Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số chức năng tim mạch, thần kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.21 MB, 178 trang )

Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé quèc phßng
häc viÖn qu©n y




nguyÔn thÞ hiªn






NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG
TIM - MẠCH, TÂM - THẦN KINH CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
Y THÁI BÌNH Ở TRẠNG THÁI TĨNH VÀ SAU KHI THI






LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC









HÀ NỘI - 2013


Bộ giáo dục và đào tạo bộ quốc phòng
học viện quân y



nguyễn thị hiên


NGHIấN CU MT S CH S CHC NNG
TIM - MCH, TM - THN KINH CA SINH VIấN I HC
Y THI BèNH TRNG THI TNH V SAU KHI THI


Chuyên ngành: Sinh lý học
Mã số: 62 72 01 07



luận án tiến sĩ Y học


Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
PGS. TS. Trần Đăng Dong
PGS. TS. V-ơng Thị Hòa





Hà nội - 2013
1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe không chỉ là vốn quí của mỗi cá nhân mà còn là nhân tố quan
trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong đó sinh viên là lực lƣợng
lao động chất lƣợng cao trong tƣơng lai của xã hội, là “nguyên khí” của mỗi
quốc gia, đặc biệt trong nền kinh tế tri thức ngày nay. Chăm sóc sức khỏe cho
sinh viên là nhiệm vụ quan trọng không chỉ của nhà trƣờng mà là của toàn xã
hội. Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ tri thức, đòi hỏi không chỉ tăng trƣởng số lƣợng tri
thức mà yêu cầu phải có sự thay đổi căn bản cách chiếm lĩnh và sử dụng tri
thức của ngƣời đƣợc đào tạo.
Thời đại ngày nay, thời đại của sự hội nhập, toàn cầu hóa với sự phát
triển vƣợt bậc của khoa học kỹ thuật, cùng với ô nhiễm môi trƣờng và yếu tố
nội tại trong cơ thể con ngƣời đã trở thành những tác nhân gây nên stress.
Năm 1992, Tổ chức Liên Hợp Quốc đã đƣa ra một bản báo cáo mang tên
“Bệnh tật trong thế kỷ XX”, trong đó có việc cảnh báo stress có thể mang
nhiều nguy cơ gây hại cho cuộc sống của con ngƣời ở thế kỷ XXI [108].
Stress tác động tới mọi tầng lớp trong xã hội, trong đó có sinh viên.
Cuộc sống của sinh viên ở các trƣờng đại học có nhiều yếu tố gây căng thẳng
(stressor) thần kinh - tâm lý, đặc biệt là đối với sinh viên các trƣờng đại học
Y. Ngoài các stressor chung ở mọi sinh viên (điều kiện sinh hoạt, học tập ),
sinh viên các trƣờng đại học Y là những ngƣời có thời gian học tập tại trƣờng
dài nhất với khối lƣợng kiến thức lý thuyết và thực hành rất lớn cùng với
nhiều kỳ thi, do đó chịu nhiều áp lực gây căng thẳng chức năng tâm lý cao và
trƣờng diễn [60], [81], [84], [85]. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy các
stressor có thể làm thay đổi chức năng hệ thống miễn dịch, thần kinh, tim
mạch và nội tiết của con ngƣời [58], [93], [94], [99], [103], [114], [119],
[131]. Tuy nhiên các tác động đó không phải tất cả là tiêu cực, nhiều nghiên

cứu xác nhận trạng thái stress có mức độ nhất định lại làm tăng khả năng tự
2

xoay xở với đòi hỏi thích nghi môi trƣờng, nhờ thế tạo điều kiện phát triển
tâm lý. Cuộc sống không có stress sẽ không có thách thức đòi hỏi phải vƣợt
qua, nên hạn chế việc nâng cao năng lực và trau dồi trí tuệ.
Stress là hiện thực của cuộc sống, vì vậy chúng ta cần phải hiểu sự đáp ứng
của cơ thể trong từng trạng thái căng thẳng. Muốn vậy phải lƣợng hóa đƣợc
mức độ stress bằng các chỉ số đo lƣờng khách quan. Ở Việt nam đã có một số
công trình nghiên cứu về stress nghề nghiệp của các nhà khoa học thuộc Viện
Khoa học kỹ thuật Bảo hộ lao động, Viện Y học lao động và Vệ sinh dịch tễ,
các nhà khoa học một số trƣờng đại học [6], [10], [18], [23]. Vấn đề stress ở
học sinh, sinh viên cũng đang đƣợc một số nhà khoa học quan tâm bởi những
hệ quả do stress gây ra nhƣ trầm cảm, lạm dụng chất gây nghiện, có hành vi
gây hấn hoặc thậm chí tự sát. Căng thẳng mạn tính ảnh hƣởng đến khả năng
giải quyết vấn đề cần đòi hỏi phải tƣ duy linh hoạt [84]. Tuy nhiên còn rất ít
nghiên cứu về đáp ứng của hệ thống nội tiết, tim mạch và thần kinh của cá thể
với trạng thái căng thẳng, trong đó có đối tƣợng là sinh viên. Xuất phát từ lý
do nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài "Nghiên cứu một số chỉ số chức năng
tim - mạch , tâm - thần kinh của sinh viên Đại học Y Thái Bình ở trạng thái
tĩnh và sau khi thi" nhằm góp phần xây dựng một số chỉ số sinh học ngƣời Việt
Nam hiện nay, làm cơ sở khoa học giúp các nhà giáo dục và y tế tìm các giải
pháp giảm bớt căng thẳng, duy trì sức khỏe thể chất, tinh thần và học tập tốt
hơn cho sinh viên.
Đề tài đƣợc tiến hành với các mục tiêu sau:
1. Xác định một số chỉ số tim - mạch, tâm - thần kinh ở trạng thái tĩnh của
sinh viên Đại học Y Thái Bình.
2. Đánh giá một số chỉ số tim - mạch, tâm - thần kinh và nội tiết tố sau hoạt
động trí tuệ (sau buổi thi) của sinh viên Đại học Y Thái Bình.
3


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TIM-MẠCH
Nhiều công trình của các tác giả trên thế giới cũng nhƣ trong nƣớc đã sử
dụng các chỉ số tim mạch để đánh giá trạng thái căng thẳng chức năng vì sự
thay đổi nhịp tim là phản ứng tổng hợp của toàn bộ cơ thể đối với bất kỳ tác
động nào của môi trƣờng bên ngoài. Những năm gần đây, ngoài phƣơng pháp
sử dụng những chỉ số đơn giản của hệ tim mạch nhƣ tần số nhịp tim (TSNT)
và huyết áp (HA), một số tác giả đã sử dụng các chỉ số thống kê toán học nhịp
tim (TKTHNT) của Baevski và cs [133] để đánh giá chức năng tim. Một số
nghiên cứu [18], [19], [20], [132], [133], [134] cho thấy căng thẳng trí tuệ và
stress cấp tính gây tăng chỉ số căng thẳng và giảm sự dao động nhịp tim.
1.1.1. Tần số mạch và huyết áp
*Tần số mạch
Tần số mạch hay tần số tim là số lần tim đập trong một phút. Bình
thƣờng tần số tim ở ngƣời trƣởng thành là 70 - 80 lần/phút, thông số này ở nữ
cao hơn so với ở nam trong cùng một độ tuổi.
Tần số tim thay đổi dƣới tác động của nhiều yếu tố. Làm việc căng thẳng
gây tăng nhịp tim là do kích thích hệ thần kinh giao cảm, đồng thời gây ức
chế các tín hiệu của dây X tới tim. Lao động trí óc chịu tác động của nhiều
yếu tố stress dễ dẫn đến tăng nhịp tim, tăng huyết áp, vữa xơ động mạch [79],
[80]. Hoạt động của tim luôn thay đổi để phù hợp với nhu cầu của cơ thể. Tim
có tính thích nghi và đáp ứng với căng thẳng là nhờ có cơ chế tự điều hòa và
cơ chế thần kinh - thể dịch. Trong điều hòa theo cơ chế thần kinh thì hệ thần
kinh tự chủ có vai trò quan trọng.
4

