Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Google và công cụ tìm kiếm Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.05 KB, 39 trang )

Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
LỜI MỞ ĐẦU
Bạn đã từng lên mạng? Bạn đã từng nghe nhạc, tìm video, tìm tài liệu
phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu ? Vâng, tất nhiên ! Hầu như bạn chẳng
cần phải trả một xu nào cho những dịch vụ này. Bạn thích thú vì những món
hàng “free” đó? Và chắc hẳn rằng bạn cũng chẳng quan tâm đến nguồn gốc của
nó vì điều đó đối với bạn như một lẽ thường tình. Một sự thật sẽ khiến bạn bất
ngờ là chính bạn mới là người trực tiếp mang lại lợi nhuận cho các trang
Website tìm kiếm đó. Chỉ một cái click chuột của mình, bạn đã mở ra hàng
ngàn cơ hội cho các dịch vụ quảng cáo và mang đến một nguồn lợi nhuận to lớn
với một con số đáng kinh ngạc ước tính hàng tỷ đôla Mỹ mỗi năm. Và như một
quy luật của cuộc sống, ở đâu có lợi nhuận, ở đó sẽ có cạnh tranh, thậm chí cả
chiến tranh… Cuộc đua về mảng tìm kiếm thông tin trên Internet đã và đang
ngày càng trở nên kịch liệt và hấp dẫn đến mức co thể coi đó như là dẫn chứng
tiêu biểu cho sự phát triển công nghệ thông tin thế giới hiện nay. Dẫn đầu cuộc
đua này phải kể đến ông trùm Google, Microsoft, Yahoo, Baidu…với những
sản phẩm dịch vụ đa dạng và hiện đại.
Quay về với thực trạng của Việt Nam, để bắt kịp với xu hướng chung
của thế giới, cách đây hơn 10 năm Việt Nam cũng đã tham gia trong cuộc chạy
đua này. Trong giai đoạn đó, dù đã rất cố gắng để cho ra những sản phẩm ưu
Việt phục vụ cho chính người Việt Nam nhưng xét về mặt kinh nghiệm, nguồn
vốn…thì đây quả thật là một cuộc chiến không cân sức nên Việt Nam đã để
thua ngay trên chính “sân nhà”. Thị trường Việt đã chứng kiến sự đổ bộ của
những tập đoàn CNTT đứng đầu thế giới và chiếm gần hết 100% thị phần khách
hàng trong nước.
Hơn 10 năm nhìn lại, đến nay với những điều kiện thuận lợi hơn trước,
CCTK Việt Nam chưa chịu bỏ cuộc mà vẫn tiếp tục phấn đấu để tranh giành lại
thị phần với những tập đoàn lớn với mục đích cung cấp sản phẩm “thuần Việt”
cho người dân Việt. Điều này quả thật không dễ dàng gì khi người sử dụng đã
1
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh


quá quen sử dụng những dịch vụ của Google, Yahoo. Nhưng phải nói rằng,
không dễ chứ không phải là không thể được. Chỗ đứng nào cho Công cụ tìm
kiếm Việt nam trong lòng giới trẻ nói riêng và cộng đồng mạng nói chung hiện
nay? Liệu CCTK Việt Nam đã tìm ra lối đi đúng hướng cho mình? . Đó cũng là
lý do để Nhóm chọn “Google và công cụ tìm kiếm Việt” làm đề tài tiểu luận
cho mình. Nhóm không tham vọng để đưa ra những đề xuất hiệu quả nhưng chí
ít Nhóm cũng muốn góp sức mình để tìm ra những thực trạng, những ưu nhược
điểm để từ đó góp phần nhỏ của mình ủng hộ cho sự thắng lợi của mảng công
cụ tìm kiếm nói riệng và lĩnh vực công nghệ thông tin của Việt Nam nói chung.
2
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG
Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu đề tài, Nhóm đã quyết định trình bày
bài tiểu luận như một bài báo tổng hợp về những khái niệm cũng như phần tranh
luận xung quanh các trang tìm kiếm Việt và Google.com.vn. Tuy vậy, bài báo
cáo này không vượt xa khuôn khổ của một bài luận thông thường. Nhóm đã tìm
tòi, bám theo một số cơ sở lý luận có trọng yếu đánh vào những ý tưởng mình
muốn trình bày. Nhìn nhận từ những quan điểm cá nhân cũng như của một tập
thể quan điểm, những thông tin từ các cư dân, cộng đồng mạng, nhóm đã quyết
định đưa ra một bài khảo sát thưc tế nhỏ dành cho những người có thể gọi là
có chuyên môn - cụ thể ở đây là các sinh viên của một số trường được đào tạo
ngành công nghệ thông tin như Trường Đại học Công Nghệ Thông Tin, Trường
Sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học tự nhiên
và Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh_ngành Hệ thống thông
tin quản trị. Bên cạnh đó, để bài viết mang tính đa chiều, Nhóm đã dành một
phần không nhỏ để khảo sát riêng các “dân” không chuyên mà điển hình là sinh
viên Đại học Ngân hàng Tp Hồ Chí Minh chuyên ngành Tài chính Ngân hàng.
Qua cuộc khảo sát đó, nhóm đã thu thập những thông tin khá cần thiết và bổ ích
cho bài viết của mình . Những thông tin đó sẽ được nhóm chuyển tài dần qua
các trang viết sau.

