lợn mẹ khỏe nên đẻ nhanh (72,5 phút).
18
Trong giai đoạn nuôi con mức protein trong khẩu phần 14% là thích hợp. Mức
này đã nâng cao khả năng sinh sản của lợn mẹ: Tăng sức tiết sữa của lợn mẹ (khối
lượng toàn ổ lợn con lúc 21 ngày tuổi là 24,3 kg), tăng số con và khối lưọng cai
sữa), tỷ lệ hao mòn của lợn mẹ thấp, thời gian động dục trở lại sau khi cai sữa
sớm (6 ngày), nên tăng số lứa đẻ trên năm của lợn mẹ [5].
Sự thiếu hụt Vitamin B
12
và Mn dẫn đến sự phát triển giới tính kém và
chậm thành thục sinh dục ở lợn nái, (Hughs _1993). Lợn nái hậu bị ăn theo mức
tự do có số trứng rụng cao hơn so với nái hậu bị ăn hạn chế. Các nghiên cứu khác
cũng cho rằng để đạt được sự rụng trứng cao trong thời kỳ phối giống của lợn nái
hậu bị thì mức ăn từ bắt đầu động dục trước tới lúc phối tinh ở mức 3 - 4 kg/ngày
(protein 14%) là đủ dinh dưỡng và sự rụng trứng có thể đạt 12 - 14 tế bào. Ở lợn, số
con đẻ ra trong một lứa phụ thuộc chủ yếu vào tỷ lệ thụ thai và sức sống của phôi.

Mối tương quan giữa dinh duỡng và sức sống của phôi được các tác giả Brooks và
Cole (1970), Scofield (1972) tổng kết các loại thức ăn có ảnh hưởng lớn là Vitamin
và khoáng, mức năng lượng ăn vào có ảnh hưởng lớn đến tỉ lệ sống của phôi kể từ
giai đoạn động dục tới phối tinh hoặc ngay sau khi phối. Dinh dưỡng cũng ảnh
hưởng rất lớn đến sản lượng sữa của lợn mẹ. Mullan và Williams (1989) cho biết
số lượng lớn mỡ và protein của cơ thể được huy động để sản xuất sữa.
Theo Hoppe (1990) thì mức ăn 6,0 Mcal ME đối với nái lai (Yorkshire x
Landrace) với 4 lứa đẻ, vừa cung cấp đủ nhu cầu dinh duỡng và đảm bảo khả
năng sinh sản cho chúng. Hillyer và Phillip (1980) cho biết tăng thêm lượng thức
ăn 1,36 kg/ngày trong 23 ngày chửa cuối, khối lượng lợn con lúc sơ sinh tăng 40g
và khối lượng lúc 21 ngày tuổi tăng 170g. Khối lượng sơ sinh sẽ tăng lên 3,5 - 9
g/con cho mỗi MJ ME tăng trên mức 25 - 30 MJ ME/nái/ngày (Henry và Etienne,
1978). Và khối lượng sơ sinh tiếp tục tăng khi lợn nái chửa tăng mức ăn tới trên
45 MJ DE/ngày (Pluske và cs, 1995).
Lượng nước uống hàng ngày cũng ảnh hưởng lớn đến sản lượng sữa, vì
hàm lượng nước chiếm 80 - 85% trong sữa. Lợn nái uống nước tự do, mức 2,3 -
3,9 lít/kg vật chất khô thức ăn là thích hợp (Friend, 1971).
2.6.2.3. Ảnh hưởng của yếu tố nuôi dưỡng, chăm sóc
Bên cạnh yếu tố giống, chất lượng giống thì phương thức nuôi dưỡng là
yếu tố góp phần quyết định đánh giá đúng chính xác năng suất sinh sản của lợn
nái. Phương thức nuôi dưỡng bổ sung giàu đạm đạt năng suất sinh sản cao hơn so
với phương thức nuôi tận dụng. Cụ thể số con đẻ ra của lợn nái Landrace và
Yorkshire chăn nuôi bằng phương pháp bổ sung giàu đạm và tận dụng là 9,9 con
19
và 9,68 con, và số con để nuôi là 9,45 và 9,27 con, khối lượng cai sữa lúc 50 ngày
tuổi là 60,01 và 59,03 kg.
Theo Clowes và cs (2003) [36] cai sữa lợn con muộn thì thời gian nuôi con
của lợn nái sẽ tăng hao mòn cơ thể mẹ dẫn đến ảnh hưởng xấu tới thời gian động
dục lại sau cai sữa lợn con. Tuy nhiên nếu cai sữa quá sớm (dưới 20 ngày) sẽ kéo
dài khoảng thời gian chờ phối (Vargas và cs, 2009; Koketsu và Dial, 1997) và