Hệ thần kinh phó giao cảm có trung tâm điều hòa hoạt động tim nằm ở
hành não, đó là nhân của dây thần kinh số X. Các sợi trƣớc hạch của dây X đi

tới hạch phó giao cảm nằm ngay trong cơ tim, các sợi sau hạch phó giao cảm
chi phối hoạt động của nút xoang và nút nhĩ - thất. Tác dụng của hệ phó giao
cảm đối với hoạt động của tim là giảm tần số tim, giảm lực co bóp cơ tim,
giảm trƣơng lực cơ tim, giảm tốc độ dẫn truyền xung động trong tim và giảm
tính hƣng phấn của cơ tim. Hệ thần kinh phó giao cảm tác dụng lên tim thông
qua hóa chất trung gian là acetycholin.
Hệ thần kinh giao cảm có trung tâm điều hòa hoạt động tim nằm ở sừng
bên chất xám tủy sống đoạn lƣng 1-3, từ đây có các sợi thần kinh đi tới hạch
giao cảm nằm gần cột sống. Cũng có một số sợi xuất phát từ sừng bên chất
xám tủy sống đoạn các đốt sống cổ 1-7 đi đến hạch giao cảm. Các sợi sau
hạch đi tới nút xoang, nút nhĩ - thất và bó His. Kích thích của dây giao cảm
đến tim gây ra các tác dụng ngƣợc với tác dụng của dây X, cụ thể là tăng tần
số, tăng lực co bóp, tăng trƣơng lực cơ tim, tăng tốc độ dẫn truyền xung động
trong tim, tăng tính hƣng phấn và tăng dinh dƣỡng cơ tim. Hệ thần kinh giao
cảm tác dụng lên hoạt động tim thông qua hóa chất trung gian là noradrenalin.
Ngoài hệ thần kinh thực vật còn có các phản xạ điều hòa hoạt động tim
xuất phát từ vỏ não cùng một số trung tâm thần kinh khác. Dƣới ảnh hƣởng
của các yếu tố lên vỏ não thƣờng tạo các cảm xúc mạnh, gây hồi hộp, sợ hãi
và làm biến đổi nhịp tim. Khi hồi hộp thƣờng làm cho tim đập nhanh, khi quá
sợ hãi hoặc quá xúc động nhịp tim có thể tăng lên, nhƣng cũng có khi tim đập
chậm, thậm chí ngừng đập.
Hoạt động tim còn đƣợc điều hòa bằng cơ chế thể dịch. Hormon T
3
, T
4

của tuyến giáp, adrenalin của tuyến tủy thƣợng thận có tác dụng làm tim đập
nhanh. Nồng độ khí oxy giảm, CO
2
tăng trong máu động mạch cũng làm tim

đập nhanh. Nồng độ ion Ca
2+
trong máu tăng làm tăng trƣơng lực cơ tim.
5

Nồng độ K
+
trong máu tăng làm giảm trƣơng lực cơ tim. pH của máu giảm
làm tim đập nhanh. Nhiệt độ cơ thể tăng làm tim đập nhanh. Ngƣợc lại nhịp
tim giảm trong hạ nhiệt nhân tạo (trong mổ tim phải hạ nhiệt nhân tạo xuống
còn 25
0
C - 30
0
C để cơ thể có thể chịu đựng đƣợc với sự thiếu oxy) [38].
*Huyết áp
Động lực chính làm máu lƣu thông trong động mạch là huyết áp. Huyết
áp là áp lực của máu trong một đoạn mạch nhất định.
Huyết áp động mạch đƣợc tạo ra bởi hai lực: áp lực do tâm thất thu tống
máu ra khỏi tim và phản lực do tính đàn hồi của thành động mạch. Đây là hai
lực ngƣợc chiều nhau và cân bằng nhau, cùng có tác dụng đẩy máu đi.
Huyết áp tâm thu là trị số huyết áp cao nhất trong chu kỳ hoạt động của
tim, đo đƣợc trong lúc tâm thu. Thông số này đánh giá lực co của tâm thất là
chính. Trị số bình thƣờng là 110 mmHg, giới hạn từ 90 - <140 mmHg. Huyết
áp tâm trƣơng là trị số huyết áp thấp nhất trong chu kỳ hoạt động của tim, đo
đƣợc trong lúc tâm trƣơng. Thông số này phản ánh trƣơng lực của động mạch.
Trị số bình thƣờng là 70 mmHg, giới hạn từ 60 - <90 mmHg. Đó là các mốc
đánh giá huyết áp thấp hay tăng huyết áp [16], [38].
Nhiều tác giả đã ứng dụng phƣơng pháp đánh giá chức năng tim mạch
thông qua tần số nhịp tim và huyết áp trong nghiên cứu trên các đối tƣợng thuộc

các ngành nghề khác nhau.
Theo Pickering [105], huyết áp động mạch đƣợc xem là chỉ số khá tin
cậy để đánh giá stress cấp tính trong điều kiện tự nhiên. Nghiên cứu của tác
giả cho thấy đi bộ làm tăng huyết áp tâm thu khoảng 12 mmHg, trong cuộc
họp huyết áp tâm thu tăng 20 mmHg, nói chuyện điện thoại huyết áp có thể
tăng 10 mmHg và khi ngủ huyết áp tâm thu có thể giảm 10 mmHg .Vrijkotte
T.G. [125] đã ghi Holter điện tim 2 ngày làm việc và 1 ngày không làm việc
cho 109 nam lao động trí óc. Kết quả cho thấy nhịp tim khi làm việc tăng cao
6

hơn so với sau khi làm việc và gánh nặng công việc làm tăng nguy cơ mắc các
bệnh tim mạch. Munataka M. [100] nghiên cứu trên 18 y tá, tuổi trung bình là
29±2 cho thấy huyết áp tâm thu và nhịp tim trong thời gian làm ca đêm thấp
hơn so với làm ca ngày, sự khác biệt có ý nghĩa với p<0,05.
Một số nghiên cứu trên thế giới cho thấy kiểm tra, thi cử gây căng thẳng
chức năng tâm lý, làm thay đổi một số chức năng của cơ thể, trong đó có chức
năng tim mạch của con ngƣời [73], [92], [99], [125], [130], [131].
Nghiên cứu của Droogleever [70] trên các nghiên cứu sinh Hà Lan cho
thấy mặc dù huyết áp thay đổi không đáng kể do căng thẳng trong lúc thi,
nhƣng mật độ thụ thể benzodiazepine ngoại vi, allopregnanolon và nồng độ
cortisol ở các nghiên cứu sinh tăng lên đáng kể. Makarenco và cs. [95] nghiên
cứu tính nhịp điệu của tim trên sinh viên theo các đặc tính cá nhân và các loại
hình thần kinh trong suốt quá trình kiểm tra căng thẳng cho thấy giảm ảnh
hƣởng của thần kinh phó giao cảm trên nhịp tim, kích thích chuyển hóa và
tăng hoạt động của thần kinh giao cảm. Nghiên cứu chỉ ra rằng sức chịu đựng
và loại phản ứng thần kinh thực vật của sinh viên đối với căng thẳng kỳ thi
đƣợc quyết định bởi đặc tính cá nhân và các loại hình thần kinh cùng với
trạng thái tâm lý ban đầu.
Ở Việt Nam, nhiều tác giả đã sử dụng phƣơng pháp đánh giá chức năng
tim mạch thông qua tần số nhịp tim và huyết áp trong các dạng lao động có

