Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

góp phần nghiên cứu phương pháp chiết xuất berberin từ cây vàng đắng coscinium usitatum pierre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.51 KB, 38 trang )

PHầN I
Đặt vấn đề
Vàng đắng là một cây thuốc quý hiếm, mọc hoang chủ yếu ở các nước
vùng nhiệt đới,ở nước ta cây mọc phổ biến ở miền Đông nam bé, Nam trung
bộ, Tây nguyên. Ngoài ra còn thấy mọc nhiều ở Trung và Hạ Lào,
Campuchia. Vàng đắng thu hái hầu như quanh năm, thu hoạch về thái mỏng,
phơi hay sấy khô hoặc không chế biến gì khác. Người ta đã tìm thấy trong rễ
và thân vàng đắng rất giàu Berberin.
Berberin là hoạt chất của nhiều cây như : Hoàng liên gai (Berberis sp.),
Hoàng liên ô-rô (Mahonia sp.), nhiều cây thuộc chi Coptis, Hoàng bá
(Phellodendron amurense) Trong thân và rễ cây vàng đắng hàm lượng
Berberin rất cao, ở nước ta đây là nguồn nguyên liệu rất quý để chiết xuất
Berberin.
Trong nhân dân, người ta dùng vàng đắng chữa lị, đau mắt,viêm ruột .
Trong y học dùng Berberin làm thuốc chữa lị, đau mắt, viêm ruột, còn có thể
dùng làm thuốc chữa ung thư [7]. Ngoài ra, người ta còn dùng làm thuốc cầm
máu trong phô khoa sau khi sinh nở, chữa viêm tói mật, đặc biệt là tác dụng
tốt với bệnh sỏi mật [20]. Trong kỹ nghệ người ta còn dùng Berberin để tạo
chất màu làm thuốc nhuộm, hoặc làm chất tạo màu trong gia vị và trong đồ
uống có cồn [18] và trong các lĩnh vực khác.
Đã có nhiều tài liệu nghiên cứu về phương pháp chiết xuất Berberin từ
cây vàng đắng như phương pháp chiết của Phạm Viết Trang [11], phương
pháp chiết Berberin bằng áp lực nóng của Nguyễn Liêm [8] và có rất nhiều
quy trình khác nữa. Nhưng các quy trình chiết vẫn còn một số nhược điểm
như : kéo dài thời gian, tốn nhiều dung môi, hoá chất
Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ trong việc cung cấp những
thông số về phương pháp chiết xuất Berberin nói chung và chiết từ cây vàng
đắng nói riêng . Do vậy chúng tôi đã thực hiện đề tài : “Góp phần nghiên cứu
phương pháp chiết xuất Berberin từ cây vàng đắng Coscinium usitatum
Pierre”. Với nội dung đề tài nhằm giải quyết những vấn đề sau :
-Khảo sát một số điều kiện chiết xuất Berberin đạt năng suất, chất lượng cao.


-Dự kiến quy trình chiết xuất Berberin trong điều kiện hiện tại ở Việt
Nam.Trên cơ sở những kết quả này sẽ hoàn thiện quy trình chiết xuất
Berberin để đưa vào sản xuất.
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Nguồn nguyên liệu chiết xuất berberin
Berberin là một alcaloid được phát hiện trong khoảng 150 loài thuộc
nhiều họ thực vật khác nhau: Họ Mao lương (Ranunculaceae), họ Hoàng liên
(Berberidaceae), họ Tiết dê (Menispermaceae), họ Cam (Rutaceae)
Theo Muraviova, Berberin thường có trong những cây thuộc chi
Berberis :
- Berberis aristata DC.
- B. buxifolia Lam. - B. buxifolia Lam.
- B. canadonsis Mill.
- B. glauca H.B.K
- B. licium Roile
- B. noranensis Schult
- B. sinosis Desf
- B. amurensis Rupr.
Có hàm lượng Berberin trong lá 0.15% - 3% , vá rễ đến 1% [21]. Cã
hµm lîng Berberin trong l¸ 0.15% - 3% , vá rÔ ®Õn 1% [21].
Karbovic và Bespalova cho rằng berberin có trong Berberis vulgaris
L. và B.amurensis Rupr. với hàm lượng alcaloid không dưới 0.6% [20].
Còn theo Orekhop thì trong cây Berberis heteropoda có chứa alcaloid
trong đó có berberin [23].
Trong Từ điển cây thuốc của Võ Văn Chi đã cho biết trong thân và rễ
của Hoàng liên gai (Berberis wallichiana. D .C ) có chứa berberin [2].
Bên cạnh những cây thuộc chi Berberis cho berberin còn có những cây
khác cũng cho berberin như các cây thuộc chi Coptis:
- Coptis teeta Wall.