Hiện nay, nếu nói về các trang tìm kiếm, so với Yahoo, Google thì các
trang của chúng ta làm được quá ít nhưng không có nghĩa là chúng ta không làm
được. Những trang tìm kiếm Việt Nam như Vinaseek, Pan Vietnam hay Hoatieu
tuy xuất hiện trước các “ông lớn” tại thị trường nội địa nhưng lại đứng không
vững và mau chóng đi vào thoái trào .Trong này, Nhóm tạm gọi các trang như
thế là “thế hệ cũ”, và trong các năm gần đây lại xuất hiện một “thế hệ mới”,
sản phẩm những người trẻ tuổi Việt Nam, thế hệ 8X, những con người có tâm
huyết, có gan, thích thách thức và ý chí kiên định.
3
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
Từ đó, Nhóm chúng tôi, một phần cũng là những người thuộc thế hệ 8X,
thích thú với những câu chuyện của người cùng thế hệ nên quyết định bắt tay
vào thực hiện bài tiểu luận “Google.com.vn và công cụ tìm kiếm Việt” . Nội
dung của bài luận sẽ xoay quanh các câu hỏi : Tại sao chúng tôi lại chọn
Google mà không phải là một tên tuổi khác? Các trang tìm kiếm “sống sót” như
thế nào trong khi phần lớn cung cấp dịch vụ miễn phí cho người dùng, liệu có
chắc chúng ta đang dùng miễn phí các dịch vụ đó hay không? Và nhìn lại Việt
Nam, liệu các trang tìm kiếm Việt có thể đứng vững và phát triển lớn mạnh
trong một môi trường cạnh tranh không cân sức, những lý do nào khiến chúng
ta cần xây dựng một thương hiệu Việt, một công cụ tìm kiếm “made in Việt
Nam”. Hy vọng sau bài viết này Nhóm có thể một phần giải đáp thắc mắc trên
và mong muốn lớn nhất của không riêng gì cá nhân các thành viên trong Nhóm
là đánh động vào ý thức của người dùng Internet rằng ngoài Google và Yahoo
thì đâu đó trên thế giới ảo còn có những trang tìm kiếm Việt Nam, chúng cần
người Việt biết đến, cần người Việt sử dụng, chúng cần động lực từ chúng ta,
những người dùng Việt thế hệ trẻ, có tầm vóc ảnh hưởng, lan truyền mạnh mẽ
đến thế hệ khác.
Số lượng mẫu khảo sát của Nhóm chỉ giới hạn ở con số 600, tuy vậy
Nhóm tin tưởng vào sức mạnh của Maketing truyền miệng. Nếu sau bài viết
này mà có thể được một làn sóng nhỏ, thay đổi một chút thói quen sử dụng

trang tìm kiếm thì rõ ràng Nhóm đã tạo được một thành công đáng kể.Và sau
đây là phần luận của Nhóm.
Trước nhất chúng ta sẽ đi tìm hiểu về một số vấn đề cơ bản cần thiết.
1.1 Web 2.0:
Khi đã đề cập đến công cụ tìm kiếm không thể không nhắc đến thế hệ
web 2.0 đang nở rầm rộ ,được các nhà truyền thông nhắc đến trong khoảng thời
gian gần đây. Hiện nay vẫn chưa đưa ra một định nghĩa hay khái niệm chính
thức về Web 2.0. Nếu muốn tìm hiểu về Web 2.0 thì chính các nhà công nghệ
trên thế giới cũng chỉ đưa ra ví dụ , so sánh với các phương tiện truyền thông
4
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
khác loại. Có thể nói, Web 2.0 không thể hiểu một cách riêng biệt ở từng khía
cạnh kỹ thuật, kinh tế hay xã hội được nhưng đây là bài viết mang tính chất kinh
tế nên có thể tóm gọn cách hiểu Web 2.0 qua các ứng dụng của nó theo các chủ
đề sau:
 Audio và music : treaming, download, podcasting,các dịch vụ sách điện
tử…
 Browsing (trình duyệt) : Các công cụ để truy cập content, bao gồm: trình
duyệt, start pages, đọc tin RSS, widgets và runtime engines
Commerce : bán lẻ, đấu giá, các dịch vụ quảng cáo, chuyển tiền, du lịch …
 Communications : E-mail, chat, voice …
 Infrastructure và Storage : các công cụ phát triển, các dịch vụ lưu trữ và
đồng bộ trực tuyến …
 Location –based services : Bản đồ, tìm bạn bè, các dịch vụ về bản đồ địa lý
 Photo và Video: Lưu trữ, chia sẻ và chỉnh sửa hình ảnh, các dịch vụ về
Video …
 Productivity: Các công cụ online hỗ trợ cho công việc của cá nhân và tập
thể.
Search engine và reference : tìm kiếm dữ liệu, kiến thức, wiki và các công
cụ liên quan..