căng thẳng thần kinh tâm lý cao nhƣ lao động của phi công, bộ đội, cảnh sát,
nhân viên y tế, điều độ viên chỉ huy chạy tàu, nhân viên vận hành các máy
móc tự động, điều phối viên không lƣu… [6], [18], [20], [22], [23].
Nhƣ vậy phƣơng pháp đo tần số nhịp tim (tần số mạch) và huyết áp đƣợc
nhiều tác giả trong và ngoài nƣớc ứng dụng trong các nghiên cứu ở các dạng
lao động khác nhau để đánh giá chức năng tim mạch cho ngƣời lao động.
7

1.1.2. Chỉ số thống kê toán học nhịp tim và các nghiên cứu
Những năm gần đây các nhà y học và sinh lý học đã và đang cố gắng
nghiên cứu tìm ra các thông số tim mạch có giá trị để đánh giá, phân loại khả
năng lao động (KNLĐ) cá thể, từ đó tuyển chọn đối tƣợng có khả năng thích
nghi (KNTN) với một số nghề nghiệp đặc biệt. Hiện nay các nhà nghiên cứu
thƣờng sử dụng phƣơng pháp thống kê toán học nhịp tim để phân tích sự dao
động của các khoảng RR của nhịp tim theo thời gian.
Nghiên cứu trên thế giới về dao động nhịp tim
Năm 1966, tại Moskva đã tổ chức hội nghị chuyên đề về vấn đề "Ứng
dụng các phƣơng pháp toán học để phân tích nhịp tim". Tại đây nhiều báo cáo
về ứng dụng các phƣơng pháp phân tích toán học nhịp tim (THNT) để tiếp tục
hoàn thiện các phƣơng pháp chẩn đoán và để dự báo trạng thái chức năng hệ
tim mạch cũng nhƣ trạng thái chức năng chung của cơ thể, đặc biệt cho các
nhà du hành vũ trụ trong chuyến đi dài ngày. Theo Baevski [132] thì chức
năng hệ tim mạch thay đổi đƣợc coi là chỉ tiêu đánh giá phản ứng thích nghi
của toàn bộ cơ thể, còn nhịp tim là hiệu quả của sự điều khiển của thần kinh
nội tiết. Phƣơng pháp phân tích THNT là phƣơng pháp định lƣợng của phản
ứng thích nghi mà các nhà y học và sinh lý học rất quan tâm.
Baevski và cs [133] đã đƣa ra nguyên lý chung để nghiên cứu biến động
nhịp tim và các chỉ số thống kê toán học nhịp tim (TKTHNT). Một số chỉ số
TKTHNT đặc trƣng cho dao động của 100 khoảng RR liên tiếp của nhịp tim
hay đƣợc sử dụng là:

- Tần số tim (TST) trung bình của 100 khoảng RR liên tiếp, tính bằng
nhịp /phút là chỉ số đặc trƣng cho hoạt động của hệ tim mạch. Đây là thông
số cân bằng nội môi của cơ thể. Sự biến đổi của TSNT so với tiêu chuẩn của
cá thể nói lên sự tăng gánh nặng đối với bộ máy tuần hoàn hoặc có thay đổi
8

bệnh lý. TSNT= 60/RRtb (RRtb là thời gian trung bình của 1 khoảng RR tính
bằng giây, RRtb = tổng số RR/100).
- Độ lệch chuẩn của 100 khoảng RR liên tiếp (SD), tính bằng giây là một
trong những chỉ số chính của dao động nhịp tim, đặc trƣng cho trạng thái cơ
chế điều khiển. Nó chỉ ra ảnh hƣởng tổng hợp của hệ thần kinh thực vật đến
nút xoang của tim. Tăng hay giảm chỉ số này nói lên sự dịch chuyển của cân
bằng nội môi hƣớng về thần kinh phó giao cảm hay thần kinh giao cảm.
- Hệ số biến thiên của 100 khoảng RR (V= SD /RRtb), tính bằng giây. Ý nghĩa
sinh lý của thông số này giống chỉ số SD và là chỉ số đƣợc tiêu chuẩn hóa theo TSNT.
- Mod của 100 khoảng RR liên tiếp (Mo), tính bằng giây là giá trị
khoảng RR gặp nhiều nhất trong 100 khoảng RR. Mo chỉ ra khả năng hoạt
động của hệ tuần hoàn (chính xác hơn là của nút xoang) và trong quá trình
tƣơng đối tĩnh tại, nó trùng với X trung bình.
- Biên độ của Mod (AMo), tính bằng % là số lƣợng khoảng RR có giá trị
gặp nhiều nhất (Mo) trong 100RR. Chỉ số này biếu thị hiệu quả ổn định điều
khiển nhịp tim mức trung ƣơng.
- Khoảng dao động của RR tối đa và tối thiểu (X= RR tối đa - RR tối
thiểu) tính bằng giây, chỉ ra mức độ dao động tối đa của khoảng RR. Đối với
quá trình tĩnh tại, chỉ số X tƣơng tự nhƣ chỉ số SD.
- Chỉ số căng thẳng (CSCT) - đơn vị điều kiện là chỉ số bậc 2 đƣợc tính
từ các chỉ số trên, nó đặc trƣng cho mức độ của điều khiển nhịp tim từ trung
ƣơng. CSCT = AMo/2. X.Mo
Các chỉ số X, AMo, SD,V, CSCT đặc trƣng cho trạng thái của hệ thần
kinh thực vật (hay còn gọi là điều khiển tự động).

Phƣơng pháp phân tích thống kê toán học đánh giá dao động nhịp tim
đƣợc ứng dụng rộng rãi nhằm xác định trạng thái cân bằng hệ thần kinh thực
9