- C chinensis Franch.
- C . teetoides C.Y. Cheng
- C. deltoidea C.Y Cheng et Hsiao [1].
với hàm lượng không Ýt hơn 4% [3].
Ngoài ra berberin cũng có trong các cây thuộc cây chi Mahonia với
hàm lượng cao :
- M. annamica. Gagnep [19].
- M. nepalensis D.C.[2]
- M. bealei Carr. [2]
Ngoài những cây trên Berberin còn được tìm thấy trong vỏ các cây
như: Hoàng bá (Phellondendron amurense Rupr. và P. chinense Schneider.),
với tỷ lệ 1,6% [2], Thổ hoàng liên ( Thalictrum foliosolum D.C.) có chõng
0,35% [1], Vàng đắng (Coscinium fenestratum Colebr.) với hàm lượng
không Ýt hơn 1,5% [3].
Tuy nhiên hiện nay người ta thường dùng vàng đắng để đưa vào sản
xuất Berberin, đó là do hàm lượng Berberin trong thân và rễ cây cao, nguồn
nguyên liệu nhiều, dễ thu hái, có ở nhiều vùng ở Việt Nam, biên giới Việt
Lào, Campuchia. Do đó người ta coi vàng đắng là nguồn nguyên liệu số một
để chiết xuất Berberin.
2. Chi Coscinium:
Chi Coscinium là một chi nhá trong họ Tiết dê ( Menispermaceae)
phân bố chủ yếu ở vùng núi miền Đông Nam Bé, Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, ngoài ra còn thấy mọc hoang nhiều ở trung và hạ Lào, Campuchia.
Theo Phạm Hoàng Hộ trong ‘ Cây cỏ Việt Nam’ đã mô tả 3 loài
Coscinium là:[4]
- C. fenestratum Colebr.
- C.blumeanum Miers.
- C. colaniae Gagn.
phân bố ở vùng Tây nguyên, Lục tỉnh.
Theo Bài Giảng Dược liệu tập II đã mô tả 2 loài:

- C. fenestratum Colebr.
- C. usitatum Pierre.
phân bố vùng núi miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên.
3. Cây Vàng Đắng:
3.1. Những nghiên cứu về thực vật:
Theo Trần Công Khánh đã mô tả: cây vàng đắng hay còn gọi là vang
đằng, vàng giang, tơ-rơn.[6]
Cây vàng đắng là một loại dây leo, thân gỗ to, sống lâu năm có thể dài
tới 10 m hoặc hơn nữa, đường kính thân từ 5-10cm hoặc hơn. Thân và cành
hình trụ, mặt ngoài màu vàng xám, có những nếp nhăn mờ hay nhẵn. Cành
nhỏ mới đầu có lông màu hơi nâu, sau không có lông, đổi thành hơi trắng,
mang các vết sẹo của cuống lá hình đĩa. Mặt cắt của thân và cành có màu
vàng tươi; mặt cắt của rễ có màu vàng sẫm, nhìn rõ những dãy mạch gỗ toả
tròn như hình nan hoa bánh xe, chất nước chảy ra từ mặt cắt cũng có màu
vàng.
Lá đơn nguyên , mọc so le, phiến lá mỏng dài, thường hình trứng rộng
hoặc hình trứng dài11-33cm, rộng 8-23cm, gốc phiến lá tròn, thẳng hay hình
tim nông, ngọn lá thuôn nhọn, mặt trên lá không có lông, khi khô thường
nhẵn, gân giữa và các gân chính lõm xuống; mặt dưới lá có lông hơi trắng,
nhìn rõ 5-7 gân xoè ra như hình chân vịt và 1-2 đôi gân ở mép ngoài cùng,
cũng như hệ gân hình mạng lưới nhỏ. Cuống lá mảnh, dài 3-16 cm, mới đầu
có lông hơi nâu, thường phồng ra ở 2 đầu, đầu trên đính cách mép phiến lá từ
0,2-0,8 cm, đầu dưới cong gập lại như đầu gối.
Côm hoa: hoa đính trên các đầu hình cầu; đường kính 6-7mm có cuống
nhỏ dài 10-30mm, được sắp xếp trong một chùm dài 5-11cm ở trên nách lá
hay ở đoạn thân già không mang lá; các cụm hoa này đứng đơn độc hay tụ
họp vài cái một, trục chính và các nhánh của cụm hoa mảnh, có lông tơ màu
nâu, các lá bắc dạng dùi, dài 4-5mm. Hoa đực gần như không cuống, bao hoa
có 6-9 bộ phận hình bầu dục gần bằng nhau, mặt ngoài có lông, mặt trong
nhẵn; 3-6 bộ phận phía trong dài 1,5-2mm, các bộ phận ngoài cùng nhỏ hơn