Social và publishing : Mạng xã hội, các công cụ quản lý nội dung, blogging
và micro-blogging …
Ở mỗi ứng dụng khác nhau lại có một vài đại diện cụ thể đặc trưng. Có
thể lấy ví dụ về ứng dụng Browsing như trình duyệt Firefox, Internet Explorer;
về Communications như Gmail, Yahoo!mail, Yahoo!Chat ; về Commerce như
trang eBay.com, Amazon.com hay về Photo và Video lại có Youtube... Cụ thể,
web 2.0 về cơ bản không chỉ thay đổi về công nghệ mà nó còn thay đổi cơ bản
cách sử dụng Internet của người dùng. Nếu trước đây người dùng chỉ tìm đọc
thông tin thì nay họ chính là người tương tác với các nội dung đó, nói cách khác
5
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
họ là người đưa tin và phản hồi thông tin. Đơn cử như trang Wikipedia, vốn là
một trang nhật ký mở, các thông tin từ nó đều do người sử dụng đưa lên, sửa
chữa, bổ sung, tranh luận. Về mặt nội dung, sự chính xác của thông tin chỉ
mang tính chất tương đối nhưng dù sao thì đó chính là một đại diện tiêu biểu
của thế hệ web 2.0, mang ý nghĩa triết lý của thời kỳ web mới : “Tận dụng triệt
để trí tuệ cộng đồng”… Khi đó, nói đến vai trò của công cụ tìm kiếm trong thế
giới web 2.0, có thể nói công cụ tìm kiếm đóng một vai trò cực kỳ quan trọng,
là một ứng dụng xuất sắc, đặc biệt là Google. Có thể ví von, Google là “đứa con
cưng”của thế hệ web 2.0. Nếu thiếu một công cụ tìm kiếm như Google thì
không biết việc thu thập và lấy nguồn thông tin trở nên khó khăn đến dường
nào.
1.2 Công cụ tìm kiếm :
Khái niệm : là một phần mềm nhằm tìm ra các trang trên mạng Internet có nội
dung theo yêu cầu người dùng dựa vào các thông tin mà chúng có. Trữ lượng
thông tin này của công cụ tìm kiếm thực chất là một loại cơ sở dữ liệu (database)
cực lớn. Việc tìm các tài liệu sẽ dựa trên các từ khóa (keyword) được người dùng
gõ vào và trả về một danh mục của các trang Web có chứa từ khóa mà nó tìm
được.
Trong mỗi giao diện của một trang tìm kiếm bất kỳ, người dùng sẽ quan

