Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

công tác xóa đói giảm nghèo của hội phụ nữ huyện yên định (tỉnh thanh hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.54 KB, 69 trang )

A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, từ tổ tiên xa xua
đến con cháu ngày nay trên mọi lĩnh vực, ở mọi lứa tuổi thì phụ nữ ngày càng
khẳng định được vai trò to lớn của mình. Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử
dân tộc, người phụ nữ luôn biết lựa chọn chỗ đứng, lựa chọn con đường đi
đúng đắn vì lợi ích và hành phúc của dân tộc, của gia đình và của bản thân.
Đánh giá vai trò của người phụ nữ, Bác Hồ đã viết: “Dân tộc ta đời đời nhớ ơn
các bà mẹ Việt Nam đã sinh ra và cống hiến những người con ưu tú đã và đang
chiến đấu anh dũng tuyệt với, bảo vệ non sông gấm vọc để lại”. Trong lịch sử
cách mạng Việt Nam, người phụ nữ có vai trò rất quan trọng, họ không những
làm nên hậu phương vững chắc mà còn là những người chiến sỹ dũng cảm
tham gia vào các cuộc đấu tranh cách mạng. Hòa bình lặp lại họ lại bắt tay vào
công cuộc xây dựng đất nước.
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, nguồn lực lao
động là một trong những vấn đề quan trọng và được chú ý quan tâm. Trong đó,
phụ nữ chiếm tỷ lệ không nhỏ. Nước ta có khoảng 80% dân số tập trung chủ
yếu ở nông thôn thì phụ nữ chiếm tới 51,34%, trong sản xuất nông nghiệp lao
động chiếm 72%.
1
Trong những năm gần đây, kinh tế nước ta đã có những
bước chuyển biến mạnh mẽ. Đặc biệt việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại lớn nhất thế giới WTO đang tạo ra những cơ hội lớn cho kinh tế cũng như
xã hội phát triển. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao. Tuy
nhiên, quá trình hội nhập thế giới cũng đang tạo ra những thách thức không
nhỏ đối với nước ta, nhất là vấn đề khoảng cách giàu nghèo. Một thực tế xảy ra
hiện nay: khoảng cách giàu nghèo ở nước ta ngày càng lớn. Đây là mối quan
tâm của không chỉ nước ta mà còn của nhiều nước trên thế giới. Để giải quyết
vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng chương trình Mục tiêu quốc gia
1
Tổng cục thống kê


Tình hình kinh tế xã hội tháng 12 năm 2011
1
về xóa đói giảm nghèo, nhằm hỗ trợ cho người nghèo có điều kiện để phát
triển kinh tế, tạo sự phát triển đồng đều trên cả nước.
Yên Định là một trong những huyện thuần nông của tỉnh Thanh Hóa.
Kinh tế của huyện chủ yếu là phát triển nông nghiệp, nên đời sống của người
dân trong huyện còn có nhiều khó khăn. Trong những năm qua, do tiếp thu tư
tưởng của Đảng và chính sách của Nhà nước, các cơ quan ban ngành của
huyện rất quan tâm đến vấn đề xóa đói giảm nghèo, cải tạo đời sống cho người
dân. Huyện Yên Định là một huyện thuần nông, phụ nữ chiếm 52% lao động
của cả huyện. Với truyền thống cần cù, chịu khó, nỗ lực vươn lên, phụ nữ đã
tích cực học tập, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, chăn
nuôi. Phụ nữ cũng là một lực lượng đông đảo tham gia thực hiện chuyển đổi cơ
cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi mang lại năng suất, chất lượng. Trong lĩnh vực
sản xuất kinh doanh đã xuất hiện nhiều điển hình phụ nữ làm kinh tế giỏi
Phụ nữ huyện đang ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc
phát triển kinh tế gia đình và đẩy mạnh hoạt động xã hội.
2
Để có được kết quả
như trên là nhờ vào hoạt động rất tích cực của Hội liên hiệp Phụ nữ huyện Yên
Định (tỉnh Thanh Hóa). Hội Phụ nữ huyện Yên Định được coi là một đơn vị đi
đầu trong hoạt động xóa đói giảm nghèo. Hội đã cùng với nhiều tổ chức khác
tổ chức nhiều chương trình, hoạt động nhằm hỗ trợ cho các hội viên của hội để
họ phát triển kinh tế. Nhằm đẩy mạnh phong trào “phụ nữ giúp nhau phát triển
kinh tế gia đình”. Tuy nhiên, hoạt động của hội vẫn còn nhiều khó khăn và hạn
chế cần phải khắc phục.
Nghiên cứu này nhằm làm rõ hoạt động của Hội LHPN huyện Yên Định
trong công tác XĐGN. Các hoạt động chính trong công tác xóa đói giảm nghèo
mà Hội LHPN huyện đang tiến hành? Trong quá trình thực hiện, Hội LHPN
huyện đã phối hợp cùng với những tổ chức, ban ngành nào? Hoạt động phối

hợp có đem lại hiệu quả cao không? Hội LHPN huyện Yên Định đã đạt được
những thành tựu và gặp phải khó khăn gì khi thực hiện công tác XĐGN?
2
Hội LHPN huyện Yên Định, Báo cáo của BCH Hội LHPN huyện khóa XXIII trình Đại hội Đại biểu phụ nữ
huyện lần thứ XXIV nhiệm kỳ 2011 – 2016, ngày 13/9/2011
2
Những lý do trên là cơ sở để t lựa chọn đề tài: Công tác xóa đói giảm nghèo
của hội phụ nữ huyện Yên Định (tỉnh Thanh Hóa)
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Xóa đói giảm nghèo là một chính sách lớn được Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm. Công tác xóa đói giảm nghèo không còn là nhiệm vụ riêng của Nhà nước hay
một quốc gai riêng lẻ, mà nó đã trở thành một vấn đề toàn cầu và mọi người đều cần
phải chung tay góp sức. Đối với Việt Nam, công tác xóa đói giảm nghèo đã và đang
đạt được những thành tựu đáng kể. Chuẩn nghèo của nước ta liên tục thay đổi và có
xu hướng tăng. Tuy nhiên, với mức chuẩn nghèo quy định như hiện nay của nước ta
thì vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình trung của thế giới.
Nếu trước đây, do quan niệm cổ hủ, lạc hậu, nên một thời gian dài, nước ta duy
trì tư tưởng việc kiếm tiền là do người đàn ông trong gia đình. Do đó, vai trò của
người phụ nữ chưa được đánh giá đúng, họ ít được tham gia vào việc phát triển kinh
tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do hoạt động tích cực của Liên hiệp Phụ nữ
về công tác bình bẳng giới, tuyên truyền về trách nhiệm cũng như vai trò của người
phụ nữ mà tỷ lệ phụ nữ tham gia sản xuất kinh tế ngày càng nhiều.
Huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa là một trong những địa phương đi đầu
trong toàn tỉnh về việc thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo. Trong những
năm qua, Đảng bộ huyện đã phối hợp cùng với các cơ quan đoàn thể thực hiện
công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những kết quả rất nổi bật
Xóa đói giảm nghèo đã không còn là một vấn đề mới đối với chúng ta.
Đã có rất nhiều nghiên cứu xung quanh vấn đề này như:
- “Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam”. TS. Lê Xuân Bá – TS.
Chu Tiến Quang – TS. Nguyễn Hữu Tiến – TS. Lê Xuân Đình (Nhà xuất bản