dài1-1,5mm, đính thấp hơn. Bộ nhị có 6 nhị xếp thành 2 vòng; vòng ngoài
gồm 3 nhị rời, dài 1mm, 3 nhị ở vòng trong dính liền nhau ở phía dưới. Hoa
cái có bao hoa giống như hoa đực, 6 nhị lép hình chuỳ dài 1mm, bộ nhụy gồm
3 lá noãn dài 2mm, có lông dày, vòi hình sợi, uốn cong.
Chùm quả dài 10-15cm, mang 20-30 quả hạch hình cầu, đường kính
2,5-3cm, mặt ngoài có lông màu nâu đến vàng cam, thịt quả màu vàng, vị
đắng; vỏ quả trong tạo thành hạch cứng, dày tới 3mm.
Năm 1999, Đỗ Tất Lợi [10] đã mô tả cây vàng đắng khác với Trần
Công Khánh: Là một cây leo to, có phân nhánh, mọc bò trên mặt đất hoặc leo
lên những cây gỗ cao. Thân non màu trắng bạc, thân già màu ngà, xù xì, có
vết tích của lá rụng. Cắt ngang thân có hình bánh xe, giữa có vòng lõi tuỷ xốp.
Lá mặt trên xanh, mặt dưới màu trắng nhạt, có 5 gân ( 3 gân nổi rõ).
Hoa màu trắng phớt tím, mọc thành xim ở kẽ lá. Rễ hình trụ, đầu thuôn
hình nón, mặt ngoài màu trắng nhạt, mặt trong màu vàng.
Theo Võ Văn Chi mô tả [2]: Vàng đắng là một loại dây leo to, thân
rộng 5-7cm có thể tới 15-20cm ở những gốc già; gỗ màu vàng, vỏ thân nứt nẻ
màu xám trắng; các nhánh, mặt dưới lá, cụm hoa và quả có lông màu trắng
bạc. Lá mọc so le, phiến to đến 25cm, gân gốc 5; màu trắng mốc ở mặt dưới;
cuống phình và cong ở góc, hơi dính vào trong phiến lá. Hoa nhỏ mọc thành
chụm tán trên thân già, hoa đực có 5 nhị, hoa cái có nhị lép, 3 lá noãn có lông.
Quả hạch tròn, đường kính cỡ 2,5cm.
Riêng Phạm Hoàng Hộ [4] lại mô tả cây vàng đắng với những loài khác
nhau:
- Coscinium fenestratum Colebr. ( Dây vàng đắng) Dây leo to, thân rộng 5-
7cm, gỗ vàng; nhánh, mặt dưới lá, phát hoa và trái có lông the quắn, trắng,
phiến lá to đến 25cm, có 5 gân xuất phát từ đáy, trắng mốc mặt dưới, cuống
phù và cong ở đáy. Chụm mang tán trên thân già; hoa đực có 6 tiểu nhuỵ, hoa
cái có tiểu nhuỵ lép, 3 tâm bì có lông cho ra trái tròn, to 2,5cm.
- C. blumeanum Miers. ( Vàng đắng Blume) Dây leo, thân to. Lá có phiến xoan
hay xoan tròn dài, to 12-35cm, rộng 6-20cm, không lông. Lúc nhỏ như mặt

bọt, mặt dưới mốc trắng, có lông dày, gân ở đáy 7, gân phụ 2-5 cặp, Cuống
dài 6-20cm, gắn cách bìa 1,5-2cm. Hoa đầu to 10-13cm; hoa đực có 3-6 lá
đài, 6 tiểu nhuỵ. Hoa cái có 6 lá dài, 3 tâm bì. Quả nhẵn cứng xoan, có lông,
to 2,5cm.
- C. colaniae Gagn.
3.2. Những nghiên cứu về thành phần hoá học:
*.Theo những nghiên cứu của nước ngoài:
Trong rễ cây vàng đắng C.fenestratum Colebr. có một số alcaloid thứ
yếu như Berlambine, noroxyhydrastinine và dihydroberlambine [14].
Ngoài ra trong rễ cây C. fenestratum Colebr. có một alcaloid mới, đó
là: 12, 13-dihydro-8-oxo-berberin (I), cũng có tác dụng tốt như berberin.
O
O
N O
OMe
OMe
H
(I)

Bên cạnh đó còn có oxyberberin, tetrahydroberberin ( canadin),
sitosterol, và stigmasterol [15].
Các tác giả khác cũng cho rằng: Berberin được tổng hợp ở trong thân
và rễ của cây vàng đắng C.fenestratum Colebr. [16].
*. Theo những nghiên cứu ở trong nước:
Trong thân và rễ vàng đắng có chứa Berberin với tỉ lệ từ 1,5-3%. Ngoài
ra còn có Ýt palmatin, jatrorrhizin [1].
Theo Đỗ Tất Lợi[10]: Trong vàng đắng có nhiều alcaloid dẫn xuất của
isoquinolein, chủ yếu là Berberin, tỷ lệ Berberin chiếm từ 1,5-2%, có khi đến 3%.
Võ Văn Chi[2] lại cho rằng: thành phần hoá học chủ yếu của vàng đắng
là Berberin, saponin; thân chứa Berberin có tỷ lệ tới 3,5%. Ngoài ra còn có