tâm nhất đến hai yếu tố sau đây, đó là: từ khóa và sự phân hạng. Vì sao? Vì nếu
gõ từ khóa đúng, có khoa học thì sẽ cho ra các kết quả bám sát với nội dung mà
người tìm muốn hướng tới. Và trong hàng loạt, hàng nghìn kết quả được xuất ra
thì người dùng chắc chắn chỉ chọn vài trang đầu, thứ hạng cao, có thể nói nhiều
lắm là 5 trang, nếu ai đó có đủ kiên nhẫn để tìm tới trang thứ 10, những trường
hợp hy hữu. Đó là điều chắc chắn, lý do? Càng về sau thông tin càng bị loãng,
các kết quả chỉ bám vào từ khóa đã bị“bẽ gãy”. Ví dụ, khi gõ cụm từ “bài tập
nguyên lý thống kê”các trang đầu sẽ cho ra kết quả những từ khóa mật độ dày,
càng về sau, các kết quả được hiển thị đại loại như: “bài tập”ở hàng thứ
nhất”,”nguyên” hàng thứ hai,””thống “ở hàng thứ ba...
6
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
1.3 Lợi nhuận của các trang tìm kiếm:
Ở phần trên, Nhóm đã nêu ra hai yếu tố quan trọng mà người dùng quan tâm :
từ khóa với sự phân hạng, và đó cũng là cơ sở lý thuyết để đưa đến cách đặt vấn
đề cho đề mục này. Lâu nay, đã ai từng đặt câu hỏi: Liệu rằng các trang tìm
kiếm làm sao để duy trì hoạt động của một cỗ máy khổng lồ với lượng nhân
viên “đông đúc”, làm sao mà họ có thể sống sót được? Vậy nguồn tài chính tài
trợ đằng sau lấy từ đâu? Và sau này các trang tìm kiếm Việt cũng vậy, muốn tồn
tại và phát triển không lẽ lại “sống bằng niềm tin” , không lẽ cứ cung cấp dịch
vụ “chùa” cho người sử dụng sao? Câu trả lời sẽ được làm rõ ngay sau đây!
Thứ nhất: Chi phí để các trang web được thu thập nhanh.Tức là, hiện
nay trên thế giới có một lượng lớn web mới ra đời mỗi ngày. Nếu muốn có mặt
trong danh sách liệt kê của các trang tìm kiếm thì trước tiên trang đó phải được
các máy tìm kiếm thu thập về và lưu trong kho dữ liệu, thời gian để được máy
tìm kiếm “để mắt” tới có thể sẽ mất từ vài tuần đến vài tháng.Nếu doanh nghiệp
không muốn đợi lâu thì phải trả phí để các máy tìm kiếm thu thập nhanh hơn, cỡ
độ khoản một hay hai ngày.
Thứ hai: Bán thông tin. Tức là, các cỗ máy tìm kiếm thường thu thập
một lượng thông tin khổng lồ về các sở thích và hành vi của người sử dụng

trong quá trình vận hành của chúng. Những thông tin này, bên cạnh việc hỗ trợ
cho việc nâng cấp các máy tìm kiếm để trả về kết quả phù hợp hơn, còn có thể
được bán cho các công ty khác. Những công ty mua các thông tin này có thể sử
dụng chúng để biết được những sản phẩm người tiêu dùng đang quan tâm hoặc
tiên đoán những nhu cầu của người tiêu dùng trong tương lai. Về cách “kiếm
lời” thứ hai này Chúng tôi xin đưa ra ví dụ như dịch vụ: Google Trends (xu
hướng) ,đây được coi là “kẻ thù đáng gờm“ đối với các công ty nghiên cứu thị
trường, với ưu thế quá rõ ràng, Google có thể dựa khả năng tự động thu thập
thông tin về nhu cầu của khách hàng qua công cụ tìm kiếm để bán đi kiếm lợi
nhuận.
7
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
Thứ ba: Bán dịch vụ. Các công ty sở hữu công nghệ về máy tìm kiếm
thường bán các dịch vụ tìm kiếm cho các công ty có khối lượng dữ liệu lớn và
phân tán. Ví dụ, Google bán công nghệ Google Search Appliance cho các công
ty muốn triển khai các dịch vụ tìm kiếm dữ liệu của nội bộ công ty.
Thứ tư: Quảng cáo trực tuyến qua công cụ tìm kiếm. Nguồn thu này
được xem là nguồn thu lớn nhất. Có hai cách quảng cáo trực tuyến bằng công cụ
tìm kiếm dựa vào “từ khóa” và “sự phân hạng”. Đây được xem là động lực
chính để giúp các trang tìm kiếm tồn tại.
 Khách hàng trả tiền để bảo đảm trang web của họ nằm ở thứ hạng cao
trong danh sách kết quả tìm kiếm trả về của máy tìm kiếm .
 Các máy tìm kiếm phân chia trang kết quả tìm kiếm thành hai phần,
một phần là kết quả tìm kiếm khách quan, độc lập với việc có trả tiền hay
không, và phần còn lại là dành cho các trang web có trả tiền. Ví dụ với Google,
phần thứ hai thường chiếm một phần nhỏ bên phải, dưới tiêu đề Sponsored
Links. Đây rõ ràng là một công cụ Marketing mới, vì hiện này khách hàng đã
thông minh, sành sỏi hơn rất nhiều. Họ đã biết tự tìm kiếm thông tin sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ chỉ đơn giản bằng cách đánh từ khóa vào ô trống trên giao
diện của trang tìm kiếm .Vì vậy, các doanh nghiệp nên biết đâu là phương pháp

