Luyện thi đại học Năm học : 2012 -
2013
MỘT NGƯỜI HÀ NỘI _ Nguyễn Khải
Cô Hiền - một hạt bụi vàng của Hà Nội
Luận điểm 1: Bà hiền qua việc thu xếp việc nhà
- Việc hôn nhân : Là phụ nữ có nhan sắc, yêu văn chương, thời con gái giao du với nhiều
văn nhân nghệ sĩ nhưng không chạy theo những tình cảm lãng mạn viển vông, bà Hiền "chọn
bạn trăm năm là một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh
ngạc". Người ta kinh ngạc vì nghĩ theo thói thường, còn bà Hiền lại vượt qua thói thường ấy.
Bà không ham danh, không cơ hội, sự tính toán, chọn lựa của bà cho thấy bà có thái độ
nghiêm túc với hôn nhân, đặt trách nhiệm "làm vợ", "làm mẹ" lên trên mọi thú vui khác. Ông
giáo tiểu học (mẫu người mô phạm, khiêm nhường) hiền lành, chăm chỉ là người thích hợp
với quan niệm của bà về tổ ấm gia đình.
- Việc sinh con: ở cái thời người Việt Nam thích đẻ nhiều con thì quyết định của bà Hiền
chấm dứt sinh đẻ vào năm bốn mươi tuổi cũng là một quyết định khác người. Bà không
tin "Trời sinh voi trời sinh cỏ" mà bà tin con cái phải được nuôi dạy chu đáo để chúng "có thể
sống tự lập". Như vậy, trách nhiệm làm cha mẹ không phải chỉ ở việc sinh con mà quan trọng
hơn là cho con một nhân cách, chuẩn bị cho con một tương lai sống, không bị lệ thuộc. Tình
yêu con của bà Hiền là tình yêu sáng suốt của người mẹ giàu tự trọng, biết "nhìn xa trông
rộng".
- Việc quản lí gia đình : bà Hiền luôn là người chủ động, tự tin vì bà hiểu rõ vai trò quan
trọng của người vợ, người mẹ. Khi phê bình thói "bắt nạt vợ" quá đáng của người cháu, bà
bảo : "Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao". Quan niệm
về "bình đẳng nam nữ" của bà xuất phát từ thiên chức của phụ nữ - đấy là một chân lí tự
nhiên, giản dị.
- Việc dạy con : bà Hiền dạy con khi chúng còn nhỏ và dạy từ những cái nhỏ nhất. Bà không
coi chuyện ngồi ăn, chuyện cầm bát, cầm đũa, múc canh, v.v. chỉ là chuyện sinh hoạt vặt
vãnh mà coi đấy là văn hoá sống, văn hoá người, hơn thế, đấy là văn hoá của người Hà
Nội : "Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được
sống tuỳ tiện, buông tuồng". Cái "chuẩn" trong suy nghĩ của bà là "lòng tự trọng". Lòng tự
trọng không cho phép con người sống hèn nhát, ích kỉ. Bà bằng lòng cho Dũng đi chiến đấu
vì "không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè". Bà cũng lại chấp nhận khi đứa em
Dũng muốn tiếp bước anh : " bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một
cách giết chết nó". Con người đánh mất lòng tự trọng thì cũng coi như chết về nhân cách. Có
lòng tự trọng sẽ có lòng yêu nước, có ý thức trách nhiệm với cộng đồng. Có thể nói, với
những người như bà Hiền, lòng yêu nước cũng là một nhu cầu tự nhiên, xa lạ với những gì ồn
ào, giả tạo.
Câu trả lời của bà Hiền "Tao đau đớn mà bằng lòng " đã diễn tả đầy đủ mà ngắn gọn những
giằng xé âm thầm giữa tình yêu con với tình yêu nước, giữa nỗi lo âu với ý thức về danh dự.