vật; quan hệ hoạt động tƣơng hỗ giữa thần kinh giao cảm và phó giao cảm; mức
điều khiển tự động và mức điều khiển trung ƣơng của hệ thần kinh thực vật,
cụ thể là: AMo, CSCT cao và X, SD ,V thấp là biểu hiện điều khiển nhịp tim
mức trung ƣơng, ngƣợc lại, AMo, CSCT thấp và X, SD,V cao là biểu hiện
điều khiển nhịp tim mức tự động [120].
Nhiều nghiên cứu cho thấy các chỉ số thống kê toán học nhịp tim cho
nhiều thông tin tốt để đánh giá trạng thái chức năng của cơ thể. Chúng là chỉ
số dự báo khả năng thích nghi nghề nghiệp, năng lực và hiệu quả hoạt động
nghề nghiệp để từ đó tuyển chọn đối tƣợng có khả năng thích nghi tốt với một
số điều kiện lao động, đặc biệt là những nghề nghiệp có trạng thái căng thẳng
cảm xúc cao [132], [134], [135], [136], [137], [138].
Baevski [132] đã áp dụng phƣơng pháp phân tích toán học nhịp tim để
nghiên cứu diễn biến nhịp tim của các nhà du hành vũ trụ với mục đích dự
báo những khả năng biến đổi trạng thái cơ thể của họ. Kết quả bƣớc đầu cho
thấy những đối tƣợng có biểu hiện KNTN kém hơn trong điều kiện thử
nghiệm dƣới mặt đất (biểu hiện trội điều khiển giao cảm hơn) thì sau 3 ngày,
trong chuyến bay thật có rối loạn điều khiển nhịp tim nhiều hơn so với đối tƣợng
có biểu hiện thích nghi tốt hơn (điều khiển trội phó giao cảm hơn).
Zemaichiche [134] cho rằng con ngƣời tăng KNTN phụ thuộc vào mức
độ tăng điều khiển phó giao cảm trong quá trình rèn luyện. Giảm ảnh hƣởng
của điều khiển phó giao cảm đồng thời tăng điều khiển giao cảm khi lao động
thể lực và căng thẳng về cảm xúc dẫn tới giảm KNTN đƣợc biểu hiện ở sự
thay đổi các chỉ số TKTHNT.
Zatsiorxki [135] đã sử dụng đặc điểm TKTHNT để đánh giá ảnh hƣởng
của điều kiện môi trƣờng (nhiệt độ cao, tiếng ồn cao) lên chức năng điều
khiển nhịp tim. Tác giả thấy rằng có mối liên quan giữa yếu tố stress nghề

nghiệp, tác hại nghề nghiệp với giảm dao động nhịp tim thể hiện qua các chỉ
10

số thống kê toán học nhịp tim nhƣ giảm độ lệch chuẩn của 100RR (SD), tăng
chỉ số căng thẳng (CSCT).
Gevorkian E. và cộng sự [75] nghiên cứu ảnh hƣởng của căng thẳng thần
kinh cảm xúc trƣớc thi của sinh viên đối với chức năng điều khiển nhịp tim
theo phƣơng pháp của Baevski cho thấy những sinh viên có điểm căng thẳng
cảm xúc Spielberger càng cao thì chỉ số căng thẳng tim mạch càng cao. Các
phản ứng này phụ thuộc vào đặc tính của từng cá nhân và hoạt động của hệ
thống thần kinh tự chủ.
Nghiên cứu tại Việt Nam về dao động nhịp tim
Ở nƣớc ta trong những năm gần đây, phƣơng pháp nghiên cứu dao động
nhịp tim bằng các chỉ số TKTHNT bƣớc đầu đã đƣợc ứng dụng để đánh giá
mức căng thẳng chức năng và căng thẳng hệ tim mạch trong quá trình lao động
[18], [19], [20], [21], [22], [23], [45].
Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hà [18] về sự căng thẳng tim mạch trên
nhân viên y tế cho thấy có mức căng thẳng cao (mức 3/4) với chỉ số căng
thẳng là 239 và khả năng thích nghi kém với độ lệch chuẩn là 0,038. Trần
Thanh Hà [20] đã áp dụng phƣơng pháp phân tích TKTHNT để nghiên cứu
dự báo khả năng lao động của bộ đội tiêu binh. Kết quả cho thấy nhóm tiêu
binh có khả năng thích nghi kém nhất với nghề nghiệp thì có chỉ số TKTHNT
ở trạng thái tĩnh đạt mức CSCT cao nhất, X thấp nhất, SD ở mức quá căng
thẳng (mức 3/4). Đặc biệt tất cả các đối tƣợng đã bị ngất trong lúc làm nhiệm
vụ đều có chỉ số dao động nhịp tim ở mức quá căng thẳng (SD<0,04 và
V<0,056 theo phân loại của Baevski) và có biểu hiện rối loạn điều hoà nhịp
tim dạng trội giao cảm.
Nhƣ vậy, nghiên cứu dao động nhịp tim dựa trên các chỉ số TKTHNT
cho phép đánh giá mức căng thẳng chức năng của cơ thể và hệ tim mạch do
11


các yếu tố stress trong cuộc sống và trong lao động gây ra, đồng thời có thể
dự báo khả năng thích nghi nghề nghiệp của đối tƣợng.
1.1.3. Stress và nguy cơ các bệnh tim mạch
Nhiều năm qua các nhà khoa học luôn cho rằng stress có thể sẽ dẫn đến
bệnh tim, tuy nhiên có rất ít chứng cứ y học có thể chứng minh đƣợc điều này.
Gần đây các nhà khoa học Anh đã tiến hành nghiên cứu trên 514 đối tƣợng cả
nam lẫn nữ ở độ tuổi trung bình 62, trƣớc khi nghiên cứu những đối tƣợng
này đều không mắc các chứng bệnh về tim. Các đối tƣợng nghiên cứu đƣợc
làm trắc nghiệm stress, đồng thời đƣợc xét nghiệm nồng độ cortisol và chụp
cắt lớp vi tính động mạch. Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng xác suất
mắc chứng bệnh tích tụ mỡ trong động mạch của những đối tƣợng bị stress
cao gấp 2 lần so với những đối tƣợng không bị stress. Nghiên cứu trên đã gợi
ý căng thẳng tâm lý có thể là yếu tố nguy cơ dẫn đến các chứng bệnh về động
mạch vành [79]. Trên cơ cở nghiên cứu ngang này, Hamer và cộng sự [80] đã
tiến hành một nghiên cứu dọc trên 466 đối tƣợng nam và nữ có độ tuổi trung
bình 62,7 ±5,6, không có tiền sử tim mạch. Sau 3 năm theo dõi tác giả đã phát
hiện có mối liên quan giữa phản ứng cao của cortisol với căng thẳng và tiến
triển của vôi hóa động mạch vành (OR= 1,27, 95% CI, 1,02-1,60). Những dữ
liệu này ủng hộ quan điểm cho rằng căng thẳng tâm lý gây tăng cortisol (một
hormon stress) có thể ảnh hƣởng đến nguy cơ mắc bệnh mạch vành và rối
loạn nhịp tim. Cơ chế mà HPA hoạt động ảnh hƣởng trực tiếp đến xơ vữa
động mạch vẫn còn chƣa đƣợc hiểu rõ, mặc dù có một số bằng chứng cho
thấy tăng mức cortisol máu có thể thúc đẩy viêm quanh mạch [126].
Ngày càng có nhiều nghiên cứu thử nghiệm xem liệu các đáp ứng mạnh
mẽ của tim mạch với căng thẳng tinh thần có thể dự đoán các bệnh tim mạch
trong tƣơng lai hay không, nhƣng kết quả của các nghiên cứu rất đa dạng
[67], [69], [79], [80], [111]. Nghiên cứu của Roemmmich [111] trên thanh,
thiếu niên cho thấy căng thẳng gây phản ứng tim mạch, đặc biệt là phản ứng
12