quảng cáo hiệu quả cho website của mình thông qua trang tìm kiếm.
1.4 Qũy đầu tư mạo hiểm:
Có lẽ các bạn sẽ thắc mắc vì sao chúng tôi lại đề cặp đến khái niệm và
một số vấn đề xung quanh các quỹ đầu tư mạo hiểm này? Tất nhiên là sẽ không
là vô cớ, qũy đầu tư mạo hiểm là một hình thức đầu tư mới ở Việt Nam, nó
chuyên đầu tư vào các dự án liên quan đến công nghệ cao, có ý tưởng mới, khả
năng đóng góp cao vào thực tế…đặc biệt là các ứng dụng của web2.0 có triển
vọng. Tuy nhiên đối với Việt Nam hình thức này còn khá mới mẻ, chỉ được
nhắc nhiều trong những năm gần đây, đặc biệt là khi có sự bước chân của quỹ
IDG của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Điều đó cũng cho thấy Việt Nam bắt đầu tạo
dựng được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển công nghệ. Sự cần thiết khi
8
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
đưa đề mục này vào bài luận là rõ ràng. Vì sao? Vì một trong các dự án mà các
quỹ đầu tư có hứng thú là search engine (công cụ tìm kiếm), mà hầu như tất cả
các công cụ tìm kiếm nổi tiếng thì trang nào cũng được một số quỹ đầu tư mạo
hiểm cấp vốn trong thời gian đầu của dự án, bằng chứng là Google hay Yahoo
đều được các quỹ này đồng ý cấp vốn và cả hỗ trợ về quản lý điều hành. Riêng
ở Việt Nam, xin lấy ví dụ, cổng thông tin timnhanh.com do công ty cổ phần
VON thành lập và đã được Qũy đầu tư DFG VinaCapital đầu tư USD để xây
dựng và phát triễn cổng thông tin của mình . Hiện nay, timnhanh.com cũng dần
dần quen thuộc đối với người dùng Internet Việt, tương lai chắc chắn có tiềm
năng phát triển mạnh mẽ để trở thành trang web giải trí, cổng tích hợp thông tin
đa dạng hàng đầu của Việt Nam .
1.4.1 Đầu tư mạo hiểm :
Là các khoản đầu tư mang tính trợ giúp khởi nghiệp cho các doanh
nghiệp tư nhân ở các giai đoạn ban đầu đến giữa quá trình phát triển. Các đầu tư
mạo hiểm thường nằm vào các công ty công nghệ cao hoặc có đổi mới sáng tạo.
1.4.2 Các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam hướng đến các dự
án về công cụ tìm kiếm:

Hiện nay ở Việt Nam có các quỹ đầu tư mạo hiểm của trong và ngoài nước
đang hoạt động như:
Mekongcapital thành lập vào 04/2002 .
 DFG Vinacapital thành lập vào 11/2003.
 IDG Venture Việt Nam thành lập vào 08/2004 , là quỹ đầu tư mạo hiểm
về công nghệ đầu tiên của Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Trong đó, nhóm xin đặc biệt đề cập đến Qũy đầu tư mạo hiểm IDG
Venture Việt Nam. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, một số công ty công
nghệ chuyên cung cấp các dịch vụ , ứng dụng của web2.0 điển hình như:
Vinagame, VC Corporation, DreamViet, PeaceSoft… đều được nhận vốn đầu
tư mạo hiểm từ IDG Veture Việt Nam, đó là các công ty cung cấp các dịch vụ
giải trí trên Internet, thị phần tăng rất mạnh, doanh thu lên tới hàng nghìn tỷ.
9
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
IDG không chỉ cung ứng mặt tài chính mà còn cử những đại diện của mình có
am hiểm chuyên môn kỹ thuật và quản lý doanh nghiệp vào trong bộ phận các
công ty mà nó đồng ý cấp vốn, mà một tập đoàn tài chính xuyên quốc gia cỡ lớn
như IDG họ tự biết cách đầu tư như thế nào để có kết quả tốt nhất. Hiện nay,
quỹ IDG Venture Việt Nam đã đầu tư vào 3 bộ máy tìm kiếm Việt: socbay.com
(Naiscorp), bamboo.com (VC Corporation), xalo.vn (Tinh van media) với hy
vọng sẽ tạo được một Google của Việt Nam, đó cũng là lời phát biểu của ông
Nguyễn Bảo Hoàng –giám đốc IDG Venture Việt Nam. Sự kiện mới nhất, ngày
24/09, công ty Naiscorp đã ký hợp đồng với hai quỹ đầu tư mạo hiểm IDG
Venture Việt Nam và Softbank Chiana & India Holding, một chi nhánh thuộc
quyền sở hữu của tập đoàn Softbank và nhà quản lý Bodhi Investment LLC.
Đây là lần thư hai, IDG cấp vốn cho trang tìm kiếm socbay.com. Socbay.com,
trang tìm kiếm này rất được những người làm bên công nghệ thông tin Việt
Nam quan tâm.Vì socbay.com là một sản phẩm thuần Việt 100% ,do các sinh
viên Trường Đại học Bách khoa phát triển lên từ một nghiên cứu khoa học, rất
có tiềm năng, sản phẩm của những con người tâm huyết , thế hệ 8X. Vì thế mà