làm giảm đáng kể tỷ lệ đẻ và số con sinh ra/lứa (Steverink và cs, 1999), đồng thời
làm giảm khối lượng cai sữa cũng như khả năng sống của lợn con sau này.
Khuyến cáo cai sữa từ 21-28 ngày tuổi.
Tóm lại, các tính trạng năng suất sinh sản có hệ số di truyền thấp. Các tính
trạng này chụi ảnh hưởng rất lớn vào yếu tố chăm sóc và nuôi dưỡng. Điều kiện
chăm sóc tốt thì lợn nái mới thể hiện đầy đủ tiềm năng di truyền của phẩm giống.
Bảng 2.3. Chế độ dinh dưỡng cho lợn nái nuôi con
Lợn ngoại và lợn lai ngoại x ngoại Lợn nái lai nội ngoại (lợn lai

F1)
Mức ăn : Tự do
Năng lượng trao đổi (Kcal/kg thức ăn)
: 2800 - 3000
Protein thô (%) : 17 – 19
Mức ăn : Tự do
Năng lượng trao đổi (Kcal/kg thức
ăn) : 2900 - 3000
Protein thô (%) : 15 – 17
Nguồn: Hội Chăn nuôi Việt Nam(2000) [11]
2.6.2.4 Ảnh hưởng của yếu tố lứa đẻ
Lứa đẻ cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng và năng suất sinh sản.
Lợn nái hậu bị thường cho số con đẻ ra là thấp nhất và sau đó tăng dần từ lứa đẻ
thứ 2 và giảm dần sau lứa thứ 7. Vì thế chúng ta cần quản lí chăm sóc tốt nhằm
giữ vững được số con từ lứa thứ 6 trở đi. Ở những lứa đẻ đầu tiên, sự phát triển về
ngoại hình thể chất chưa được hoàn thiện, các cơ quan thực hiện chức năng chưa
phát triển đầy đủ nên năng suất sinh sản chưa cao. Còn với nái già (từ lứa thứ 7
trở đi) khả năng sinh sản giảm dần do sức sống và hoạt động của các cơ quan
chức năng giảm xuống.
20
Nghiên cứu gần đây của Nguyễn Quế Côi và Trần Thị Minh Hoàng (2006)

[3] về ảnh hưởng của các yếu tố lứa đẻ đến các tính trạng sinh sản của lợn nái
ngoại cho thấy, yếu tố lứa đẻ có ảnh hưởng rõ rệt đến mặt thống kê tất cả các tính
trạng năng suất sinh sản (trừ tính trạng số con 21 ngày tuổi). Tác giả Trần Thị
Minh Hoàng và cs, (2006) [3] nghiên cứu đã đưa ra kết quả lứa đẻ ảnh hưởng rất
rõ đến tính trạng khối lượng và số con.
2.6.2.5. Ảnh hưởng của phối giống
Phối giống ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ thụ tinh, số con sinh ra/lứa.
Trong đó thời điểm phối giống là nhân tố quyết định đến sự thành công của tỷ lệ
đậu thai ở lợn nái. Nguyên tắc là phối vào lúc nào để có nhiều tinh trùng gặp
được nhiều tế bào rụng trứng nhất. Chúng ta cần xác định chính xác thời điểm
rụng trứng nhằm phối tinh thích hợp. Thời điểm phối tinh thích hợp nhất là vào
giữa giai đoạn chụi đực. Đối với lợn nái ngoại, nái lai máu ngoại thời điểm phối
tốt nhất là sau khi có hiện tượng chụi đực khoảng 6 – 8h, hoặc cho phối vào
ngày thứ 3, cuối ngày thứ 4 kể từ khi bắt đầu động dục. Đối với nái nội thời
điểm này sớm hơn 1ngày so với nái ngoại và nái lai.
Phương thức phối giống cũng ảnh hưởng đến năng suất sinh sản. Theo
Lee và cs (1995) [37] cho đực nhảy trực tiếp và phối tinh nhân tạo thì tỷ lệ đậu
thai là 94,4% và 92,3%, nguyên nhân chủ yếu là do kĩ thuật phối tinh nhân tạo
chưa thực hiện đúng thời điểm rụng trứng.
Kỹ thuật phối tinh nhân tạo phải tốt, phải đưa được toàn bộ tinh trùng vào
trong cổ tử cung con cái. Không để cho tinh dịch chảy ra ngoài, cần phối lặp,
phối kép, phối vào lúc sáng sớm, mát mẻ và yên tĩnh. Tinh trùng phải đảm bảo
chất lượng và số lượng.
2.6.2.6. Ảnh hưởng của yếu tố tuổi, khối lượng phối giống lần đầu và thời
gian động dục lại sau cai sữa
Để tiến hành phối giống lần đầu thì lợn cái hậu bị phải thành thục về tính
và thể vóc. Nếu tuổi đẻ lứa đầu và khối lượng phối giống lần đầu quá sớm hay
quá muộn, quá thấp hay quá cao đều ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn
nái. Nếu lợn hậu bị đưa vào khai thác quá sớm có thể cơ thể phát triển chưa hoàn
thiện, nên số trứng rụng ít tỷ lệ thụ thai kém. Hơn nữa nó còn ảnh hưởng đến thể