Nông nghiệp, Hà Nội, 2001).
- “Xóa đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam” của Nguyễn Hải Hữu.
Nghiên cứu về vai trò của hội phụ nữ trong công tác xóa đói giảm nghèo
đã thu hút được sự quan tâm của một số nhà Khoa học như:
3
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về: “Thực trạng nghèo đói và giải
pháp xóa đói giảm nghèo ở một số tỉnh ven biển miền Trung” do PGS. TS
Khổng Diễn làm chủ nhiệm.
- Đề tài nghiên cứu khoa học Bộ về: “Tình trạng nghèo đói trên thế giới
và Việt Nam: hiện trạng, vấn đề và các phương thức giải quyết” do Lương Thị
Thu Trang làm chủ nhiệm.
Đây là những nghiên cứu có tầm vĩ mô, khái quát. Đối với nghiên cứu
của mình, tôi tập trung vào công tác xóa đói giảm nghèo ở huyện Yên Định nói
chung, và hướng tới chủ thể thực hiện chính là Hội LHPN huyện Yên Định.
3. Mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động của Hội Phụ nữ Huyện
Yên Định trong hoạt động hỗ trợ hội viên phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu và nghiên cứu các văn bản liên quan đến chủ trương, chính
sách xóa đói giảm nghèo nói chung và địa phương nói riêng
- Tìm hiểu, đánh giá kết quả công tác xóa đói giảm nghèo của Hội phụ nữ
Huyện, chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế của hoạt động.
- Tổng hợp, đánh giá đưa ra những khuyến nghị giải pháp nhằm nâng cao
hoạt động của Hội phụ nữ Huyện Yên Định trong công tác xóa đói giảm
nghèo.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động của Hội Phụ nữ trong việc thực hiện chính sách xóa đói giảm

nghèo.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Hội Phụ nữ huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
4
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
- Thời gian: 2008 – 2011.
- Nội dung: Tập trung một số chương trình, hoạt động nằm trong nội
dung thực hiện công tác XĐGN của Hội LHPN huyện Yên Định như: chính
sách hỗ trợ y tế, chính sách hỗ trợ khuyến nông – lâm – ngư nghiệp, chương
trình hỗ trợ hội viên phát triển kinh tế. Từ đó đánh giá được hiệu quả cũng như
hạn chế của công tác XĐGN mà Hội LHPN huyện đã và đang tiến hành thực
hiện.
5. Mẫu nghiên cứu
Hội LHPN huyện Yên Định và một số chi hội
6. Vấn đề nghiên cứu
- Nghiên cứu hoạt động của Hội phụ nữ Huyện Yên Định trong công tác xóa
đói giảm nghèo như thế nào?
- Làm thế nào để công tác xóa đói giảm nghèo của Hội Phụ nữ Huyện Yên
Định đạt hiệu quả cao?
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp định lượng và phân tích tài liệu có sẵn
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
8. Giả thuyết nghiên cứu
- Hội viên Hội phụ nữ Huyện Yên Định, Tỉnh Thanh Hóa hoạt động tích
cực, có vai trò trong công tác xóa đói giảm nghèo, vì vậy chị em phụ nữ có điều
kiện để ổn định đời sống, phát triển kinh tế.
- Hoạt động của Hội phụ nữ huyện còn chưa đồng đều, chưa có sự liên kết với
các tổ chức khác. Do đó việc thực hiện các hoạt động: vay vốn, chuyển giao khoa
học kỹ thuật và tạo việc làm cho hội viên còn nhiều hạn chế.

9. Kết cấu của khóa luận
MỞ ĐẦU
5
NỘI DUNG
- Chương 1: Tổng quan về xóa đói giảm nghèo và vị trí của hội LHPN trong
công tác xóa đói giảm nghèo
- Chương 2: Hoạt động của Hội LHPN trong công tác XĐGN. Thực trạng và
giải pháp.
KẾT LUẬN
B – PHẦN NỘI DUNG
6
CHƯƠNG 1 – KHÁI LUẬN VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ VAI
TRÒ CỦA HỘI PHỤ NỮ TRONG CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO
1.1 Khái luận về XĐGN
1.1.1 Khái niệm về nghèo đói
Nghèo đói được coi là một vấn đề kinh tế - xã hội mang tính chất toàn
cầu. Nghèo đói không chỉ là vấn đề tồn tại ở những nước kém phát triển, mà
ngay ở những nước có nền kinh tế phát triển thì nghèo đói vẫn là một vấn đề
đang tồn tại và cần được giải quyết. Đối với những nước có nền kinh tế kém
phát triển, tỷ lệ người nghèo cao thì mục tiêu chung hướng đến sẽ là giảm tỷ lệ
người nghèo, nâng cao chất lượng sống cho người dân, đảm bảo cho người dân
có được mức sống cơ bản nhất. Đối với những nước có nền kinh tế phát triển,
thu nhập bình quân trên đầu người thuộc diện cao thì vẫn không thể tránh khỏi
việc trong xã hội tồn tại một bộ phận dân cư bị đánh giá là nghèo.
3
Và đặc biệt,
đối với những nước có nền kinh tế càng phát triển thì khoảng cách giàu nghèo
càng cao. Do đó, đối với các nước thuộc nhóm này thì sẽ hướng đến mục tiêu
chung là xóa nghèo, rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, tạo