các trang tìm kiếm của chúng ta chỉ mới ở giai đoạn bắt đầu, nếu không muốn bị
Google bỏ xa, tốt nhất nên “đi tắt đón đầu”, cố gắng tận dụng hết tất cả nguồn
lực của mình, sự hỗ trợ từ chính phủ, đồng thời phải biết kết hợp các nguồn lực
được tài trợ từ các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Chương 2 GOOGLE VÀ CÔNG CỤ TÌM KIẾM VIỆT
2.1 Công ty Google:
Trong chương I, Nhóm đã nhắc khá nhiều đến Google để cho thấy rõ
quan điểm của Nhóm là tại sao lại chọn Google để đưa vào bài luận mà không
phải là một tên tuổi nào khác. Rõ ràng, Google.com có đặc điểm nổi bật so với
các đối thủ cùng “làng chơi” khác như là Yahoo.com, Search.live.com,
Ask.com…Nếu nói cụ thể bằng con số, tổng kết thị phần trên phạm vi toàn cầu
thì Google chiếm một lượng đáng kể, bỏ xa các đối thủ còn lại:
10
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
Bảng 1:Thị phần của các công cụ tìm kiếm trên thế giới tính đến Tháng
04/2009
(Số liệu được lấy từ nguồn Nielsen Online-AC Nielsen vốn là công ty nghiên cứu
thị trường hàng đầu thế giới).
2.1.1- Ra đời và hành trình:
Google là một công ty Internet tầm cỡ thế giới có trụ sở tại Hoa Kỳ, được
thành lập vào năm 1998. Sản phẩm chính của công ty này là công cụ tìm kiếm
Google, được nhiều người đánh giá là công cụ tìm kiếm hữu ích và mạnh mẽ
nhất trên Internet. Công cụ tìm kiếm Google được nhiều người ủng hộ và sử
dụng vì nó có một cách trình bày gọn và đơn giản cũng như đem lại kết quả
thích hợp và nâng cao.
Tên "Google" là một lối chơi chữ của từ googol, bằng 10
100
. Google chọn tên
này để thể hiện sứ mệnh của công ty để sắp xếp số lượng thông tin khổng lồ trên
mạng. Google được thành lập bởi hai kỹ sư trẻ của trường Đại học Stanford,

Larry Page và Sergey Brin.
11
GOOGLE YAHOO MSN ASK AOL
Tháng 4/09 64.0% 16.3% 9.9% 2.1% 3.7%
Tháng 3/09 64.2% 15.8% 10.3% 2.1% 3.7%
Tháng 4 so với tháng 3 -0.2% 0.5% -0.4% 0.0% 0.0%
Tháng 1/09 62.8% 16.2% 11.2% 1.9% 4.0%
Tháng 4 so với tháng 1 1.2% 0.1% -1.3% 0.2% -0.3%
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
Năm 2008, năm Google kỷ niệm 10 thành lập, tổng kết một chặng đường
thành công vang dội, chặng đường trở thành “ông vua của làng tìm kiếm
online”. Các thông tin về công ty Google tràn ngập trên báo chí trong hơn
mười năm qua và thương hiệu Google trở thành thương hiệu đáng giá nhất toàn
cầu. Chỉ trong vòng một thời gian “ngắn”, hơn mười năm, không có thương
hiệu nào trên thế giới được biết đến nhanh chóng như Google, từ các nhà kinh
doanh, nhà khoa học, nhà hoạt động nghệ thuật, nhà chính trị đến học sinh, sinh
viên…Google ghi một dấu ấn khó phai trong lòng người dùng vì những tính
năng vượt trội của nó.Thuật toán tìm kiếm là một bài toán khó, khá phức tạp
nhưng sản phẩm tìm kiếm Google lại có ứng dụng cực kỳ đơn giản, mà một
người “mù” tin học cũng có thể sử dụng thành thạo được. Có một dự đoán là
trong nay mai mọi người có thể không dùng cụm từ “search internet” nữa mà là
“google it”. Ở đây mới thấy, nếu muốn làm đối thủ của Google cũng là chuyện
đáng ngại. Đó mới biết được cái khó cho các công cụ tìm kiếm Việt Nam dù chỉ
muốn giành lại thị phần nội địa.
2.1.2 Google Việt Nam .
Xin đề cập riêng đến thị trường Việt Nam, Google chính thức chuyển
sang phiên bản tiếng Việt vào năm 2005, với địa chỉ web: google.com.vn. Từ
khi chuyển sang phiên bản Việt, Google không ngừng nâng cấp, hỗ trợ thêm
dịch vụ, sản phẩm và ngày càng lớn mạnh. Riêng về công cụ tìm kiếm ở Việt
Nam thì google.com.vn vẫn là sự lựa chọn số một của cư dân mạng.