chất thể vóc sau này, nếu khai thác muộn thì giảm hiệu quả kinh tế.
Thời gian động dục lại sau cai sữa không giống nhau giữa các giống. Theo
Nguyễn Thiện và Hoàng Kim Giao (1996) [27], cai sữa sớm không đi liền với
động dục sớm và ngược lại, cai sữa càng sớm thì khoảng cách tới ngày cai sữa
21
càng dài, rụng trứng ít. Cai sữa vào 10 ngày có thời gian động dục lại là 14,7
ngày, cai sữa 28 ngày thì thời gian động dục trở lại là 12,00 ngày, cai sữa ở 50
ngày tuổi thì động dục trở lại sau 6 ngày và rụng 15-16 trứng. Tác giả cho rằng
nên cai sữa 21-28 ngày là tốt nhất.
Sau khi cai sữa con khoảng 3-7 ngày tùy theo sự hao mòn của lợn mẹ trong
giai đoạn nuôi con và sự phát dục của lợn mẹ sau cai sữa, lợn nái sẽ động dục trở
lại và bắt đầu một chu kỳ sinh sản mới. Trong chăn nuôi công nghiệp người ta
thường chích vitamin ADE, và áp dụng quy trình kích thích lợn nái lên giống.
2.6.2.7. Ảnh hưởng của quản lý đàn
Quản lí đàn là công việc cần thực hiện một cách chặt chẽ đặc biệt là những
trang trại có quy mô lớn, việc quản lý đàn không chỉ ảnh hưởng tới từng cá thể mà
còn ảnh chung tới toàn đàn. Ở các trang trại, hệ thống ghi chép đầy đủ sẽ giúp các
nhà quản lý nắm bắt chính xác khả năng sinh sản của từng đối tượng lợn nái. Từ đó
có cơ sở để đánh giá, so sánh và tiến hành loại thải những con sinh sản kém hay chọn
lọc những con có thành tích xuất sắc nhằm nâng cao khả năng sinh sản chung của
toàn đàn. Quản lý tốt còn giúp cho việc phát hiện những nguyên nhân kỹ thuật làm
suy giảm năng suất sinh sản của đàn nái (chế độ dinh dưỡng, xác định thời điểm phối
giống, kỹ thuật phối giống, thời gian cai sữa, thời gian chờ phối, nhiệt độ, tốc độ gió
chuồng nuôi, quy trình điều trị, …) để từ đó đưa ra các giải pháp kỹ thuật đúng
đắng nhằm phát huy cao nhất tiềm năng sản xuất của con giống.
2.6.2.8. Ảnh hưởng của yếu tố thời tiết khí hậu
Đối với lợn ngoại, điều kiện khí hậu thời tiết mùa vụ (nhiệt độ, ẩm độ, ánh
sáng, …) ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sing sản của lợn nái. Nhiệt độ thích hợp
cho lợn nái sinh sản là 18-20
0