sự công bằng trong xã hội đối với mọi người dân. Như vậy, nghèo đói là một
vấn đề mang tính toàn cầu, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của một
quốc gia. Tuy nhiên, có rất nhiều quan niệm khác nhau về nghèo đói, ở mỗi
khu vực, ở mỗi hoàn cảnh khác nhau thì lại có những quan niệm nghèo đói
khác nhau và cũng sẽ có những biện pháp thực hiện xóa đói giảm nghèo khác
nhau.
Theo tác giả cổ Trung Quốc cho rằng: “ những người vẫn đang lo toan
cho bữa ăn đó là người nghèo, cuộc sống đới với người nghèo chỉ là sinh tồn
mà thôi”.
4
Theo Robert McNamara, khi còn là giám đốc của Ngân hàng Thế
giới, ông đã cho rằng: nghèo đói tuyệt đối là sống ở ranh giới ngoài cùng của
3
Nguyễn Hữu Tiến (2010), Tập bài giảng Chính sách Xóa đói giảm nghèo Nhà xuất bản Đại học Quốc gia,
Hà Nội, trang 7
4
/>7
tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh
tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt
qúa sức tưởng tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí
thức chúng ta”. Theo Word Bank: “Nghèo là đói, thiếu nhà, bệnh không được
đến bác sỹ, không được đến trường, không biết đọc, biết viết, không có việc
làm, lo sợ cho cuộc sống tương lai, mất con do bệnh hoạn, ít được bảo vệ
quyền lợi và tự do”.
5
Theo các quan niệm trên, nghèo đói là sự thiếu thốn về cả
vật chất và phi vật chất. Vật chất bao gồm những điều kiện như nhà ở, lương
thực, phương tiện đi lại,… Phi vật chất là những yếu tố liên quan đến đời sống
tinh thần của con người: không được đến trường, không được tiếp cận với các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, không được tham gia các dịch vụ vui chơi, giải trí.

Một chuyên gia của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) ông Abapia Sen –
người nhận giải thưởng Noben 1998 thì cho rằng: nghèo đói là sự thiếu cơ hội
lựa chọn tham gia vào các quá trình phát triển của cộng đồng.
6
Theo quan điểm
này, những người nghèo do bị thiếu thốn về cuộc sống nên không thể có điều
kiện được tham gia với cộng đồng trong việc phát triển chung. Do đó, khoảng
cách giữa người giàu và người nghèo càng tăng, khoảng cách vê trình độ dân
trí cũng tăng cao.
Theo báo cáo gần đây của Liên hợp quốc, thì nhấn mạnh sự cần thiết đưa
phương pháp tiếp cận nghèo đói trên cơ sở quyền lợi của con người, cụ thể: -
Tự do: con người có quyền có một cuộc sống không bị đói khổ và bị đe dọa do
bạo lực, chống đối và bị tổn thương Bình đẳng: mọi người đều có quyền
hưởng thụ các thành quả của xã hội, có quyền tham gia vào các hoạt động
chung Sự khoan dung: mọi người cần phải được tôn trọng, bao gồm cả niềm
tin, văn hóa và ngôn ngữ. Theo quan điểm này, nghèo đói được nhìn nhận một
cách toàn diện hơn, không chỉ về mặt đời sống vật chất mà cả tinh thần và
ngôn ngữ.
7
5
/>6
Tài liệu tập huấn dánh cho cán bộ làm công tác XĐGN cấp tỉnh, huyện, Nhà xuất bản Lao động – xã hội, Hà
Nội, 2004, trang 20
7
Tài liệu nhóm nghiên cứu, Xác định chuẩn nghèo của Việt Nam thời kỳ 2006 – 2010, Thuộc ban chỉ đạo
Chương trình quốc gia về XĐGN giai đoạn 2006 – 2010 (Báo cáo giai đoạn 1 – tháng 7/ 2004)
8
Như vậy, khi nói đến nghèo đói là nói đến sự “thiếu hụt” của con người.
Ở mỗi xã hội thì sẽ có một chuẩn riêng để đánh giá mức độ nghèo riêng. Khi
người dân không đủ những chuẩn chung đó và bị rơi vào tình trạng thiếu hụt

một hay nhiều yếu tố theo chuẩn đề ra thì họ sẽ bị coi là rơi vào tình trạng
nghèo đói. Những chuẩn này được đề ra dựa trên những điều kiện cụ thể về
kinh tế, xã hội của từng không gian, thời gian cụ thể và phải được xã hội thừa
nhận.
Đối với ở Việt Nam: Chuẩn nghèo Việt Nam là một tiêu chuẩn để đo
lường mức độ nghèo của các hộ dân tại Việt Nam. Chuẩn này khác với chuẩn
nghèo bình quân trên thế giới. Theo quyết định của thủ tướng chính phủ Việt
Nam 170/2005/QĐ-TTg ký ngày 08 Tháng 07 năm 2005 về việc ban hành
chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010:
• Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ
200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
• Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ
260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo.
8
Chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015 theo Chỉ thị số
175/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, mức chuẩn nghèo và cận nghèo được
xác định:
• Khu vực nông thôn: những hộ có thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/ người/ tháng trở xuống là hộ nghèo. Những hộ có thu nhập bình quân từ
401.000 đồng đến 520.000 đồng/ người/ tháng là hộ cận nghèo.
• Khu vực thành thị: những hộ có thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/ người/ tháng trở xuống là hộ nghèo. Những hộ có thu nhập bình quân từ
501.000 đồng đến 650.000 đồng/ người/ tháng là hộ cận nghèo.
Chuẩn nghèo được thay đổi theo từng giai đoạn nhất định. Chuẩn nghèo
ngày càng tăng thể hiện sự nỗ lực lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
trong việc thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo.
8
/>9
1.1.2 Những đặc trưng cơ bản của nghèo đói.

1.1.2.1 Đặc trưng về nhân khẩu học
Các hộ thuộc diện nghèo thường có số nhân khẩu trong gia đình cao hơn
bình quân so với các hộ gia đình bình thường.
9
Nguyên nhân của tình trạng này
là do người nghèo thường đẻ nhiều, đẻ dày. Đây là vừa là nguyên nhân vừa là
hệ quả của nghèo đói. Mức độ hiểu biết của các gia đình nghèo về sinh sản còn
nhiều hạn chế, lại thêm những quan niệm lạc hậu nên nhiều gia đình vẫn không
nhận thức được hệ quả của việc gia tăng nhân khẩu. Theo đó, những hộ gia
đình nghèo đông con sẽ kéo theo tỉ lệ người ăn theo cao, làm cho chất lượng
cuộc sống bị ảnh hưởng sâu sắc. Việc các hộ gia đình có đông con nhưng lại
thiếu nguồn lao động là một nghịch lý đang xảy ra ở nước ta.
Biểu 1: Cơ cấu phân theo giới tính của Việt Nam
Đơn vị: %
Năm
Giới
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
Nam 49.21 49.21 49.29 49.43 49.46
Nữ 50.79 50.79 50.71 50.57 50.54
(Nguồn:Tổng cục thống kê)
Theo cơ cấu dân số Việt Nam phân theo giới thì tỷ lệ nữ luôn chiếm tỷ lệ