Hiện tại, công nghệ thông tin ở Việt Nam phát triển một cách kỳ diệu, tốc
độ kết nối Internet ngày càng được mở rộng, sự am hiểu cách thức sử dụng
Internet của người dùng tăng lên đáng kể. Đó là mấu chốt mà khiến cả Google
lẫn Yahoo đều không thể thờ ơ đối với thị trường Việt Nam, và đây cũng là lý
do khiến các doanh nghiệp, các công ty làm bên lĩnh vực IT của Việt Nam
không thể bị động đứng bên ngoài cuộc chơi. Tiếp theo, nhóm xin đưa ra những
phân tích phần cốt lỗi của bài luận này…
2.2. Công cụ tìm kiếm Việt Nam
12
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
2.2.1 Thế hệ cũ :
Ở phần đặt vấn đề chung, Nhóm đã đề cập đến cụm từ “thế hệ cũ”
để ám chỉ đến các công cụ tìm kiếm như hoatieu.com, pan Vietnam và đặc biệt
là vinaseek. Đó là những trang tìm kiếm đã xuất hiện vào khoảng thời gian
2001- 2002. Ở khoảng thời gian này thì cả Google và Yahoo đều “chưa tới”
Việt Nam. Thực ra, các trang này hiện nay không còn tồn tại nữa, hoặc hay
chuyển đổi tên mới như Vinaseek.com của công ty Tinh Vân sang Xalo.vn.
Nhưng vì hoatieu, vinaseek, pan Vietnam hiện nay không còn tồn tại nữa nên
Nhóm không thể phân tích mô hình mà các trang này đã sử dụng để xem xét
những dịch vụ mà nó có cung cấp có đáp ứng đúng thị hiếu của người dùng lúc
bấy giờ hay không? Thế nên chỉ đưa ra lý do mà những người làm trong ngành
công nghệ đề cập. Các lý do chỉ xoay quanh hai điểm yếu:
Thứ nhất, kết quả xuất ra quá ít, thiếu phong phú, khả năng hiểu
ngữ nghĩa kém..
Thứ hai, không có kho hình ảnh, giao diện kém thân thiện.
Cả hai điểm trên đều là do các trang tìm kiếm Việt Nam không biết
khai thác triệt để ưu điểm của mình, đó là đào sâu khai thác khả năng hiểu nghĩa
tiếng Việt, đưa nội dung phụ hợp với văn hóa bản xứ, kho dữ liệu ít ỏi khan
hiếm… dẫu biết bài toán tìm kiếm là một bài toán khó về công nghệ, về mã
nguồn, về máy chủ ...Nói tóm lại là vì thiếu tài chính để đầu tư, đưa ra chiến