C. Nếu nhiệt độ lớn hơn 30
0
C thì sẽ giảm tỷ lệ thụ
thai và tăng tỷ lệ chết phôi. Do đó vào mùa hè tỷ lệ thụ thai thấp và số con đẻ
ra/lứa thường thấp hơn các mùa khác. Nếu nhiệt độ thấp quá (<18
0
C) thì tỷ lệ lợn
con chết do lạnh và tiêu chảy cao hơn. Như vậy tỷ lệ nuôi sống lợn con sẽ thấp
hơn bình thường.
Nhiệt độ cao (32-39
0
C) trong giai đoạn đầu có chửa, đặc biệt trong 24h
đầu có thể tăng tỷ lệ phôi chết (Warnick, 1968). Theo Hoàng Ngĩa Duyệt (2002)
[6], điều tra khả năng sinh sản của lợn nái Móng Cái nuôi ở khu vực các tỉnh
Miền Trung cho biết: Nhiệt độ cao làm giảm lượng ăn vào, giảm tỷ lệ rụng trứng,
giảm thụ thai, làm giảm số con đẻ ra trên lứa. Đối với lợn con đang bú sữa mẹ,
nhiệt độ thấp, ẩm độ cao; hoặc nhiệt độ cao, ẩm độ cao đều làm giảm sức đề
kháng. Lợn con thường mắc bệnh đường tiêu hóa, sinh trưởng kém.
22
Ở nước ta, khí hậu thời tiết thay đổi mang tính chu kì thông qua các mùa,
điều đó có tác động lớn trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp cả nước. Theo số
liệu tổng kết nái sinh con trong mùa Hè ở Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy
Phương cho biết tỷ lệ hao hụt lợn con có tới 15-20% [33], có năm còn lớn
hơn, nhất là những ổ lợn bị ỉa phân trắng. Số liệu theo dõi nhiều năm của
trạm thụ tinh nhân tạo lợn của Thành phố Hà Nội cũng cho thấy, trong các
tháng Đông Xuân, tỷ lệ thụ thai đạt 80-85%, nhưng trong các tháng mùa Hè
(6-7-8), tỷ lệ thụ thai chỉ đạt 50-60%, nhiều dẫn tinh viên cho biết vào mùa
hè, tỷ lệ thụ thai chỉ đạt 40-45% ở chu kỳ I [27].
Đối với nước ta nói chung và Miền Trung nói riêng nằm ở miền nhiệt đới
nóng ẩm, khí hậu có ảnh hưởng trực tiếp đến sức sinh sản của lợn. Tiểu khí hậu

chuồng nuôi có ảnh hưởng đến trạng thái lợn con cai sữa sớm. Khi theo dõi trên
300 lợn nái Móng Cái thuần và 300 lợn nái Móng Cái lai nuôi ở Hợp tác xã Tiền
Phong, kết quả cho thấy: Chăm sóc tốt, chuồng trại đảm bảo, lợn con đạt tỷ lệ
nuôi sống cao, nhiệt độ quá thấp thì tỷ lệ lợn con chết tăng nhiều [6] . Cùng điều
kiện chăm sóc tỷ lệ lợn con nuôi sống trong mùa Hè cao hơn mùa đông. Ngược
lại, chăm sóc không tốt thì cai sữa muộn trong mùa đông, tỷ lệ nuôi sống vẫn thấp
hơn trong mùa Hè.
2.6.2.9.Yếu tố chuồng trại
Chuồng trại chi phối lớn đến tiểu khí hậu chuồng nuôi. Kinh nghiệm của
một số công ty nước ngoài đang kinh doanh và sản xuất ở nước ta và một số nước
có điều kiên nhiệt độ cao như Thái lan và Úc đều cho thấy vai trò của chuồng trại
mang tính quyết định cho sản xuất chăn nuôi lợn. Theo Nguyễn Quang Linh
(2005) [14], chuồng trại giữ vai trò quyết định trong việc cách ly gia súc, khống
chế lây lan dịch bệnh khi có dịch xảy ra. Đồng thời chuồng trại cũng đóng vai trò
quan trọng trong việc thực hiện công tác giống, giúp kiểm tra các chỉ tiêu sinh
sản, năng suất sản xuất của từng con, từng nhóm, từng giống, từng dòng, làm cơ
sở cho việc chọn lọc, ghép đôi giao phối tạo giống mới.
Chuồng trại cũng đòi hỏi phải phù hợp với đặc điểm sinh lí theo từng loại
lợn, tuổi lợn, vì mỗi loại mỗi hạng tuổi đều có yêu cầu về khí hậu, nhiệt độ
chuồng nuôi khác nhau. Tiểu khí hậu chuồng nuôi ành hưởng trực tiếp đến khả
năng sinh sản. Mỗi loại gia súc, mỗi lứa đều có yêu cầu riêng về nhiệt độ, ẩm độ,
sự thông khí, ánh sáng khác nhau đều có sự phát triển tốt, khỏe mạnh. Lợn duy trì
nhiệt độ thăng bằng với môi trường ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ cơ thể, nhiệt độ
càng lớn sự thăng bằng càng giảm. Lợn con sơ sinh cần nhiệt độ chuồng nuôi
23
khoàng 30-32
0
C, trên 30 ngày tuổi cần nhiệt độ chuồng nuôi là 22-26
0
C (Nguyễn