cao hơn nam. Trong gia đình, người phụ nữ là người có vai trò rất quan trọng
trong việc duy trì giống nòi và thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Là người vợ,
người mẹ trong gia đình, người phụ nữ cần ý thức được những hậu quả của
việc sinh đẻ không có kế hoạch. Từ đó để có thể hạn chế và điều chỉnh mức
sinh cho phù hợp với hoàn cảnh gia đình. Tuy nhiên, để có thể thực hiện tốt
công tác này thì cũng cần có sự phối hợp từ người chồng, người cha trong gia
đình.
1.1.2.2 Sự tiếp cận giáo dục đối với người nghèo còn hạn chế
9
Nguyễn Hữu Tiến (2010), Tập bài giảng Chính sách Xóa đói giảm nghèo Nhà xuất bản Đại học Quốc gia,
Hà Nội, trang 22
10
Đây là một hệ quả của việc đông con trong đối với các gia đình thuộc
diện nghèo. Vì nghèo đói, nên nhiều gia đình không có khả năng cho con tham
gia theo học mà phải ở nhà để tham gia vào sản xuất kinh tế,… Trình độ dân trí
thấp, nên người nghèo ít có khả năng tiếp cận với các tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, do đó sản xuất chính của họ vẫn chủ yếu là nông nghiệp thuần túy. Với
phương thức sản xuất nông nghiệp truyền thống thì người nghèo khó có thể
nâng cao được hiệu quả kinh tế cũng như năng suất lao động. Vì vậy, đời sống
vẫn không được cải thiện, thu nhập vẫn thấp thì việc trang trải cho các nhu cầu
thiết yếu của sinh hoạt hằng ngày đã khó, còn nói gì đến việc đầu tư cho con
cái học hành. Và cứ như thế, người nghèo sẽ bị rơi vào một cái vòng luẩn quẩn
của nghèo đói từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trong nhiều gia đình nông thôn hiện nay vẫn tồn tại tư tưởng “trọng nam
khinh nữ”. Do đó, người phụ nữ ít được tiếp xúc với các dịch vụ của giáo dục.
Hơn nữa, nữ giới là đối tượng hay bị bỏ học hơn nam giới. Vì vậy, những kiến
thức của phụ nữ về các vấn đề xã hội, về trình độ chuyên môn còn rất hạn chế.
Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của hội LHPN. Bởi hoạt động của
hội cần có sự phối hợp và hỗ trợ của nhiều ban ngành, đoàn thể khác nhau. Do
đó, đòi hỏi các cán bộ và các hội viên Hội LHPN cần có một trình độ nhất định

để có thể tuyên truyền, giải thích cho các chị em hiểu rõ hơn về các chương
trình, hoạt động của Hội. Đồng thời, các hội viên cũng cần phải có hiểu biết để
có thể nắm bắt được những chủ trương mà Hội phổ biến.
1.1.2.3 Người nghèo dễ bị tổn thương.
Khi bị rơi vào tình trạng nghèo đói, con người sẽ bị thiếu thốn rất nhiều
thứ để đảm bảo cho cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Và khi đó, người nghèo sẽ
dễ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố cả về chủ quan và khách quan tác động vào.
Đứng trước những khó khăn, rủi ro như: bệnh tật, thiên tai,… thì người
nghèo là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc nhất. Đối với các hộ
11
nghèo thì việc trang trải cho cuộc sống hằng ngày đã là một khó khăn lớn, họ
không có dự trữ để phòng chống cho những rủi ro có thể xảy ra. Do đó, nếu
trong xã hội có biến động như: lạm phát, suy thoái kinh tế,…
Đối với người phụ nữ, theo những quan điểm truyền thống thì họ là “phái
yếu” trong xã hội. Tuy nhiên, với những hoạt động tích cực, cùng những thành
tựu đạt được trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, vai trò của người
phụ nữ trong gia đình và trong xã hội ngày càng được nâng cao. Giờ đây, phụ
nữ nghèo đã được đứng ra để vay vốn, được tham gia các lớp chuyển giao
khoa học kỹ thuật, được tạo cơ hội việc làm,… để người phụ nữ có thể chủ
động và độc lập trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình.
1.1.2.4 Người nghèo không có tiếng nói, không có địa vị trong xã hội
Người nghèo được coi là nhóm yếu thế trong xã hội. Do hạn chế về trình
độ dân trí nên người nghèo ít khi được tham gia đóng góp vào các vấn đề của
xã hội. Nguyên nhân ở đây là do bản thân người nghèo không có những hiểu
biết cơ bản về các vấn đề xã hội nên khi tiếp xúc với mọi người xung quanh,
cũng như tiếp xúc với một sự kiện xã hội nào đó thì người nghèo thường tỏ ra
rụt rè.
Hằng năm, có rất nhiều chương trình nhằm thực hiện mục tiêu xóa đói
giảm nghèo. Tuy nhiên, những chương trình đó lại đi vào thất bại và người
nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Nguyên nhân dẫn đến những thất bại của các

chương trình đó là do người nghèo không biết sử dụng những nguồn vốn được
hỗ trợ, không hiểu được những cách thức triển khai của chương trình,… Tóm
lại là những chương trình trên được đưa ra nhưng hoàn toàn không phù hợp
với năng lực cũng như điều kiện của người nghèo.
Trong thực tế, vai trò của người phụ nữ trong sản xuất gia đình và các
hoạt động xã hội còn rất nhiều hạn chế. Người phụ nữ chưa thể phát huy hết
năng lực cũng như trình độ của mình. Đó là chưa kể đến phụ nữ nghèo, đây là
một đối tượng yếu thế trong xã hội và rất cần được quan tâm. Những tư tưởng
lạc hậu, những quan niệm cổ hủ đã làm cho người phụ nữ nghèo trở nên tự ti
12
với chính bản thân mình, làm cho họ có tâm lý mạc cảm với mọi người xung
quanh. Vì vậy, cần có cái nhìn đúng đắn hơn về người phụ nữ nói chung và đối
với người phụ nữ nghèo nói riêng. Đây là một lực lượng tiềm năng cần phải
được quan tâm sâu sắc hơn.
1.1.2.5 Người nghèo thường tập trung chủ yếu ở nông thôn, vùng sâu,
vùng xa
Biểu 2: Cơ cấu dân số phân theo khu vực của Việt Nam
Đơn vị: %
Năm
Khu vực
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010