của huyết áp tâm thu, liên quan đến độ dày động mạch cảnh và là nguy cơ
phát sinh sớm các bệnh tim mạch. Chida Y. và Steptoe A. [67] đã tổng hợp
các nghiên cứu thuần tập tƣơng lai về đáp ứng của tim mạch với stress và các
yếu tố nguy cơ tim mạch từ các dữ liệu ở các thƣ mục của PsycINFO, Web of
Science và PubMed. Kết quả nghiên cứu độc lập của hai nhà nghiên cứu cho
thấy có 169 sự kết hợp trong 36 bài báo về phản ứng căng thẳng và 30 sự kết
hợp (5 bài báo) về hồi phục sau căng thẳng có quan hệ với nguy cơ tim mạch
trong tƣơng lai, bao gồm tăng huyết áp, dày thất trái, xơ vữa động mạch và
các triệu chứng về tim. Phân tích tổng hợp toàn diện cho thấy phản ứng mạnh
hơn với căng thẳng và hồi phục sau căng thẳng kém hơn có liên quan theo
chiều dọc với nguy cơ xấu về bệnh tim mạch (r=0,091) [95%CI: 0,05-0,132],
p<0,01 và r=0,096 [95%CI: 0,058-0,134], p<0,01). Những kết quả này đƣợc
xác định bằng những phân tích phân nhóm kỹ lƣỡng về các hiệu ứng kết hợp.
Nhƣ vậy stress là một yếu tố gây bệnh vữa xơ động mạch quan trọng. Những
ngƣời hiểu biết về stress, có sức khỏe và tâm lý vững vàng sẽ dễ dàng vƣợt
qua đƣợc những tác động của stress. Ngƣợc lại, những ngƣời có cơ thể ốm
yếu, suy sụp, không thích ứng nổi thì dễ phát sinh bệnh tật và có thể bị ảnh
hƣởng lớn bởi stress, dẫn đến đột tử khi gặp những cú sốc quá lớn trong cuộc
đời. Đột tử là nguyên nhân gây tử vong phổ biến của các bệnh nhân bị vữa xơ
động mạch, đặc biệt là vữa xơ động mạch vành. Có giả thuyết cho rằng, khi bị
căng thẳng về tâm lý cấp tính có thể gây rung thất và đột tử, do kích hoạt hệ
thống bảo vệ dẫn đến làm giảm đột ngột trƣơng lực phó giao cảm. Thông qua
cơ chế thần kinh phó giao cảm trung ƣơng làm mất sự ổn định về điện học của
tim. Trong khi đồng thời làm tăng trƣơng lực thần kinh giao cảm ở tim dẫn
đến làm tăng tần số tim, tăng co bóp cơ tim, tăng huyết áp tâm thu và gây
thiếu máu cơ tim ở các bệnh nhân có vữa xơ động mạch vành, làm tăng nguy
cơ bị rung thất và đột tử. Vì vậy các phƣơng pháp quản lý stress có giá trị có
13


thể phòng ngừa và điều trị các bệnh tim mạch, nâng cao chất lƣợng cuộc sống
của con ngƣời [67], [69].
Căng thẳng không những gây biến động về tim mạch mà còn gây rất
nhiều các biến động về chức năng tâm - thần kinh của con ngƣời.
1.2. MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨC NĂNG TÂM - THẦN KINH
1.2.1. Hoạt động trí tuệ
1.2.1.1. Các quan điểm về trí tuệ
Trí tuệ là hoạt động tâm lý phức tạp bao gồm khả năng nhận thức, ngôn
ngữ vận động và khả năng thích ứng với xã hội. Trí tuệ là một trong những
đặc tính tâm lý và tƣ duy chỉ có ở con ngƣời, vì vậy nghiên cứu về năng lực
trí tuệ là vấn đề luôn đƣợc quan tâm đặc biệt trong giới khoa học. Cho đến
nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về trí tuệ, Fredman tập hợp các quan
điểm thành 3 khuynh hƣớng chính:
Khuynh hƣớng thứ nhất coi trí tuệ là năng lực nhận thức, năng lực học
tập của cá nhân. Theo Huarte J. thì trí tuệ là tập hợp các khả năng lĩnh hội tri
thức, phán xét, đánh giá và sáng tạo. J.P Ducanson [71] coi trí thông minh là
năng lực học tập. Philipvecnon định nghĩa năng lực trí tuệ thông qua hệ số
thông minh. Ushinski K.D. cho rằng trí tuệ là một hệ thống tri thức có tổ chức
tốt, luôn luôn đƣợc điều chỉnh và làm phong phú thêm, không phải chỉ trong
những biểu hiện cụ thể về những sự vật hoặc sự kiện riêng biệt mà còn đƣợc
khái quát thành khái niệm [55]. Năng lực trí tuệ trƣớc hết phải là sản phẩm
của trí tuệ, biểu hiện năng lực nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn của
con ngƣời.
Khuynh hƣớng thứ hai coi trí tuệ là năng lực tƣ duy trừu tƣợng. Ngƣời
đại diện cho khuynh hƣớng này là Terman L. Ông cho rằng chức năng của trí
tuệ là sử dụng hiệu quả các khái niệm. Quan niệm này có phần hạn chế về
khái niệm và phạm vi thể hiện của trí thông minh. Theo Menchinskaia M.N.,
14

đặc trƣng của trí tuệ là sự tích lũy vốn tri thức và các thao tác trí tuệ.

Rubinstein S.L. coi hạt nhân của trí tuệ là các thao tác tƣ duy nhƣ phân tích,
tổng hợp, so sánh, khái quát hóa và trừu tƣợng hóa (theo [40]).
Khuynh hƣớng thứ ba coi trí tuệ là năng lực thích nghi của con ngƣời đối
với thế giới xung quanh. Đại diện cho khuynh hƣớng này là Stern V., tác giả
coi trí tuệ là năng lực thích ứng chung của con ngƣời đối với điều kiện và
nhiệm vụ mới trong đời sống. Theo David Wechsler, trí tuệ là năng lực chung
của nhân cách, đƣợc thể hiện trong hoạt động có mục đích và làm cho cơ thể
thích nghi với các điều kiện môi trƣờng [127].
Sở dĩ có nhiều định nghĩa khác nhau vì năng lực trí tuệ đƣợc biểu hiện
dƣới nhiều dạng và liên quan đến nhiều hiện tƣợng tâm lý khác nhau. Cho đến
nay chƣa có một định nghĩa nào về năng lực trí tuệ đƣợc đa số các nhà tâm lý
học thừa nhận. Tuy nhiên, chúng ta có thể thống nhất với quan điểm của
N.X.Leytex coi năng lực trí tuệ là khả năng nhận thức và hoạt động thực hành
của con ngƣời [37].
1.2.1.2. Nghiên cứu trên thế giới về phương pháp đánh giá năng lực trí tuệ
Lịch sử về phát triển test đánh giá trí tuệ
Ngƣời đầu tiên đề xuất tƣ tƣởng trắc nghiệm và đƣa ra thuật ngữ "trắc
nghiệm tâm lý" là Francis Galton (1822-1911), nhà nhân chủng học và tâm lý
học ngƣời Anh. Nhƣng ngƣời có công trong việc sử dụng rộng rãi thuật ngữ
này là học trò của ông - nhà tâm lý học Mỹ, J.Mc.Cattell (1860-1944), tác giả
cuốn trắc nghiệm và đo lƣờng trí tuệ (1890). Tuy nhiên phải đến sau năm 1905,
khi công trình nghiên cứu năng lực trí tuệ trẻ em từ 3 đến 15 tuổi của Alfred
Binet và T. Simon đƣợc công bố, cùng với hệ thống các trắc nghiệm để xác định
mức độ trí tuệ, thì việc sử dụng trắc nghiệm mới đƣợc sử dụng rộng rãi trên thế
giới (theo [50]. Từ đây hàng loạt các trắc nghiệm trí tuệ khác đã ra đời, bao gồm
15

thang điểm Binet- Simon (1905), trắc nghiệm Stanford-Binet (1916), thang
điểm Wechsler (1939), test Gille (1944), test Raven (1960).
Cho đến nay nhiều loại test trí tuệ (ví dụ test Raven) đã đƣợc sử dụng