Quang Linh và Hoàng Nghĩa Duyệt, 1997). Đối với nái mang thai nếu nhiệt độ
chuồng nuôi lên quá 30
0
C có nguy cơ thai chết trong bụng, nhất là khi độ ẳm lên
tới 85%. Đối với lợn con, chuồng trại bẩn có khí độc (NH3, CH4, H2S, …) sinh
ra từ chất thải của lợn, gây bất lợi cho sinh trưởng và phát triển của lợn con, làm
suy yếu, còi cọc giảm khả năng kháng bệnh.
2.6.2.10. Dịch bệnh
Người chăn nuôi muốn sinh lời kiếm lãi trước hết họ cần phải bảo vệ
những gì mình đã đầu tư vào chăn nuôi. Để tránh được rủi ro do dịch bệnh gây ra
thì vệ sinh phòng bệnh và công tác thú y đóng vai trò rất quan trọng vì vậy để
đảm bảo chăn nuôi an toàn, ổn định và đạt năng suất cao cần chú ý vệ sinh thú y.
Các bệnh, dịch khi xảy ra với lợn nái sinh sản gây giảm sút sức khỏe,
lợn không động dục hoặc động dục chậm ở nái hậu bị và chờ phối, tỷ lệ đậu
thai không cao, đối với nái mang thai thì gây sẩy thai, thai gỗ, với nái đẻ
làm giảm sức tiết sữa ảnh hưởng tới đàn con do vậy cần chích vaccine theo
định kỳ, tuân thủ tất cả các yêu cầu phòng dịch bên trong trại cũng như khu
vực ngoài chăn nuôi để ngăn ngừa dịch bệnh và bảo vệ sức khỏe đàn lợn
một cách hiệu quả nhất. Tóm lại khả năng sản xuất của lợn nái có thể phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như giống lợn, đực giống phối với lợn nái, phương
thức phối, mùa vụ, điều kiện chuồng trại, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng.
24
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát trên 50 lợn nái F1(Yorkshire x Landrace) và
50 lợn nái F1(Landrace x Yorkshire) trong giai đoạn từ hậu bị đến lứa đẻ thứ 4.
Đồng thời tiến hành nghiên cứu trên tổ hợp con lai của hai nhóm giống lợn khi
phối tinh đực F1(Pietrain x Duroc).

3.2. Điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng đối tượng thí nghiệm
Lợn được nuôi cá thể theo phương thức chăn nuôi công nghiệp trong các
chuồng khép kín. Nái mang thai được được nuôi cá thể bằng chuồng lồng, kích
thước mỗi chuồng là 2,0 x 0,6 x 1 m, mỗi trại được bố trí thành 8 dãy chuồng,
cuối mỗi dãy có 2 ô rộng dành cho nái mang thai có vấn đề, kích thước mỗi ô
rộng là 2,4x 2,2m.
Trại lợn đực giống được bố trí thành 2 dãy chuồng song song, mỗi dãy có
18 ô chuồng , kích thước 2,65x2,65x1,25m( dài x rộng x cao). Đầu trại có khu
vực khai thác tinh, luôn được vệ sinh sạch sẽ có giá nhảy có thể điều chỉnh độ cao
phù hợp với thể trạng từng con đực, gần trại đực giống có nhà pha chế tinh sau
khi khai thác.
Trại nái đẻ được chia làm 2 dãy mỗi dãy bố trí 30 ô chuồng, nái đẻ và
nuôi con được nuôi cá thể trong mỗi ô chuồng đẻ với kích thước 2,2 x 2 x 0,92 m,
khung dành cho nái đẻ nằm ở giữa có kích thước 2,2 x 0,6 m, phần còn lại là đanh
nhựa dành cho heo con. Lồng úm được bố trí trong mỗi ô chuồng đẻ với diện tích
0,8 x 0,5 x 0,5 m, được trang bị bóng đèn sưởi ấm công suất100W, và có hệ thống
che chắn gió, máng ăn lợn con được làm bằng nhựa gắn cố định trên vách ngăn 2
ô liền kề nhau để lợn con 2 ô chuồng có thể cùng ăn.
Nước uống cho lợn được cung cấp tự do bằng hệ thống ống dẫn và núm
uống, nước uống được cung cấp tự do cho từng ô cá thể. Lợn được cho ăn bằng
máng ăn hình bán nguyệt, thuận tiện cho việc cho ăn và vệ sinh máng sau mỗi lần
cho ăn. Trong mỗi trại đều được bố trí hệ thống thoát phân và nước tiểu ra hầm
Biogas, có hệ thống nước để tắm mát, hệ thống máy xịt sát trùng, xịt ghẻ định kì.
Nhiệt độ và tốc độ gió trong chuồng nuôi được điều khiển bởi hệ thống
quạt gió và giàn lạnh tự động (giàn lạnh được bố trí ở đầu dãy chuồng còn quạt
25

×