Nông thôn 72.34 71.8 71.01 70.26 69.83
Thành thị 27.66 28.2 28.99 29.74 30.17
(Nguồn: Số liệu thống kê của Tổng cục thống kê)
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục thống kê, năm 2010 dân số nước ta có
30,17% dân số tập trung ở thành thị, còn lại 69,83% dân số tập trung ở nông
thôn. Như vậy, nông thôn là nơi tập trung đông dân số của cả nước. Trong khi
đó, phần lớn dân cư tập trung ở nông thôn là nông dân, những người sản xuất
nông nghiệp. Do chưa có điều kiện để áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ
thuật vào sản xuất nên sản xuất nông nghiệp còn chưa đạt hiệu quả cao, sản
xuất không ổn định, năng suất thấp.
Miền núi, vùng sâu vùng xa là những địa bàn có địa hình khó khăn cho
việc phát triển kinh tế, văn hóa,… Phần lớn dân cư tập trung ở vùng núi, vùng
xâu vùng xa có nền kinh tế còn kém phát triển, trình độ dân trí thấp.
Bên cạnh đó, trong xu hướng đô thị hóa hiện nay thì tỷ lệ nữ ở nông thôn
ngày càng tăng. Phần lớn những người di dân đến các thành phố, khu công
nghiệp để tìm kiếm việc làm là nam giới. Đây là thực tế dẫn đến sự chênh lệch
về tỷ lệ nam và tỷ lệ nữ giữa các khu vực như hiện nay.
1.1.3 Tổng quan về công tác xóa đói giảm nghèo.
13
Công tác xóa đói giảm nghèo là quá trình đưa ra chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho
người dân, đặc biệt là các hộ nghèo, xã nghèo trên cả nước. Công tác xóa đói
giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề
đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Trong những năm qua, Đảng và
Nhà nước đã có nhiều chính sách và biện pháp thích hợp để tiến hành xóa đói
giảm nghèo, kết hợp phát huy nội lực với trợ giúp quốc tế. Nhà nước đã tập
trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và trợ giúp về điều kiện
sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn
lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững đồng thời đẩy mạnh
việc thực hiện chính sách đặc biệt về trợ giúp đầu tư phát triển sản xuất, nhất là

đất sản xuất; trợ giúp đất ở, nhà ở, nước sạch, đào tạo nghề và tạo việc làm cho
đồng bào nghèo trong các dân tộc thiểu số. Nhà nước đã ban hành nhiều chính
sách khuyến khích mạnh các doanh nghiệp, trước hết các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, các hộ giàu đầu tư vốn phát triển sản xuất ở nông thôn, nhất là nông thôn
vùng núi.
Ở Việt Nam, xóa đói giảm nghèo luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm. XĐGN được xác định là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã
hội và tăng trưởng kinh tế. Một nước phát triển là một nước mà không còn
nghèo đói, người dân được bình đẳng tham gia vào các dịch vụ xã hội. Và đối
với một quốc gia như Việt Nam thì truyền thống lâu đời của nền nông nghiệp
lúa nước đã ăn sâu vào tư tưởng của người dân. Trong xã hội vẫn tồn tại những
tư tưởng trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không được coi trọng trong việc
đóng góp vào sản xuất kinh tế. Tuy nhiên, từ Đại hội Đảng lần thứ VI, VII,VIII
và IX, Đảng ta đều khẳng định: cùng với quan điểm đổi mới toàn diện, tăng
trưởng kinh tế phải đi đôi với XĐGN, thực hiện công bằng xã hội, bình đẳng
giới, giảm sự phân biệt giàu nghèo. Đảng đã chủ trương tập trung mọi nguồn
lực để tham gia công tác XĐGN. Và Hội LHPN Việt Nam cũng là một nguồn
lực quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu quốc gia về XĐGN. Tính đến
14
năm 2006, Hội đã giúp được gần 800.000 hộ nghèo, trong đó có hơn 114.000
hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ đã thoát được nghèo và ổn định sản xuất, tăng
thu nhập.
Huyện Yên Định là một trong những huyện của tỉnh Thanh Hóa đạt được
nhiều thành tựu nổi bật trong công tác xóa đói giảm nghèo những năm qua.
Hiện nay, huyện đang thực hiện một số chính sách, chương trình, dự án giảm
nghèo như:
- Chính sách, dự án tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất,
tăng thu nhập
- Các chính sách tạo cơ hội cho người nghèo được tiếp cận với các dịch
vụ xã hội như: tổ chức các lớp tập huấn cho người nghèo để họ được tiếp thu

kiến thức khoa học, kỹ thuật, thực hiện chính sách cho vay vốn ưu đãi tín dụng
cho hộ nghèo, vệ sinh nước sạch môi trường, giao thông thủy lợi, xây dựng cơ
sở vật chất hạ tầng.
- Các dự án nâng cao năng lực và nhận thức được nhân lên rõ rệt: tiếp tục
thực hiện công tác tập huấn nâng cao năng lục cho cán bộ cơ sở thực hiện tốt
chương trình giảm nghèo, tuyên truyền phổ biến về đường lối chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức cho nhân dân.
Biểu 3: Số liệu thống kê tỷ lệ hộ nghèo của huyện Yên Định
Đơn vị: %
TT Năm Tỷ lệ hộ nghèo
15
1 2006 23,03
2 2007 19,23
3 2008 15,15
4 2009 13,23
5 2010 9,00
(Báo cáo Tổng kết chương trình mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2006 –
2010, Phòng LĐTB&XH)
Trong giai đoạn năm 2006 – 2010, huyện đã đạt được những kết quả nổi
bật: tỉ lệ hộ nghèo của huyện có xu hướng giảm và có tỷ lệ giảm nhanh chóng.
Điều đó thể hiện rằng công tác xóa đói giảm nghèo của huyện được tiến hành
rất có hiệu quả. Năm 2006, huyện đã hỗ trợ xây dựng nhà ở cho 8 hộ dân tộc
nghèo với tổng chi phí là 40.000.000 đồng. Năm 2007, hỗ trợ xây dựng nhà ở
cho 129 hộ dân tộc nghèo với tổng chi phí là 645.000.000 đồng.
10
Ngoài ra,
huyện còn tập trung vào một số chương trình nhằm nâng cao chất lượng đời
sống của các hộ nghèo, tạo điều kiện để các hộ nghèo có khả năng vươn lên và
phát triển kinh tế, thoát nghèo bền vững.
Trong những năm qua, công tác xóa đói giảm nghèo của huyện đã có