lược dài hạn, trong khi đó Google là một tập đoàn vững mạnh đến từ Hoa kỳ,
hội đủ các yếu tố để thành công ở bất cứ thị trường nào mà nó xâm nhập.Tuy
nhiên, nói đi cũng nói lại, sống phải có niềm tin, phải lạc quan.Tuy rằng,
Google là một tập đoàn toàn cầu thật đấy nhưng mỗi địa phương, mỗi bản xứ
đều có một ngôn ngữ riêng, đó là nét độc đáo.Thế nên, dù có là “tập đoàn toàn
cầu, am hiểu địa phương” đi nữa vẫn có điểm yếu là không thể hiểu sâu sắc cho
từng ngôn ngữ một được, vì gắn với mỗi ngôn ngữ là cả vấn đề văn hóa đặc
trưng bản sắc của dân tộc đó. Chính vì vậy, một số trang tìm kiếm bản địa của
một số nước đã đánh thắng Google ở thị trường nội địa, cụ thể ở đây là
13
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
Baidu.com ở Trung Quốc và Naver.com ở Hàn Quốc, nhóm sẽ dành khoảng ba
trang viết để phân tích một số lý do thành công và rút ra bài học cho Công cụ
tìm kiếm Việt Nam.
2.2.2. Mô hình tham khảo:
2.2.2.1 Baidu.com
Baidu.com là trang web tìm kiếm số một tại Trung Quốc, thị phần
của nó chiếm khá lớn, bỏ xa đối thủ Google Trung Quốc. Với số liệu mới nhất,
vào ngày 01/06/2009, iResearch, một công ty chuyên nghiên cứu thị trường
công nghệ của Trung Quốc, vừa mới công bố thì thị phần của Baidu.com trong
quý một chiếm khoảng 74.1% thị trường tìm kiếm nội địa, tăng 2.1% so với
quý 4/2008. Còn Google thì giảm 2.1% xuống còn 20.9% so với quý 4/2008,
bao nhiêu thị phần còn lại là giành cho các trang tìm kiếm khác.
Bảng 2: Thị phần trang tìm kiếm ở Trung Quốc qúy 1/2009
Tại sao Baidu có thể làm được như vậy? Mô hình dịch vụ của nó có khác gì so
với Google?
Trước tiên, Nhóm xin đề cập đến chữ tượng hình của Trung Quốc,
vốn là kiểu chữ rất khó hiểu, khó đọc. Nó hầu như trái ngược với chữ Latinh, vì
vậy mà dĩ nhiên Google gặp trở ngại lớn khi muốn tiếp cận thị trường này. Tuy
vậy, ở Nhật, tiếng Nhật cũng một cùng dạng chữ như chữ Hán, cả hai ngôn ngữ

có những nét tương đồng nhất định nhưng trong thị trường này, hầu như Google
đã thắng lớn mặc dù chính phủ Nhật có những tuyên bố sẽ hỗ trợ đầu tư vào dự
14
Đề tài : Google và công cụ tìm kiếm Việt Nam GVHD : Đinh Văn Thịnh
án công nghệ đủ tầm để làm đối thủ của Google, độ khoảng 60 triệu bảng Anh.
Rõ ràng, ngôn ngữ vẫn chưa phải là điều kiện tiên quyết duy nhất để giúp cho
Baidu thành công. Lý do mà các chuyên gia công nghệ đưa ra chỉ ngắn gọn là
“đáp ứng đúng thị hiếu của giới trẻ”, đó là thứ nhất. Thứ hai, Baidu có được sự
bảo hộ rất lớn từ Chính phủ Trung Quốc. Riêng phần này, chúng tôi chỉ đề cập
đến hình thức dịch vụ mà Baidu đã lựa chọn, không đi phân tích sự bảo hộ của
chính phủ Trung Quốc như thế nào vì đó là một vấn đề không đơn giản. Baidu
tự cho rằng mình thành công chính là do biết cách khai thác, khám khá thị hiếu,
sở thích của giới trẻ. “Lý giải điều này, giới phân tích cho rằng đối tượng khách
hàng của Baidu hoàn toàn khác với phương tây vì người Trung Quốc thích giải
trí hơn tin tức, đọc sách hay thuê xe nhiều. 70% số người sử dụng Internet ở
Trung Quốc chưa đến 30tuổi, Richard Ji, nhà phân tích của Morgan Stanley,
nhận định về lượng người dùng này: “Hầu hết chưa có gia đình và muốn giải
trí. Trang web của Baidu thu hút hàng triệu người vào tải nhạc, lập blog và tìm
ảnh người đẹp”... (*). Đó là nhận định của một bài báo từ năm 2007, tin cũ,
nhưng thực ra Baidu đã vẫn giữ “phong độ” cho tới nay, và dĩ nhiên trong thời
điểm hiện tại thì số lượng và chất lượng dịch vụ mà Baidu đã tăng lên đáng kể.
Nhận thức và mức độ phổ cập của nó cũng ngày càng được khẳng định trong
lòng người dân Trung Quốc. Những tính năng tìm kiếm phù hợp với tâm lý
người dân cộng với một phần là ý thức về lòng tự tôn của một dân tộc giàu
mạnh, đó là bài học đến từ Baidu.
Bên cạnh đó, website này cũng có chiến lược rất rõ ràng, kiên quyết
bám chặt thị trường Trung Quốc, cho rằng, đây là thị trường nội địa có tiềm
năng chưa khai thác hết vì thế không thể lơ đãng để Google có cơ hội tấn công.
Thế nên, ngoài thị trường Trung Quốc thì Baidu chỉ mới mở rộng ra trang tiếng
Nhật, chưa có ý định mở rộng sang các thị trường khác.

2.2.2.2 Naver.com
Hàn Quốc là đất nước thú vị, “ghê gớm” với chiến thuật chủ nghĩa
kinh tế yêu nước. Nếu tập đoàn kinh tế nào không nghiên cứu kỹ tâm lý người
15

×