Ceryl alcohol, hentriacontane, sitosterol, acid palmitic và acid oleic, glycosid
sitosterol, saponin và vài chất nhựa. Ở nước ta trong thân và rễ cây vàng đắng
có alcaloid berberin với tỉ lệ 1,5-3%.
Nguyễn Liêm [9] đã xác định thành phần hoá học của cây vàng đắng là
Berberin chiếm Ýt nhất là 82% so với alcaloid toàn phần, phần còn lại là
palmatin, jatrorrhizin
Ngoài ra, trong luận án tiến sĩ [9], Nguyễn Liêm đã khảo sát kỹ cây
vàng đắng về hàm lượng alcaloid protoberberin trong các bộ phận khác nhau
của cây. Kết quả là ở thân cây già có 2-3%, cành nhỏ 1-1,5%, lá và quả 0,1-
0,7%, vỏ thân trên 5%, và phần thân gỗ 0,85%.
Điều kiện bảo quản có ảnh hưởng lớn đến chất lượng nguyên liệu. Độ
Èm cao làm giảm nhanh hàm lượng alcaloid và có thể mất hết hoặc giảm từ
3% xuống còn 0,13%.
3.3. Những nghiên cứu về ứng dụng cây vàng đắng trong y học:
*. Theo Đỗ Tất Lợi (1999) [10]:
-Nhân dân thường dùng thân và rễ cây làm thuốc hạ nhiệt, chữa sốt rét,
chữa lỵ, ỉa chảy, đau mắt. Dùng dạng thuốc bột hay thuốc viên, ngày uống 4-6(g)
-Dùng làm nguyên liệu để chiết xuất Berberin. Berberin hydroclorid
dùng để chữa lỵ, ỉa chảy, đau mắt. Ngày uống 0,02-0,20 g dưới dạng thuốc viên.
Người ta còn dùng để chữa bệnh về gan, mật, vàng da, ăn uống khó
tiêu; hoặc pha dung dịch 0,5-1% dùng để nhỏ mắt, chữa mắt đau, hay để rửa mắt.
*. Theo Võ Văn Chi [2]: V¨n Chi [2]:
Vàng đắng là nguồn nguyên liệu chiết xuất Berberin. Thường dùng
chữa ỉa chảy, lỵ trực khuẩn, viêm ruột, vàng da, sốt, sốt rét, kém tiêu hoá.
Ngày dùng 6-10g dạng thuốc sắc, thuốc bột hay viên. Hoặc dùng Berberin
chlorid dạng viên nén 0,05 g, ngày 6-10 viên chia làm 2 lần.
Dùng dung dịch 0,5-1% Berberin chlorid để chữa đau mắt. Ở Ên Đé
người ta dùng rễ trị lỵ và dùng ngoài rửa mụn nhọt, vết thương. Nước sắc vỏ
dùng chữa sốt gián cách, nước sắc thân dùng để trị rắn cắn.
• Ngoài ra Berberin rất đắng nên có tác dụng kháng virus và đã được dùng

trong một số trường hợp nhiễm trùng như: Bệnh kiết lỵ do amip, bệnh
Leishmania ngoài da và bệnh dịch tả. Dùng dưới dạng Berberin sulfat,
hydrochlorid và dạng chlorid [18].
• Các tác giả Nhật đã chứng minh: Berberin có nhiều trong các họ thực vật và
có tác dụng ức chế một số ung thư. Theo Phan Quốc Kinh: Berberin là một
alcaloid có tác dụng thông mật, co bóp tử cung, có tác dụng điều trị bệnh
Leishmania, Trichomonas, bệnh lỵ, tả, sốt rét và đau mắt. Gần đây đã phát
hiện đươc tính chất chống ung thư của Berberin [7].
• Karbovic và Bespalova đã cho biết[20]: Vàng đắng dùng làm thuốc cầm máu
trong phô khoa sau khi đẻ, viêm tói mật. Berberin sulfat làm giảm huyết áp,
dùng trị viêm tói mật và đặc biệt là bệnh sỏi mật. Dùng dạng viên nén 0,005g.
Còn Maskovski thì lại cho rằng: Berberin sulfat dùng chữa viêm gan,
viêm tói mật, sỏi mật, ngày 5-10mg, đợt điều trị từ 2-4 tuần. Ngoài ra còn có
thể dùng dưới dạng cồn[22].
Berberin được chiết ra từ C.fenestratum có hiệu quả ức chế các vi
khuẩn gây bệnh đường ruột ở gia súc như gà, lợn, chó có thể trộn vào thức
ăn hoặc nước uống [17].
Ngoài những ứng dụng trên, Berberin còn dùng để làm chất tạo màu
trong thực phẩm và trong các loại đồ uống có cồn [18].
Vì những công dụng quan trọng như vậy và những công trình nghiên
cứu cần phải bổ sung cho nên chúng tôi tiến hành đề tài trên.
PHẦN III
THỰC NGHIỆM VÀ KẾT QUẢ.
1. Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu.
1.1. Nguyên liệu:
- Thân cây vàng đắng (Coscinium usitatum) được thu hoạch tại trung
và hạ Lào (do anh Chu Văn thu hoạch). Đem về thái mỏng, sấy khô ở 60
0
C,
sau đó tán thành bột thô 1mm.