những tác động không nhỏ đến hiệu quả kinh tế - xã hội. Trong đó, công tác
xóa đói giảm nghèo đã tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thông
qua việc như: nâng cao đối sống, cải thiện dân sinh, đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng. Bên cạnh đó, công tác xóa đói giảm nghèo còn giúp ổn định hơn đời sống
xã hội của người dân địa phương, giúp cho nhận thức của người dân được nâng
cao, tinh thần phấn khởi hơn, phát triển văn hóa và trật tự an toàn xã hội được
đảm bảo.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên thì công tác xóa đói giảm
nghèo của huyện Yên Định vẫn còn gặp phải những tồn tại. Thứ nhất là những
bất cập trong chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo như: nguồn cho các
10
UBND huyện Yên Định, Báo cáo tổng kết chương trình mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2006-2010
16
hộ nghèo vay còn quá ít, không đáp ứng đủ nhu cầu thực tiễn, các dự án cho
vay trên địa bàn huyện còn chậm. Thứ hai là những tồn tại trong phân cấp quản
lý và bố trí nguồn vốn để thực hiện. Thứ ba là việc phối hợp giữa các tổ chức
đoàn thể còn chưa nhịp nhàng, đôi khi còn chậm. Thứ nữa là sự chồng chéo
trong bố trí nguồn nhân lực thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo còn chưa
hiệu quả, nhận thức của các cấp và người dân còn thiếu khoa học về hoạt động
của công tác xóa đói giảm nghèo, việc huy động nguồn lực tại chỗ để thực hiện
chính sách còn nhiều hạn chế.
Để cho công tác XĐGN thực sự thu được kết quả thì bên cạnh việc huy
động các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân thì còn cần phải có sự phối hợp
thực hiện giữa các cấp, các bộ, ngành, tổ chức đoàn thể xã hội có liên quan.
Hội LHPN đóng một vai trò quan trọng trong việc phát huy được năng lực của
các hội viên để góp phần thực hiện chính sách XĐGN.
1.1.4 Vị trí và vai trò của công tác XĐGN
Công tác XĐGN có một vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc phát
triển của đất nước nói chung và của từng địa phương nói riêng.
Về mặt kinh tế: Thực hiện tốt công tác XĐGN sẽ làm cho đời sống của

người dân được nâng cao, kinh tế hộ ổn định và đưa nền kinh tế chung của đất
nước phát triển. Đồng thời, công tác XĐGN cũng có những tác động ngược lại
làm kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nếu thực hiện không có hiệu quả.
- Thứ nhất: công tác XĐGN hướng đến đối tượng chung là người nghèo.
Một trong những nguyên nhân để các cá nhân bị rơi vào cảnh nghèo là do
không có thu nhập. Do đó, công tác XĐGN hướng đến tạo thêm công ăn việc
làm cho người nghèo để họ có thêm thu nhập.
- Thứ hai: hằng năm, Đảng và Nhà nước ta đang tập trung một nguồn vốn
rất lớn cho việc thực hiện công tác XĐGN. Công tác XĐGN thực hiện tốt, tỷ lệ
hộ nghèo giảm thì sẽ giúp giảm gánh nặng về tài chính cho nền kinh tế của
nước ta. Người nghèo sẽ được thoát nghèo và có khả năng tự lập về kinh tế mà
không cần đến sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.
17
- Thứ ba: hiện nay, khoảng cách giàu nghèo đang là một vấn đề đáng
được quan tâm. Công tác XĐGN sẽ giúp thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Theo đó, mọi người dân trong xã hội sẽ được hưởng những dịch vụ xã hội
tương đương nhau, góp phần thực hiện bình đẳng trong xã hội.
Về mặt chính trị - xã hội: nghèo đói cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến những bất ổn về chính trị - xã hội. Do đó, việc thực hiện tốt công
tác XĐGN sẽ tạo điều kiện để giữ vững được chính trị, ổn định được xã hội.
Và khi chính trị được giữ vững, xã hội được ổn định thì nền kinh tế mới có
điều kiện để phát triển. Tuy nhiên, nếu công tác XĐGN không được thực hiện
tốt thì sẽ làm cho người dân mất lòng tin ở Đảng và Nhà nước. Đây sẽ là một
khe hở nguy hiểm mà các thế lực thù địch bên ngoài luôn muốn hướng đến.
Bên cạnh đó, đói nghèo cũng đang là một nguyên nhân làm cho các tệ
nạn xã hội có cơ hội để phát triển. Do không có việc làm, nên người nghèo dễ
rơi vào những tệ nạn xã hội như: cờ bạc, ma túy, mại dâm,… Và khi không có
tiền để phục vụ những nhu cầu trên thì lại phát sinh những hiện tượng: bạo
hành gia đình, giết người cướp của,… Đây là một mối lo lớn cần phải nhanh
chóng được ngăn chặn. Do đó, thực hiện tốt công tác XĐGN sẽ giúp hạn chế

được những tệ nạn phát sinh trong xã hội.
Về mặt văn hóa – giáo dục: một trong những đặc trưng của người nghèo
là sự tiếp cận về giáo dục của người nghèo còn hạn chế. Do đó, thực hiện tốt
công tác XĐGN sẽ tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận gần hơn với
các dịch vụ giáo dục, cơ hội được tham gia vào các hoạt động văn hóa của xã
hội. Từ đó sẽ làm cho đời sống tinh thần và trình độ dân trí của người dân
được nâng cao. Giúp cho người nghèo có cơ hội được tham gia, đóng góp vào
sự phát triển chung của đất nước.
1.2 Vai trò của hội LHPN trong công tác XĐGN
1.2.1 Hội phụ nữ
Hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam là hệ thống các thiết chế chính trị,
chính trị xã hội và các thiết chế xã hội khác gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
18
quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội rộng lớn của nhân dân; cơ chế vận hành các thiết chế đó dưới sự
quản lý của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi hoạt động của hệ thống chính trị -
xã hội đều hướng đến thực hiện vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
11
Trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay có thể
phân biệt ba loại thiết chế là:
- Tổ chức chính trị (Đảng cộng sản Việt nam), Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam.
- Tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng
như Đoàn thanh niên, Hội LHPN, Công đoàn, Hội nông dân, Hội cựu chiến
binh và một số tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp như Liên hiệp các hội
khoa học, kỹ thuật Việt Nam; Liên hiệp các hội hữu nghị Việt Nam; Hội nhà
báo Việt Nam…
- Tổ chức xã hội: các hiệp hội kinh tế, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và
các tổ chức xã hội khác,…