Không bà mẹ nào muốn con gặp hiểm nguy, gian khổ, nhưng cũng không bà mẹ nào muốn
thấy con phải sống đớn hèn, nhục nhã. Bà Hiền tôn trọng danh dự của con, hiểu con nên chấp
nhận để con đi chiến đấu, nhưng bà không che giấu nỗi đau lòng, không vờ vui vẻ ồn ào. Với
bà, đây là quyết định khó khăn nhưng hợp lí nhất. Qua chi tiết này, tác giả muốn khẳng định
cá tính và bản lĩnh của bà Hiền : không tạo uy tín, danh dự bằng lời nói không thành thực,
luôn dám là mình.
• Bà tin và sự trường tồn của hóa Hà Nội: kể lại chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn
bị bão đánh bật rễ rồi lại hồi sinh.
Luyện thi đại học Năm học : 2012 -
2013
Như vậy, bà Hiền là người có bản lĩnh, trung thực, giàu tự trọng. Những phẩm chất đó được
nhào nặn từ truyền thống gia đình, từ năng lực tự ý thức, từ kinh nghiệm sống mà bà đúc rút
được trong chính cuộc sống đời thường của một người vợ, người mẹ, và đó là "người Hà
Nội". Tình yêu Hà Nội ở bà không hời hợt hay cảm tính mà sâu sắc vì nó gắn với một niềm
tin : Hà Nội là chuẩn mực về văn hoá của người Việt. Mỗi công dân Hà Nội phải có ý thức
giữ gìn và phát huy chuẩn mực đó.
Luận điểm 2: Bà Hiền và văn hóa Hà Nội
Với người như bà Hiền, người đọc có thể nhận ra nhiều nét đẹp trong lối sống. Nói "lối
sống" là nói đến quan niệm, nguyên tắc làm cơ sở cho những ứng xử có ý thức của con
người. Qua việc làm và suy nghĩ của bà Hiền, có thể thấy nổi lên bản lĩnh một con người
luôn luôn dám là mình : là mình khi đề cao lòng tự trọng, là mình trong quan hệ với cộng
đồng, đất nước, là mình trong những chiêm nghiệm lẽ đời, Đặt tên truyện là "Một người
Hà Nội", có lẽ tác giả muốn khắc đậm bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội, họ luôn"là
mình" với ý thức là "người Hà Nội", là sự đại diện cho cả nước, là tinh hoa ("Chẳng thơm
cũng thể hoa nhài - Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An" - ca dao). "Chất Hà Nội" ở
bà Hiền biểu lộ qua nét văn hoá lịch lãm, sang trọng (phòng khách của bà như luư giữ cái hồn
Hà Nội : cổ kính, quý phái và tinh tế mà"suốt mấy chục năm không hề thay đổi"), qua thái độ
ung dung, tự tại (trước những biến động bên ngoài, trước lời nhận xét "hơi nghiệt" của người
cháu), qua sự khôn ngoan, sâu sắc của trí tuệ (bà nói về luật tự nhiên, về niềm tin: Hà
Nội "Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi"). Bà "khiêm tốn và rộng
lượng", bà hoà mình vào cảnh sắc Hà Nội "trời rét, ma rây lả lớt chỉ đủ làm ẩm áo chứ
không làm ớt", bà đang lau chùi cái bát cổ để cắm hoa thuỷ tiên, Sự hài hoà đó là cái duyên
riêng Hà Nội, nét quyến rũ của Hà Nội khiến người xa Hà Nội phải kêu thầm "thấy tết quá,
Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái tết Hà Nội".