- Thời gian lấy mẫu: tháng 4/2000 (trước mùa mưa)
1.2. Phương pháp nghiên cứu.
1.2.1. Định lượng Berberin trong vàng đắng (theo DĐVNII- tập 3).
1.2.2. Khảo sát độ tan của các muối Berberin:
- Dùng các dung dịch acid: acid sulfuric 2%, 4%, acid hydrochlorid 1%
và acid acetic 1%.
- Chiết bằng phương pháp chiết nguội.
1.2.3. Phương pháp chiết xuất Berberin trong cây vàng đắng:
- Khảo sát nồng độ muối NaCl: tìm nồng độ NaCl để cho năng suất
chiết xuất tối ưu.
- Tìm nồng độ H
2
SO
4
cho hiệu suất chiết xuất cao.
- Tìm số lần chiết để đạt hiệu quả cao.
- Tìm tỷ lệ dung môi/ nguyên liệu để chiết đạt hiệu quả cao.
- Các hoá chất, nguyên liệu đạt tiêu chuẩn DĐVN II, tập 3.
1.2.4. Xác định hàm lượng Berberin trong sản phẩm chiết được
từ vàng đắng (bằng phương pháp HPLC):
Tiến hành tại trung tâm giáo dục và phát triển sắc ký Việt Nam
(EDC) trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
- Máy sắc ký HPLC: máy Hewlet Packard 1100 kèm 1 máy vi tính CR-
4AX.
- Cột Zorbax RX-SIL
- Pha động: Ethyl acetat: acid formic: methanol (15: 3: 2)
- Bước sóng phát hiện: 280 nm
- Lượng mẫu bơm: 20µl, bơm tay.
- Tốc độ dòng: 1ml/ 1phót.
- Áp suất: 66 bar (kg/cm

3
).
1.2.5. Phương pháp tinh chế Berberin:
- Theo phương pháp tinh chế Berberin chiết từ vỏ cây Hoàng bá của bộ
môn Công nghiệp dược - Trường Đại học Dược Hà Nội.
1.2.6. Dự kiến xây dựng và mô tả quy trình chiết.
1.2.7. Khảo sát các quy trình chiết xuất Berberin cò. So sánh với
quy trình dự kiến.
1.2.8. Phương pháp xử lý số liệu [5]:
Số liệu trong thực nghiệm được xử lý theo phương pháp thống kê ứng
dụng trong y dược. Xác định giá trị trung bình, độ lệch chuẩn (S) và khoảng
tin cậy (µ).
- Giá trị trung bình: x =
- Độ lệch chuẩn: S
2
=
- Khoảng tin cậy trung bình:
Trong đó : S: độ lệch chuẩn
n: số lần thí nghiệm
f = n-1: số bậc tự do
t
α
: Hằng số student với α = 0,05.
So sánh 2 giá trị trung bình theo giả thiết trung bình cộng (test T) chấp
nhận ở mức ý nghĩa của α (được quy ước là p) ở 0,05.
Theo thống kê dược học:
- Nếu α > 0.05: hai giá trị khác nhau không có ý nghĩa thống kê
- Nếu α < 0,05: hai giá trị khác nhau có ý nghĩa thống kê.
2- Kết quả thực nghiệm:
2.1. Định lượng Berberin trong vàng đắng:

Theo dược điển Việt Nam II - tập 3 - trang 303.
- Nguyên tắc định lượng: theo phương pháp cân
- Tiến hành:
Cân chính xác khoảng 10g bột dược liệu cho vào dụng cụ chiết soxhlet,
chiết bằng methanol (TT) tới khi dịch chiết không còn màu vàng nhạt. Cất thu
hồi methanol trên cách thuỷ cho đến khi còn lại khoảng 1/10 thể tích ban đầu.
Thêm 30ml nước cất và 2 gam Magnesi oxyd (TT). Tiếp tục đun trên cách
thuỷ ở nhiệt độ 60-70
0
C khoảng 15 phót, thỉnh thoảng lắc bình. Lọc hót chân
không. Rửa cắn bằng 50ml nước cất, chia làm nhiều lần cho đến khi dịch rửa
không còn màu vàng. Gộp các nước rửa và dịch lọc vào một bình có dung tích
200ml. Thêm 5ml dung dịch Kali iodid 50% và khuấy đều để kết tuả Berberin
iodat. Ly tâm, gạn bỏ dịch ở phía trên, tủa còn lại trong ống ly tâm, thêm
30ml dung dịch Kali iodid 2% và khuấy thật kỹ. Dùng 50ml nước cất chia ra
làm nhiều lần, chuyển tủa vào bình nón có nót mài dung tích 250ml. Đun trên
cách thuỷ, đồng thời lắc cho berberin iodat phân tán đều trong bình. Khi nhiệt
độ trong bình lên khoảng 70
0
C, thì vừa lắc vừa thêm aceton (TT) cho tan hết
berberin iodat. Thêm tức khắc 3ml dung dịch natri hydroxyd 10% (TT), lắc
cho tới khi bắt đầu kết tủa aceton - berberin. Đậy bình, để yên chỗ mát qua
đêm, lọc qua phễu xốp thuỷ tinh G
3
(đường kính lỗ xốp 16-40µm) đã cân bì
trước. Đo thể tích dịch lọc (V.ml). Rửa tủa bằng 10ml nước, rồi rửa 2 lần nữa,
mỗi lần 5ml, sấy tủa ở 105
0
C trong 3h. Để nguội trong bình hót Èm, cân tủa
aceton - berberin.