Các tổ chức chính trị - xã hội thống nhất giữa hai mặt chính trị và xã hội.
Điều này thể hiện qua sự tập hợp đoàn kết các lực lượng quần chúng đông đảo
để thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Phương thức tổ
chức và hoạt động của các tổ chức này tuy khác với tổ chức Đảng và các cơ
quan Nhà nước nhưng đều gắn chặt với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
do Đảng và Nhà nước giao phó. Các tổ chức chính trị - xã hội là hình thực
động viên, triển khai nguồn lực con người cho các mục tiêu xây dựng và bảo
vệ đất nước. Cùng với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hợp
thành hệ thống chính trị Việt Nam, với tính chất chính trị xã tính xã hội rộng
lớn, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò là người tổ chức, vận động đông
11
/>option=com_content&view=article&catid=104:ctc20062&id=365:snvhtct-xhovnhn&Itemid=109 Trần Thái
Dương, Suy nghĩ về hệ thống chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí KHPL số 2/2006
19
đảo quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ đặt ra đối với cách mạng Việt
Nam thông qua những hình thức phù hợp.
Hội phụ nữ (Hội liên hiệp phụ nữ) là một tổ chức chính trị xã hội, tập hợp
rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Hội là thành viên của Mặt trận tổ quốc
và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á).
Hội phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giới nữ, có chức
năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng
của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng. Hội đoàn
kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Hội tham gia tích cực trong các hoạt động và hòa bình đoàn kết hữu nghị
giữa các dân tộc và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Hoạt động chủ yêu là vì sự
bình đẳng tiến bộ và phát triển phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp pháp và
chính đảng của phụ nữ. Tổ chức của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam bao gồm
Hội phụ nữ ở các cấp hành chính (Tỉnh/ thành phố, huyện, xã, thôn)

Hội thực hiện các nhiệm vụ chính như:
- Tuyên truyền, vận động, giáo dục phụ nữ giữ gìn, phát huy phẩm chất
đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; tổ chức, tạo điều kiện để
phụ nữ nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực về mọi mặt, tích cực thực hiện
các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
- Tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện luật
pháp, chính sách về bình đẳng giới, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của phụ nữ; tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về công tác phụ nữ nhằm
tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện bình đẳng và phát triển.
20
- Tập hợp các tầng lớp phụ nữ, phát triển hội viên, xây dựng tổ chức Hội
vững mạnh; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đa dạng các nguồn thu hợp pháp để xây dựng và phát triển quỹ hội bền
vững, hỗ trợ cho hoạt động của Hội.
- Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ
trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
1.2.2 Vai trò của hội phụ nữ
Tư tưởng coi nam giới là “trụ cột” còn phụ nữ luôn gắn với vai trò nội
trợ, chăm sóc gia đình đã gây ra cách nhìn lệch lạc về vai trò của mỗi giới dẫn
đến thiếu sự chia sẻ, trách nhiệm giữa nam giới và phụ nữ trong công việc gia
đình và tham gia các hoạt động xã hội. Tư tưởng này đã ảnh hưởng rất lớn đến
sự đóng góp vào việc phát triển kinh tế, cũng như sự tham gia của phụ nữ vào
các công việc của xã hội, làm hạn chế khả năng của người phụ nữ nói chung và
của các hội viên của hội phụ nữ nói riêng.
Hội LHPN là một trong những chủ thể quan trọng trong việc thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, Hội LHPN đã phối hợp với nhiều tổ
chức khác nhau để hỗ trợ cho các hội viên có điều kiện để phát triển kinh tế.
Hoạt động hỗ trợ vốn của Hội LHPN được triển khai từ khi thành lập hội (ngày

20/ 10/ 1930). Các chương trình hỗ trợ kinh tế do Hội LHPN Việt Nam phát
động đã thu hút được các hội viên tham gia, gia tăng số hội viên ở các cơ sở,
nâng cao vị thế của người phụ nữ trong xã hội. Trong những năm gần đây,
thực hiện chủ trương XĐGN của Đảng, Chính phủ và thực hiện Nghị quyết
TW 7 khóa IX, với chủ trương về cơ sở và tập trung cho cơ sở, nhằm đáp ứng
nhu cầu của phụ nữ nghèo, Hội LHPN Việt Nam đã đề ra chỉ tiêu trên 80% số
hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được Hội giúp đỡ. Các cấp Hội đã đẩy mạnh
các phong trào như: “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế”, “Giúp phụ nữ
nghèo có địa chỉ”, “Phụ nữ làm kinh tế giỏi”, và đã huy động được sự tham
21
gia đông đảo của các tầng lớp phự nữ vào các hoạt động XĐGN với nhiều hình
thức sáng tạo, đa dạng, phù hợp… Năm 2006, số vốn do các cấp Hội quản lý
đã lên tới 10.550 tỷ đồng, trong đó vốn vay từ Ngân hàng NN&PTNT và Ngân
hàng CSXH là hơn 9.000 tỷ đồng, chiếm hơn 86% trong tổng số vốn do các
cấp Hội quản lý. Riêng năm 2006, hưởng ứng đợt thi đua do Thủ tướng Chính
phủ phát động, các cấp hội đã đóng góp sửa và xây mới gần 3.000 ngôi nhà,
giúp chị em phụ nữ nghèo ăn cư, lạc nghiệp. Từ năm 2010 đến nay, Hội LHPN
Việt Nam đã tổ chức xây dựng thí điểm các mô hình hỗ trợ phụ nữ học nghề,
tạo việc làm tại Hà Nội, Quảng Bình và Thành phố Hồ Chí Minh. Hội cũng đã
tổ chức 30 cuộc tư vấn học nghề và lập nghiệp cho hơn 900 lượt phụ nữ tại
cộng đồng, tổ chức hội nghị khách hàng và tổ chức dạy nghề theo mô hình “3
trong 1” (dạy nghề, thực hành nghề và hỗ trợ việc làm).
12
Để tiếp tục thực hiện
hiệu quả công tác XĐGN trong thời gian tới, Hội LHPN Việt Nam tập trung
chỉ đạo một số hoạt động: tăng cường các biện pháp giúp phụ nữ nghèo có địa
chỉ, nhất là phụ nữ vùng sâu vùng xa. Phối hợp với các ban ngành, chính quyền
địa phương,… tiến hành rà soát lại danh sách hộ đói nghèo do phụ nữ làm chủ.
Bên cạnh đó, Hội tiếp tục duy trì phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh
tế”, tăng cường khai thác các nguồn vốn đặc biệt từ Ngân hàng CSXH, phát