rộng rãi ở các nƣớc trên thế giới nhƣ Nga, Mỹ, Ba Lan, Đức, Pháp…
Trắc nghiệm Raven
Test Raven hay trắc nghiệm khuôn hình tiếp diễn do J.C.Raven (Anh)
xây dựng và công bố năm 1936. Đây là loại trắc nghiệm phi ngôn ngữ về trí
tuệ. Sau hai lần chuẩn hóa vào các năm 1945, 1956, đến năm 1960 test Raven
đƣợc UNESCO chính thức sử dụng để chẩn đoán trí tuệ của con ngƣời. Đến
nay test này đã đƣợc sử dụng rộng rãi ở nhiều nƣớc trên thế giới.
Khi thực hiện các bài trắc nghiệm này, các quá trình tâm lý cơ bản đƣợc
thể hiện là chú ý, tri giác và tƣ duy.
Test Raven đƣợc dùng để đo năng lực tƣ duy trên bình diện rộng nhất và
đƣợc sử dụng rộng rãi cho cá nhân cũng nhƣ cho nhóm ngƣời có độ tuổi từ 6
đến 60. Toàn bộ test gồm 60 bài tập, chia làm 5 bộ A,B,C,D,E, mỗi bộ gồm 12
bài tập (khuôn hình) đƣợc đánh dấu nhƣ sau: A1- A12; B1- B12; C1- C12;
D1- D12; E1- E12. Các bài tập từ 1-12, từ A - E đƣợc xây dựng theo mức độ
phức tạp dần. Do đó trong bộ test Raven, bài dễ nhất là bài 1 của bộ A, tức là
khuôn hình A, bài khó nhất là bài E12. Trật tự này đƣợc xem nhƣ một phƣơng
thức hƣớng dẫn làm việc. Các bộ A-E đƣợc xây dựng theo các nguyên tắc sau:
+ Bộ A: thể hiện tính liên tục, toàn vẹn của cấu trúc.
+ Bộ B: thể hiện sự giống nhau giữa các cặp hình.
+ Bộ C: thể hiện sự thay đổi tiếp diễn trong các cấu trúc.
+ Bộ D: thể hiện sự thay đổi logic vị trí các hình .
+ Bộ E: thể hiện sự phân tích cấu trúc các bộ phận trắc nghiệm .
16

Năm bộ bài tập là 5 cách đánh giá về năng lực trí tuệ của cá nhân. Tổng
điểm số của từng cá nhân là một chỉ số về năng lực trí tuệ.
Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, sự vắng mặt của các bài tập ngôn
ngữ trong test Raven cho phép loại trừ, trong một mức độ nào đó, ảnh hƣởng
của trình độ học vấn, kinh nghiệm sống và những khác biệt về văn hóa xã hội
của đối tƣợng nghiên cứu. Do vậy, test này có thể sử dụng rộng rãi trên nhiều

loại đối tƣợng. Một ƣu điểm nữa của test Raven là kỹ thuật tiến hành và xử lý
test tƣơng đối đơn giản, đòi hỏi ít thời gian và có thể nghiên cứu trên nhiều đối
tƣợng cùng một lúc. Nhƣợc điểm của test Raven là chỉ cho biết kết quả cuối
cùng mà không cho biết quá trình đi đến kết quả. Do đó, để đánh giá một cách
chính xác về năng lực trí tuệ chung cần phải sử dụng bổ sung các phƣơng pháp
khác [1], [55].
1.2.1.3. Sơ lược về tình hình sử dụng test nghiên cứu trí tuệ tại Việt Nam
Cùng với xu hƣớng phát triển chung của thế giới, một số test trí tuệ đã và
đang đƣợc sử dụng ở Việt Nam. Trƣớc những năm 80, vấn đề test trí tuệ rất ít
đƣợc đề cập tới. Tuy nhiên trong thời kỳ này, bệnh viện Bạch Mai và bệnh viện
Nhi Thụy Điển đã sử dụng một vài loại test (WAIS, Denver) để chẩn đoán tình
trạng trí lực của bệnh nhân tâm thần. Trƣờng đại học Sƣ phạm Hà Nội cũng đã có
một số công trình nghiên cứu ứng dụng test trong đánh giá kết quả học tập của sinh
viên nhƣ công trình của Trần Bá Hoành (1971), Nguyễn Long (1978) (theo [1]).
Từ những năm 80 đến nay, test trí tuệ đã đƣợc ứng dụng nhiều ở Việt
Nam. Hai cơ sở có đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này là Viện Tâm-Sinh
lý lứa tuổi, thuộc Viện Khoa học giáo dục Việt Nam và trung tâm nghiên cứu
trẻ em Hà Nội. Các cán bộ của 2 cơ sở này đã tiến hành nhiều công trình thích
nghi hóa test WISC (1987), test Gille (1989) và test Raven (1991) ở Việt Nam
và sử dụng để nghiên cứu trí tuệ của học sinh. Trong những năm gần đây, cán
bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên khoa Sinh - Kỹ
17

thuật nông nghiệp và khoa Tâm lý - Giáo dục trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà
Nội đã sử dụng test Raven và test Gille để nghiên cứu trí tuệ của học sinh,
sinh viên Việt Nam. Đó là các công trình nghiên cứu bằng test Raven của
Nguyễn Thạc và Lê Văn Hồng [47], Trần Thị Loan [40], Ngô Thị Kim Thoa
[49], Mai Văn Hƣng [33] và các công trình nghiên cứu bằng test Gille của
Nguyễn Thạc [47]. Một số trƣờng phổ thông cũng đã sử dụng test trí tuệ trong
việc tuyển chọn học sinh nhƣ trƣờng dân lập Mari-Curi (sử dụng test Raven),

trƣờng dân lập Đông Đô (sử dụng test Gille)…Đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về lĩnh vực này nhƣ công trình nghiên cứu trí tuệ của học sinh cấp
I. II, III và của sinh viên đại học [25], [28], [33], [40], [49], [36]. Nhƣ vậy,
trong số các test trí tuệ, test Raven là một trong những test đƣợc sử dụng rộng
rãi nhất (theo [1]).
1.2.1.4. Một số yếu tố di truyền, môi trường ảnh hưởng đến hoạt động trí tuệ
Di truyền tác động lên trí thông minh
Vai trò của di truyền và môi trƣờng tác động lên trí thông minh là một đề
tài nghiên cứu từ rất lâu. Khả năng thừa kế của một gene lên thế hệ sau đƣợc
biểu diễn bằng một số trong khoảng từ 0 đến 1, gọi là hệ số di truyền. Một số
nghiên cứu cho thấy hệ số di truyền trung bình ở trẻ em là 0,5, hệ số di truyền
ở ngƣời có thể lên đến 0,8. Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kì vào năm 1995 trong
công trình "Intelligence: Knowns and Unknowns" (Trí thông minh: những
điều đã biết và chƣa biết) kết luận rằng hệ số di truyền là "khoảng 0,75"[102].
Môi trường
Yếu tố môi trƣờng đóng vai trò rất lớn trong việc xác định trí thông
minh. Một số nghiên cứu về yếu tố môi trƣờng cho rằng thời kỳ thai phụ hay
lúc cho con bú nếu tiếp xúc với những loại độc tố hay thiếu các vitamin và
muối khoáng quan trọng có thể ảnh hƣởng đến chỉ số IQ của đứa bé. Trong xã
18