1g tủa tương ứng với 898,2mg Berberin (C
20
H
18
NO
5
)
1ml dịch lọc tương ứng với 0,100mg Berberin.
Hàm lượng phần trăm berberin trong dược liệu khô kiệt được tính theo công thức:

a: Khối lượng tủa thu được (g)
v: Thể tích dịch lọc thu được (ml)
P: Khối lượng dược liệu khô kiệt (đã trừ độ Èm) lấy để định lượng (g).
Kết quả ở bảng 1:
Bảng 1: Kết quả định lượng Berberin trong dược liệu
n Đọ Èm (%) m
tủa
(g) Vdịch lọc (ml) Hàm lượng Berberin (%)
1
2
3
8,04
8,12
8,09
0,3154
0,2679
0,2854
119
156
138

3,21
2,79
2,94

8,94
TB 2,98(%)
2.2. Khảo sát độ tan của các muối Berberin:
Từ lâu nhiều tác giả đã đặt vấn đề nghiên cứu dùng dung môi thay thế
cồn Ethylic để chiết Berberin trong vằng đắng như Nguyễn Liêm, Triệu Duy
Điệt, Hồ Đắc Trinh
Muốn vậy, chúng ta phải tìm độ tan của các muối Berbrin khác nhau
hay nói cách khác là dùng các dung dịch acid khác nhau để chiết xuất
Berberin từ dược liệu.
Năm 1983 Hồ Đắc Trinh đã đưa ra hệ số hoà tan của các muối Berberin
[12]:
- B. iodat: 1: 2130 : 1: 2130
- B.clohydrat: 1: 500 : 1: 500
- B. citrat: 1: 125 : 1: 125
- B. photphat: 1: 15 : 1: 15
- B. acetat: 1: 20 : 1: 20
- B. sulfat: 1: 30 : 1: 30
- B. sulfat acid: 1: 100 : 1: 100
Như trên ta thấy hệ số hoà tan của các muối Berberin trong nước lớn
nhất là Berberin photphat, Berberin acetat rồi đến Berberin sulfat trung tính.
Acid photphoric và Acid acetic là loại acid khó kiếm đắt tiền nên không được
sử dụng làm dung môi chiết xuất, còn acid sulfuric công nghiệp là loại hoá
chất dễ mua, rẻ tiền nên việc sử dụng làm dung môi chiết xuất là thích hợp.
Dựa trờn c s ú chỳng tụi tin hnh kho sỏt tan ca Berberin vi
cỏc dung dch acid sau: acid sulfuric 2%, 4%, acid clohydrid 1%, acid acetic 1%.
Cõn 5 gam dc liu, chit vi 4 loi dung dch trờn theo phng phỏp

ngõm. Mi ln chit vi 40ml dung dch acid (T l dung mụi/dc liu: 8/1),
ngõm t 2-3 ting, thnh thong lc, chit 3 ln. Gp cỏc dch chit li. Cõn
0,1g than hot cho vo bỡnh ng dch chit, lc khong 10 phút. Lc loi b
than hot. Lng dch lc thu c l 100ml. Cõn 10g NaCl cho vo mi
bỡnh, lc cho tan ht, lng qua ờm.Lc ly ta, em sy 60
0
C n khi
lng khụng i. em cõn.
Quy trỡnh chit theo s 1.

+ dung dịch acid
ngâm 2-3h, thỉnh thoảng lắc
Bột dợc liệu
Dịch chiết 1 Bã 1
+ dung dịch acid
ngâm 2-3h, thỉnh thoảng lắc
Dịch chiết 2 Bã 2
+ dung dịch acid
ngâm 2-3h, thỉnh thoảng lắc
Dịch chiết 3 Bã 3 (bỏ)
Dịch chiết
Dịch lọc

0,1g than hoạt
Lọc
Dịch lọc Berberin clorid thôCân
Sấy ở nhiệt độ 60
0
C
Kết quả thu được ở bảng 2:

Bảng 2: Khối lượng Berberin thu được khi chiết với 4 dung dịch acid
khác nhau.
Dung môi
Số lần
H
2
SO
4
2%
(g)
H
2
SO
4
4%
(g)
HCl 1%
(g)
CH
3
COOH 1%
(g)
1
2
3
4
5
0,2629
0,2927
0,2768

0,2813
0,2750
0,1783
0,1826
0,1950
0,1736
0,2036
0,1344
0,1530
0,1486
0,1366
0,1467
0,3917
0,3719
0,3820
0,3898
0,3905

1,3887 0,9331 0,7187 1,9259
+ NaCl, ®Ó tña qua ®ªm
TB
0,2777
± 0,0134
0,1866
± 0,0153
0,1437
± 0,0101
0,3852
± 0,0126
Kết quả được tính theo phương pháp thống kê với mức ý nghĩa α = 0,05.

Các kết quả được biễu diễn qua đồ thị 1.
Đồ thị 1: Khảo sát độ tan của các muối Berberin.
Qua bảng 2 và đồ thị 1 ta thấy nếu chiết với dung dịch acid acetic 1%
sẽ cho kết quả cao nhất, sau đó là đến dung dịch acid sulfuric 2%. Nhưng do
acid acetic là một acid dễ bay hơi, độc và đắt tiền, còn acid sulfuric rẻ, dễ
mua, hầu như không bay hơi, do đó chúng tôi chọn acid sulfuric để chiết
Berberin từ vàng đắng với nồng độ là 2%.
2.3. Chiết xuất Berberin từ cây vàng đắng:
*Khảo sát nồng độ H
2
SO
4
:
Với nồng độ acid H
2
SO
4
nằm ở vùng 2% cho hiệu quả chiết xuất cao,
nhưng chính xác ở vùng nào thì chưa rõ, do vậy chúng tôi tiếp tục thí nhgiệm,
tìm được đỉnh của thí nghiệm. Vì thế chúng tôi tiến hành thí nghiệm như trên
nhưng chiết với dung dịch acid sulfuric ở các nồng độ khác nhau và nồng độ
muối NaCl là 32,4%. Nhưng qua quá trình thực nghiệm cho thấy: sau khi sấy
khô vẫn còn lẫn rất nhiều muối NaCl bắt đầu từ nồng độ 20%. Do đó chúng
tôi tiến hành rửa tủa với 5ml nước, đem sấy lại và cân. Do Berberin clorid tan
Ýt trong nước nên trong quá trình rửa sẽ mất đi một lượng nhỏ Berberin
clorid nhưng không đáng kể.
Kết quả được ghi ở bảng 3.
Bảng 3: Khối lượng Berberin thu được khi thay đổi nồng độ H
2
SO

4

H
2
SO
4
(%)
n
1,5 1,6 1,7 1,8 1,9
1
2
3
4
5
0,6032
0,6139
0,6003
0,6108
0,6083
0,6304
0,6318
0,6280
0,6311
0,6258
0,6645
0,6589
0,6603
0,6680
0,6586
0,7241

0,7281
0,7192
0,7301
0,7308
0,6844
0,6903
0,6859
0,6930
0,6873

3,0365 3,1471 3,3103 3,6323 3,4409
TB
0,6373
± 0,0068
0,6294
± 0,0030
0,6621
± 0,0050
0,7265
± 0,0059
0,6882
± 0,0042
(Tiếp bảng 3):
H
2
SO
4
(%)
n
2,0 2,1 2,2 2,3 2,4

1
2
3
4
5
0,8800
0,8763
0,8789
0,8808
0,8732
0,8613
0,8645
0,8598
0,8601
0,8585
0,8676
0,8613
0,8571
0,8601
0,8549
0,7336
0,7348
0,7402
0,7299
0,7367
0,6968
0,6950
0,7003
0,7109
0,6980


4,3892 4,3042 4,3010 3,6752 3,5010
TB
0,8778
± 0,0038
0,8608
± 0,0028
0,8602
± 0,0059
0,7350
± 0,0046
0,7002
± 0,0077
Từ kết quả trên đưa ra đồ thị sau:
Vẽ đồ thị.
Đồ thị II: Mối liên quan giữa khối lượng Berberin và nồng độ H
2
SO
4
.
Nhìn vào đồ thị ta thấy nồng độ dung dịch sulfuric 2% và nồng độ muối
32,4% thì thu được kết quả cao nhất, sau đó là nồng độ acid H
2
SO
4
2,1 -
2,2%, còn ở nồng độ H
2
SO
4

1,5% thì thu được kết quả thấp nhất.
• Khảo sát nồng độ NaCl:
Để tiện trong quá trình làm thực nghiệm, chúng tôi chọn nồng độ dung
dịch H
2
SO
4


2%.
Chúng tôi tiến hành thay đổi hàm lượng NaCl, chiết với 40ml dung dịch
H
2
SO
4
2%, chiết 3 lần.
Kết quả được ghi ở bảng 4.
Bảng 4: Khối lượng Berberin thu được khi thay đổi nồng độ Natri clorua
NaCl(g)
n
10 15 20 25 26
1
2
3
4
5
0,2852
0,2782
0,2612
0,2518