triển quỹ “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”. Tiếp tục thực hiện tập huấn cho
chị em hội viên về các hình thức vay vốn, quản lý vốn, đào tạo nghề, giới thiệu
việc làm.
Thanh Hoá hiện có tới 53.000 phụ nữ nghèo làm chủ hộ. Bằng nhiều cách
làm, đặc biệt là mô hình Câu lạc bộ Phụ nữ xoá đói giảm nghèo đã và đang tạo
điều kiện cho phụ nữ nghèo trong tỉnh có điều kiện vươn lên thoát nghèo.
13
Công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh Thanh Hóa trong những năm qua được
phổ biến rộng rãi, thu hút nhiều ban ngành và quần chúng nhân dân tham gia.
12
Minh Nguyệt (Văn phòng
tổng hợp - Hội LHPN Việt Nam), Hội LHPN Việt Nam đẩy mạnh công tác dạy nghề và tạo việc làm cho lao
động nữ. Báo Hội LHPN Việt Nam, cập nhật ngày 14/10/2011
13
Mai Thị
Xường (Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Thanh Hóa), Phụ nữ Thanh Hóa với công tác XĐGN, Báo VOV Online ngày
2/10/ 2007
22
Đặc biệt, với sự tham gia tích cực của Hội LHPN tỉnh Thanh Hóa, trong những
năm gần đây, tỷ lệ hội viên phụ nữ nghèo đã giảm xuống đáng kể. Xuất hiện
nhiều tâm gương phụ nữ làm kinh tế giỏi, vươn lên phát triển kinh tế, tạo việc
làm cho nhiều lao động trong tỉnh. Để có được thành quả trên là nhờ vào sự chỉ
đạo của Đảng bộ tỉnh cùng với đội ngũ cán bộ Hội các cấp trong tỉnh. Hội
LHPN tỉnh Thanh Hóa rất coi trọng việc XĐGN, tạo điều kiện để các hộ phụ
nữ trong diện đói nghèo có điều kiện vươn lên thoát nghèo. Hội LHPN tỉnh
Thanh Hóa đã tiến hành thí điểm mô hình “Câu lạc bộ giảm nghèo” ở 8 xã đại
diện 8 huyện thuộc 4 vùng kinh tế trong tỉnh. Mỗi câu lạc bộ gồm 50 thành
viên do phụ nữ làm chủ. Tính đến từ tháng 9 năm 2010 đến nay, Hội LHPN
tỉnh đã thành lập các đoàn công tác, phối hợp với Hội LHPN huyện, xã tiến
hành khảo sát tại 218 xã của 21 huyện khó khăn, lựa chọn được 10.900 phụ nữ

nghèo làm chủ hộ tham gia Câu lạc bộ phụ nữ giảm nghèo. Hội đã phối hợp
cùng với Trung tâm khuyến nông, khuyến lâm… tổ chức tập huấn nâng cao
kiến thức chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, kiến thức về kỹ thuật
chăn nuôi, trồng trọt, trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả, xây dựng mô hình sản
xuất, chế biến nông, lâm sản. Hội thường xuyên tổ chức sinh hoạt văn hóa văn
nghệ đồng thời lồng ghép tuyên truyền kiến thức tổ chức cuộc sống gia đình,
kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho chị em hội viên. Hội LHPN tỉnh
thực hiện các chương trình ủy thác, phối hợp với Ngân hàng CSXH và Ngân
hàng NN&PTNT thực hiện cho hội viên vay vốn để đầu tư sản xuất, tạo việc
làm tăng thu nhập, từng bước nâng cao đời sống, giảm nghèo bèn vững. Hội
LHPN tỉnh đã tập trung vào hoạt động giới thiệu tạo việc làm cho các chị em
hội viên. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học
nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010 – 2015” đối với đời sống và sự phát triển
của phụ nữ, Hội LHPN tỉnh Thanh Hóa đã tích cực, chủ động phối hợp với các
ban ngành liên quan tham mưu cho UBND tỉnh kịp thời triển khai Đề án.
Trong những năm qua, Hội LHPN tỉnh Thanh Hóa đã phối hợp cùng với các
23
ban ngành tổ chức được 88 lớp dạy nghề cho 3.080 phụ nữ.
14
Nghề được các
cấp Hội chú trọng là: mây giang xiên, thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu cói,
móc hộp xuất khẩu, dệt thổ cẩm, thêu ren xuất khẩu,… Với thế mạnh của phụ
nữ là cần cù, chịu khó, khéo léo nên Hội đã hướng đến những nghề đào tạo rất
phù hợp, gây ra hứng thú cho chị em theo học.
Ngay từ khi Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của huyện Yên Định ra đời
ngày 10/06/1938, phụ nữ huyện Yên Định đã có mặt dưới ngọn cờ của Đảng.
Đến nay, Hội LHPN huyện Yên Định đã trải qua 23 kỳ đại hội. Trong suốt
chặng đường hoạt động, Hội đã tập hợp đoàn kết đông đảo các tầng lớp phụ nữ
tham gia, phát huy được truyền thống của người phụ nữ, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng địa phương. Cùng với Hội LHPN Việt Nam, ngay từ khi

thành lập, Hội LHPN huyện Yên Định đã chú trọng đến hoạt động hỗ trợ hội
viên phát triển kinh tế, giúp hội viên thoát nghèo, nâng cao thu nhập, ổn định
đời sống.
Thực hiện chỉ đạo chung của Hội LHPN tỉnh Thanh Hóa và Đảng bộ
huyện, Hội LHPN huyện Yên Định đã thực hiện rất có hiệu quả hoạt động hỗ
trợ vốn cho hội viên để phát triển kinh tế, hoạt động đào tạo nghề gắn với tạo
việc làm cho chị em phụ nữ, hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật,… Mục
đích chung của các hoạt động là tạo điều kiện thuận lợi để các hội viên hội phụ
nữ nói riêng và người nghèo nói chung có cơ hội vươn lên thoát nghèo, ổn
định đời sống, phát triển kinh tế.
14
Sao Thủy, Hội LHPN tỉnh
Thanh Hóa đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm, Báo Hội LHPN Việt Nam, cập nhật
ngày 3/12/2011
24
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LHPN
HUYỆN YÊN ĐỊNH TRONG CÔNG TÁC XĐGN VÀ MỘT SỐ
KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
2.1. Đặc điểm của huyện Yên Định
Huyện Yên Định là một huyện thuần nông, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ
phát triển còn chưa tương xứng với tiềm năng về lao động và đất đai của
huyện. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện lần thức XXIII, trong
năm qua, việc đổi mới cơ cấu mùa vụ, cây con được nông dân tích cực hưởng
25

×