hội đã phát triển, môi trƣờng trong gia đình có thể tạo ra 25% sự khác biệt về
chỉ số IQ. Tuy nhiên, khi lớn lên, điều này hầu nhƣ biến mất [128].
Sự chậm phát triển trí não
Khoảng 75-80% số trẻ chậm phát triển trí não là do di truyền và 20-25%
còn lại là do những nguyên nhân bên trong cơ thể nhƣ sự bất thƣờng ở các
nhiễm sắc thể hay chấn thƣơng ở não [128].
Nghiên cứu của Trung tâm Điều khiển và Phòng chống Dịch bệnh
(CDC) cho thấy tỉ lệ mắc chứng kém phát triển trí tuệ ở nam cao hơn ở nữ.
Đối với chủng tộc, tỉ lệ chung về mắc chứng kém phát triển trí tuệ là 1,66%

cho ngƣời da đen và 0,68% cho ngƣời da trắng. Đối với nam ngƣời da đen có
tỉ lệ cao nhất, gấp 1,7 lần so với nữ da đen; 2,4 lần so với nam da trắng và 3,1
lần so với nữ da trắng. Ở Hoa Kì những ngƣời có chỉ số IQ dƣới 70 sẽ đƣợc
miễn tội tử hình từ năm 2002 [128].
Sự quay lại
Sự di truyền chỉ số IQ của một đứa trẻ bị ảnh hƣởng từ IQ của cha mẹ.
Hệ số di truyền của chỉ số IQ luôn nhỏ hơn 1 nên chỉ số IQ của đứa trẻ sẽ có
xu hƣớng quay lại về chỉ số IQ chuẩn của dân số chung. Hiệu ứng trên có thể
đƣợc biểu diễn bởi công thức:

 : chỉ số IQ dự đoán của đứa trẻ
 : h
2
: hệ số di truyền của chỉ số IQ.
 m và f: chỉ số thông minh của mẹ và bố đứa trẻ.
Vì vậy, nếu hệ số di truyền là 50%, một cặp vợ chồng có IQ trung bình
là 120 và sống trong xã hội có IQ trung bình là 100 thì con của họ có nhiều
khả năng có IQ là 110 [128].
19

Hiệu ứng Flynn
Trên toàn thế giới, chỉ số IQ tăng một cách chậm chạp, đƣợc gọi là hiệu
ứng Flynn (1999). Hiệu ứng Flynn đƣợc quan sát từ lâu nhƣng rất khó giải thích.
Sự liên quan giữa chỉ số IQ và chủng tộc
Chỉ số IQ của các chủng tộc khác nhau trên thế giới đƣợc nghiên cứu
vào năm 1981. Ngƣời Do Thái và Đông Á có phân bố thang IQ cao hơn ngƣời
Châu Âu, trong khi những ngƣời Latin và ở vùng hạ Sahara lại có thang IQ thấp
hơn. Một số nhà khoa học cho rằng đó là do sự khác nhau trong những điều kiện
kinh tế xã hội, nhƣng giả thiết trên vẫn chƣa đƣợc chấp nhận hoàn toàn [102].
Sức khỏe và chỉ số IQ

Một ngƣời có trí thông minh cao thƣờng ít bị bệnh hơn và sống lâu hơn. Điều
đó có thể là do họ có khả năng né tránh những chấn thƣơng tốt hơn và chăm sóc sức
khỏe của mình tốt hơn, mặt khác họ thƣờng có đời sống kinh tế khá giả hơn [109].
Nghiên cứu ở Scotland cho thấy những ngƣời có chỉ số IQ thấp hơn bình thƣờng 15
điểm thì họ sẽ mất đi một phần năm cơ hội mừng sinh nhật thứ 76 của mình. Những
ngƣời có chỉ số IQ thấp hơn 30 điểm thì tỉ lệ đó lên đến 37% [90].
Sự phát triển kinh tế và chỉ số IQ
Một cuốn sách gây tranh cãi “IQ and the Wealth of Nations” (IQ và sự
thịnh vƣợng của quốc gia) cho rằng sự giàu có của một quốc gia, phần lớn có
thể giải thích bằng cách nhìn vào chỉ số IQ trung bình của nƣớc đó. Thông tin
này đang đƣợc đặt câu hỏi để nghiên cứu thêm [128].
1.2.2. Trí nhớ
Bản chất của trí nhớ (memory) là quá trình hoạt động thần kinh lặp lại
trên một mạch neuron. Mạch neuron này dẫn truyền xung động cảm giác do
kích thích từ bên ngoài vào trung tâm thần kinh (dẫn truyền hƣớng tâm).
Mạch xung động đó là con đƣờng mới (new pathways) hay còn gọi là con
20

đƣờng mòn dấu vết nhớ. Sau đó nếu không có kích thích bên ngoài, nhƣng nếu
tâm trí ta nghĩ tới thì có thể hoạt hóa con đƣờng mòn đó và nhớ lại đƣợc [39].
Trí nhớ là khả năng lƣu giữ thông tin từ môi trƣờng bên ngoài tác động
lên cơ thể, cũng nhƣ các phản ứng xảy ra trong cơ thể và tái hiện lại những
thông tin đã đƣợc lƣu giữ hoặc những kinh nghiệm cũ và sử dụng chúng trong
lĩnh vực ý thức hoặc tập tính. Nơi lƣu giữ thông tin chủ yếu là các cấu trúc
của vỏ não hoặc dƣới vỏ. Trí nhớ liên quan đến quá trình học tập, nhờ đó mà
chúng ta có đƣợc kỹ năng học tập, kỹ năng lao động và tiếp thu đƣợc các kiến
thức khoa học. Trí nhớ ngắn hạn là nhớ kéo dài đƣợc từ vài ngày đến vài tuần,
đó là những thông tin cần thiết cho nhu cầu cơ thể trong một giai đoạn nhất định,
sau đó mất đi hoặc chuyển thành trí nhớ dài hạn. Trí nhớ ngắn hạn liên quan với
sự tuần hoàn của các luồng xung động thần kinh trong các vòng neuron. Các

luồng xung động này dễ bị mất do thuốc gây mê, shock, chấn động cơ học Cơ
chế của trí nhớ ngắn hạn là kết quả của sự tăng giải phóng chất truyền đạt thần
kinh và kéo dài thời gian dẫn truyền xung động qua synap. Cơ chế này không
gây biến đổi cấu trúc thần kinh [32], [39].
Trí nhớ ngắn hạn là một trong những chỉ số thần kinh thường được dùng
để đánh giá trí lực.
Các công trình nghiên cứu thực nghiệm và các quan sát lâm sàng cho
thấy có nhiều cấu trúc thần kinh trong não liên quan với trí nhớ, trong đó quan
trọng nhất là hệ limbic và vỏ não mới. Các vùng trong hệ limbic đáng chú ý là
hồi hải mã, hồi đai, phức hợp hạnh nhân và thể vú, còn các vùng vỏ não mới
có liên quan với trí nhớ là vùng trán và vùng thái dƣơng.
Mỗi vùng nói trên có chức năng khác nhau đối với việc ghi nhớ các
thông tin nhận đƣợc. Ví dụ, các tài liệu lâm sàng cho thấy, ở ngƣời nếu bị tổn
thƣơng hồi đai thì quá trình phục hồi trí nhớ sẽ bị rối loạn; tổn thƣơng thể vú
thì quá trình hình thành các dấu vết (trí nhớ) sẽ bị chậm lại và bị suy giảm trí
21

nhớ logic; tổn thƣơng thể hạnh nhân thì thời gian duy trì trí nhớ ngắn hạn bị
rút ngắn; tổn thƣơng hippocamp (nếu bị tổn thƣơng ở cả hai phía) sẽ bị mất trí
nhớ ngắn hạn, không nhớ đƣợc những sự kiện, hiện tƣợng vừa mới xảy ra, trí
nhớ logic cũng bị giảm. Trên hình 1.1 thấy rõ các vùng có liên quan với trí
nhớ thuộc hippocamp. Cụ thể là vùng CA3 có tác dụng làm giảm trí nhớ, còn
vùng CA2 và CA1 có tác dụng làm tăng trí nhớ trong hippocamp.