0,2820
0,3596
0,3630
0,3542
0,3841
0,3456
0,4621
0,4632
0,4716
0,4526
0,4710
0,6343
0,6318
0,6081
0,6218
0,6280
0,6439
0,6430
0,6512
0,6632
0,6581

1,3584 1,0865 2,3205 3,1240 3,2594
TB
0,2717
± 0,0179
0,3613
±0,0178
0,4641
± 0,0096

0,6248
± 0,0130
0,6519
± 0,0109
(tiếp Bảng 4):
NaCl(g)
n
27 28 29 30 31
1
2
3
4
5
0,6509
0,6532
0,6548
0,6601
0,6492
0,6723
0,6681
0,6703
0,6678
0,6715
0,7003
0,7089
0,7102
0,7058
0,7041
0,7517
0,7508

0,7489
0,7520
0,7498
0,7652
0,7701
0,7685
0,7718
0,7690

3,2682 3,3500 3,5293 3,7532 3,8446
TB
0,6536
± 0,0052
0,6700
± 0,0023
0,7059
± 0,0048
0,7506
± 0,0015
0,7689
± 0,0029
(Tiếp bảng 4):
NaCl(g)
n
31,5
A1
31,6
A2
31,7
A3

31,8
A4
31,9
A5
1
2
3
4
5
0,7068
0,7013
0,7102
0,7078
0,7115
0,6699
0,6632
0,6708
0,6657
0,6715
0,6803
0,6815
0,6789
0,6776
0,6808
0,7173
0,7158
0,7192
0,7208
0,7165
0,7637

0,7648
0,7592
0,7719
0,7586

3,5376 3,3411 3,3991 3,5896 3,7882
TB
0,7075
± 0,0049
0,6682
± 0,0044
0,6798
± 0,0017
0,7179
± 0,0025
0,7576
± 0,0107
(Tiếp bảng 4):
NaCl
n
32,0
A6
32,1
A7
32,2
A8
32,3
A9
32,4
A10

1
2
3
4
5
0,8815
0,8786
0,8802
0,8820
0,8791
0,8203
0,8169
0,8210
0,8187
0,8190
0,8943
0,8903
0,8918
0,8896
0,8908
0,9312
0,9308
0,9362
0,9296
0,9301
0,9339
0,9326
0,9348
0,9358
0,9316


4,4014 4,0959 4,4568 4,6579 4,6687
TB
0,8803
± 0,0017
0,8192
± 0,0029
0,8914
± 0,0022
0,9316
± 0,0033
0,9337
± 0,0010
(Tiếp bảng 4):
NaCl
n
32,5
A11
32,6
A12
32,7
A13
32,8
A14
32,9
A15
1
2
3
4

5
0,7135
0,7102
0,7206
0,7186
0,7218
0,7073
0,7166
0,7054
0,7091
0,7125
0,6467
0,6474
0,6508
0,6623
0,6457
0,6491
0,6472
0,6389
0,6596
0,6460
0,6393
0,6308
0,6412
0,6381
0,6481

3,5847 3,5509 3,2529 3,2408 3,1975
TB
0,7169

± 0,0061
0,7102
± 0,0054
0,6506
± 0,0085
0,6482
± 0,0092
0,6395
± 0,0077
Các số liệu trên được biểu diễn bằng đồ thị 3.
Đồ thị 3: Mối liên quan giữa khối lượng Berberin và nồng độ NaCl.
Nhận xét: Qua đồ thị 3 ta thấy Berberin clorid tủa nhiều nhất ở nồng độ là từ
32,2-> 32,4 (%).
*Thay đổi số lần chiết:
Sau khi tìm được nồng độ H
2
SO
4
, NaCl đạt năng suất chiết tối ưu
chúng tôi tiến hành khảo sát số lần chiết xuất Berberin từ dược liệu. Chiết với
dung dịch acid H
2
SO
4
2,0%, V = 40ml, chiết 3 lần, lượng muối 32,4 (g). Tiến
hành như quy trình trên.
Kết quả ở bảng 5.
Bảng 5. Khối lượng Berberin thu được khi thay đổi số lần chiết
Sè lần chiết
n

2 3 4 5
1
2
3
4
5
0,6961
0,6813
0,6938
0,7048
0,7082
0,8443
0,8550
0,8476
0,8493
0,8513
0,8445
0,8490
0,8507
0,8473
0,8586
0,8668
0,8672
0,8591
0,8732
0,8701

3,4842 4,2475 4,2501 4,3364
TB
0,6968

± 0,0130
0,8495
± 0,0049
0,8500
± 0,0066
0,8673
± 0,0064
Từ kết quả trên chúng tôi đưa ra đồ thị sau:
Đồ thị 4: Mối liên quan giữa khối lượng tủa berberin và số lần chiết.

×