*******************************************
Cảm nhận về nhân vật bà Hiền
1. Phần 1: nhân vật bà Hiền trong thời kì kháng chiến và hoà bình lập lại, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc.
a. Nét đẹp trong suy nghĩ :
- Nét "chuẩn trong nghĩ của cô Hiền là lòng tự trọng, vì cô quan niệm rất rõ ràng :
Tự trọng ở đây gắn liền với việc không để mình rơi vào tình trạng nhục nhã, sống giữ được
cốt cách và đặc biệt là không quên trách nhiệm với cộng đồng (một tinh thần trách nhiệm
không cần tuyên bố ồn ào, bốc đồng, hời hợt). Những lời thổ lộ của bà Hiền xung quanh việc
bằng lòng cho hai đứa con đi bộ đội thể hiện rõ điều này : "Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao
không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng", "Tao
không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn
nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó", "Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà
mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm gì" Không phải không có những ngộ
nhận về tính cách người Hà Nội. Trong truyện, tác giả đã khéo tạo ra một tình huống để làm
rõ vấn đề này. Trong khi nhân vật "tôi", giữa một bữa tiệc, đã "nói hơi nhiều" những ý chê
trách Hà Nội trong sự so sánh nó với những vùng miền khác, thì nhân vật Dũng, con bà Hiền,
mới từ chiến trường miền Nam trở về, đã kể cho mọi người nghe về phản ứng tâm lí của một
người mẹ Hà Nội có con hi sinh : "Bà níu chặt lấy một cánh tay của cháu, người bà run bần
bật nhưng không khóc, và bà nói run rẩy : "Nín đi con, nín đi Dũng ! Cô đã biết cả. Cô biết từ
mấy tháng nay rồi". Đúng là một sự đối trọng. Câu chuyện của Dũng tự nó nói lên bao điều !
+ Lòng tự trọng không cho phép sống tùy tiện, buông thả.
+ Lòng tự trọng không cho phép sống hèn nhát, ích kỉ.
Luyện thi đại học Năm học : 2012 -
2013
+ Lòng tự trọng giúp con người ta sống có trách nhiệm với cộng đồng.
- Thẳng thắn :
+ Bày tỏ rất thẳng nhận xét của mình về cuộc sống với bao vấn đề (vui hơi nhiều, nói
cũng hơi nhiều …)
Bà có chính kiến, chủ kiến riêng về nhiều chuyện "vĩ mô" của nhà nước, chế độ. Khi
đứa cháu nói : "Nước được độc lập vui quá cô nhỉ ?", bà đã trả lời : "Vui hơi nhiều, nói cũng
hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ ?". Theo bà "Chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân
quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra
sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở ". Bà
cũng nhận ra có cái gì đó không phù hợp trong cách nghĩ "không thích cá nhân làm giàu" :
"Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ
ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám". Đặc biệt, bà có một quan điểm hết sức
khác thường : "Xã hội lúc nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho
mọi giá trị ". Chưa hết, bà còn phát biểu về cái huyền vi của sự sống mà càng ngày ta càng
phải thừa nhận : "Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được".
- Suy nghĩ của cô Hiền về cuộc sống rất thực tế :
+ Biết "nhìn xa trong rộng" (qua thái độ nghiêm túc, lựa chọn kĩ càng việc hôn nhân
của mình, việc sinh con với mong muốn để dạy con vào đời bằng sự tự lập, vươn lên, nhìn
nhận vai trò "nội trợ" của người phụ nữ…)
.Việc hôn nhân: Việc bà lấy ai không lấy, lại lấy một ông giáo cấp tiểu học hiền lành
chăm chỉ làm chồng đã "khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc", phần nhiều chỉ là một cách nói
ngoa ngôn khá đặc thù của văn chương. Nếu quả người ta có kinh ngạc, thì đó là sự kinh ngạc
trước một chuyện không ngờ lại xảy ra bình thường (thậm chí là tầm thường) quá như thế.
Tuy vậy, nếu bình tâm suy xét, ta lại thấy trong tất cả những cái bình thường kia lại chứa
đựng một triết lí sống đáng vị nể, vừa thể hiện bản lĩnh cá nhân một con người, vừa bộc lộ
kiểu ứng xử đặc trưng của đất kinh kì. Bà Hiền biết rõ mình là ai (câu tuyên bố "thẳng thừng"
của bà đối với nhân vật "tôi" đã chứng thực điều đó : "Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể
cả chế độ"), và cũng tương tự thế, bà hiểu sâu xa mình là người Hà Nội. Sau năm 1954, gia
đình bà chẳng di cư vào Nam vì "không thể rời xa Hà Nội". Đây không đơn giản chỉ là một
biểu hiện của tình yêu đối với nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, mà còn là một biểu hiện của
niềm tin vào thế tồn tại bền vững của mảnh đất đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, có
văn hoá riêng đã thấm vào máu thịt cư dân nơi này.