Hình 1.1. Các vùng trong hippocamp (CA1, CA2, CA3) có liên quan đến trí nhớ
* Nguồn: Đỗ Công Huỳnh, Trần Hải Anh, Tạp chí Sinh lý học Việt Nam (2005) [31]
Do trí nhớ liên quan với nhiều vùng khác nhau của não bộ, cho nên trong
các thí nghiệm cắt bỏ nhiều vùng rộng lớn trong não vẫn không làm cho trí
nhớ mất hoàn toàn [31].
Trí nhớ của con ngƣời là một quá trình hoạt động tích cực và phức tạp.

Trí nhớ có vai trò quan trọng trong học tập cũng nhƣ trong xử lý thông tin
trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Ở các độ tuổi khác nhau thì trí nhớ
cũng khác nhau. Nghiên cứu về khả năng nhớ của Trần Thị Loan [40] trên
học sinh từ 6 đến 17 tuổi cho thấy khả năng nhớ ngắn hạn của học sinh tăng
theo tuổi nhƣng không đều, từ 6 đến 11 tuổi tăng nhanh, đặc biệt là từ 9 đến
11, từ 11đến 17 tuổi tăng chậm hơn. Nghiên cứu của Mai Văn Hƣng [33] trên
sinh viên đại học sƣ phạm Hà Nội cho thấy trí nhớ ở các sinh viên này chủ
yếu thuộc loại khá và giỏi. Nghiên cứu của Lại Thế Luyện về biểu hiện stress
22

trên sinh viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy có
biểu hiện giảm trí nhớ cao thứ hai sau khó tập trung chú ý [41].
Theo J. Lazaus, stress làm tổn thƣơng trí nhớ, gây ra sự bất ổn về tinh
thần, không có khả năng tập trung, do dự, thiếu quyết đoán, thiếu chú ý, đầu
óc trống rỗng…là những triệu chứng thƣờng xuất hiện. Nhiều nghiên cứu cho
thấy khi bị căng thẳng lúc làm việc, các thông số tâm lý nhƣ trí nhớ, tƣ duy và
chú ý đều giảm một cách đáng kể [5].
Tác động của căng thẳng lên quá trình học tập và trí nhớ là những khía
cạnh thiết yếu của chức năng não của con ngƣời. Điều này đặc biệt đúng trong
điều kiện stress. Trong điều kiện căng thẳng, chúng ta có khả năng tìm hiểu
và giải thích ý nghĩa dự đoán các kích thích môi trƣờng. Điều này rất quan
trọng cho việc lựa chọn các chiến lƣợc đối phó thích hợp đối với các tác nhân
đe dọa [82]. Nhiều nghiên cứu [41], [110] đã chỉ ra rằng stress ảnh hƣởng đến
học tập, trí nhớ và nhiều bằng chứng cho thấy các glucocorticoid và
catecholamine là những chất chính phản ứng lại những kích thích gây căng
thẳng, tác động lên quá trình nhận thức [82], [87], [96]. Ví dụ, các
glucocorticoid điều chỉnh học tập không gian ở chuột, cũng nhƣ củng cố trí
nhớ và phục hồi trí nhớ ở ngƣời. Tuy nhiên, tác dụng của các chất trung gian
căng thẳng lên học tập và trí nhớ rất phức tạp. Căng thẳng đôi khi tạo điều
kiện thuận lợi nhƣng có khi gây bất lợi cho quá trình học tập và ghi nhớ. Các

yếu tố nhƣ thời điểm điều hòa hoạt động căng thẳng, thời gian tác dụng của
thần kinh tự chủ hay khuấy động tình cảm và loại căng thẳng ảnh hƣởng đến
kết quả này. Các câu hỏi ảnh hƣởng lâu dài của stress đến học tập và trí nhớ
vẫn cần đƣợc trả lời [82], [112]. Các nghiên cứu gần đây cho thấy các kích
thích gây trạng thái căng thẳng xảy ra trong hoặc ngay sau khi học tập, chủ yếu
làm tăng trí nhớ sau này. Ngƣợc lại, căng thẳng đƣợc gây ra một thời gian nhất
định trƣớc hoặc sau khi học tập làm giảm tác dụng của căng thẳng trong việc
23

phục hồi trí nhớ. Hiện nay có hai mô hình chính giải thích cho điều này [87],
[112], [116], [117].
Mô hình thứ nhất cho rằng tác động ngƣợc của stress về học tập và trí
nhớ phụ thuộc chủ yếu vào trải nghiệm căng thẳng về học tập, thời gian của
các sự kiện cũng nhƣ thời gian giải phóng catecholamine và glucocorticoid
khác nhau. Dựa trên những phát hiện của Joels và các đồng nghiệp [87] kết
luận rằng thời điểm khởi phát căng thẳng là quan trọng, ảnh hƣởng đến quá
trình học tập và ghi nhớ. Các nhà khoa học cho rằng các tác động phụ thuộc
vào thời gian căng thẳng đƣợc giải thích bằng hoạt động khác nhau của stress
trên các tế bào não và hệ thống chức năng liên quan đến các chất truyền đạt
thần kinh và hormon. Theo thuyết này, hệ thần kinh tự chủ đƣợc khởi động
đầu tiên khi cơ thể bị tác động của kích thích gây stress (hoạt động của hệ này
thông qua catecholamin). Catecholamin tác dụng nhanh chóng và hiệu ứng
tƣơng đối ngắn. Hoạt động của glucocorticoid chủ yếu hoạt hóa hệ gen trong
tế bào, tức là chậm và lâu dài. Ngoài các tác động thông qua hoạt hóa hệ gen,
glucocorticoid có tác dụng nhanh chóng, không qua hoạt hóa hệ gen mà tác
dụng gián tiếp lên các receptor màng tế bào [76]. Tác dụng nhanh của
catecholamin và các glucocorticoid không thông qua hoạt hóa hệ gen trong tế
bào, tạo điều kiện cho việc hình thành những ký ức mới, hình dạng nhận thức
và sự quan tâm đối với các căng thẳng. Ngƣợc lại, tác dụng chậm của các
glucocorticoid thông qua hoạt hóa hệ gen trong tế bào phải mất hàng chục

phút sau khi tiếp xúc căng thẳng, ngăn chặn thông tin không liên quan đến
stressor và tăng cƣờng củng cố nhớ các thông tin liên quan đến stressor. Nếu
căng thẳng là nhƣ vậy, kinh nghiệm trong quá trình học tập, những tác động
ban đầu của hoạt động điều hòa căng thẳng và tác động muộn của các
glucocorticoid lên củng cố trí nhớ sẽ tăng cƣờng hiệu suất hoạt động của bộ
nhớ sau này. Tuy nhiên, nếu sự xuất hiện của các kích thích gây căng thẳng xảy
ra tại một thời gian dài trƣớc khi học hoặc một thời gian ngắn trƣớc khi phục

×