+ Không vồ vập, không lãng mạn, viễn vông với cuộc sống mới.Nhân vật bà Hiền là
một mẫu hình của người Hà Nội với tất cả sự lịch lãm khôn ngoan nhưng không đến nỗi lạnh
lùng duy lý: “Mọi sự mọi việc đều được các bà ấy tính toán trước cả. Và luôn luôn tính
đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, tính thời thượng chen vô. Không có cả sự lãng
mạn hay mơ mộng vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu
của thiên hạ.”. Đó là cách sống biết rõ giá trị và khả năng của mình, nhưng không phải là lối
sống ích kỷ, bo bo vun vén cho riêng mình theo chủ nghĩa cá nhân tư sản hoàn toàn.
- Là người công dân có trách nhiệm với đất nước (hưởng ứng chủ trương xây dựng
một xã hội nhân ái không có cảnh người bóc lột người của chính phủ nên không đồng ý cho
chồng mua máy in và thuê thợ, đồng ý cho con đi bộ đội).Thái độ ứng xử nhằm “thích ứng”
của bà Hiền cũng được diễn tả một cách rõ ràng và táo bạo : “Chế độ này không thích cá
nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không
là nhục, nên tao cũng chỉ cần đủ ăn.”
- Luôn tự hào về Hà Nội, người Hà Nội, văn hóa của Hà Nội (luôn nhắc nhở, dạy con
cháu về cách sống .Bà Hiền răn lũ con : là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có
chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng". Hoá ra vậy, làm người Hà Nội vừa là một
vinh dự, vừa là một trách nhiệm. Bà Hiền hẳn là luôn đau đáu về vấn đề này, chẳng thế mà dù
đã ngoài bảy mươi, bà vẫn để lộ tâm sự đó của mình khi hỏi người cháu ("tôi") vừa mới từ
thành phố Hồ Chí Minh ra thăm : "Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá thế nào, dân tình thế
Luyện thi đại học Năm học : 2012 -
2013
nào ?" Ngỡ đó chỉ là một câu hỏi xã giao thông thường mà thực chất lại gửi gắm bao nỗi
niềm, bao phấp phỏng và hi vọng về tương lai của Hà Nội. =>Những điều vừa nói trên chứng
minh sự gắn bó làm một, rất máu thịt, giữa bà Hiền và Hà Nội.của người Hà Nội qua từng
cách ngồi, cách ăn, đi đứng, qua lời ăn tiếng nói).
b. Nét đẹp trong hành động :
- Tuy là người Hà Nội chính gốc, nhưng cô Hiền hòa đồng rất nhanh với cuộc sống
mới không chỉ ở suy nghĩ mà còn ở những việc làm cụ thể của mình:
+ Cuộc sống còn khó khăn của giai đoạn đầu, nhưng cô đã nhanh chóng thích ứng
bằng việc mở cửa hàng bán hoa do đích thân cô và các con làm và bán sản phẩm.
2. Nhân vật bà Hiền trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước và những năm đầu
sau chiến tranh :
a. Trước chiến tranh :Nhà văn còn khai thác nét tính cách nhân vật khi đặt vào trong
những giờ phút trọng đại có ý nghĩa sống còn với dân tộc để người đọc biết đến một sự thực
tâm hồn những người mẹ trong thời chiến tranh. Trong văn học trước 1975, có lẽ những hoàn
cảnh tiễn người thân ra trận sẽ được khai thác tập trung vào cảm hứng sử thi, ca ngợi hình ảnh
người ra đi tươi vui, người ở nhà tin tưởng và lời hẹn trở về trong chiến thắng vinh quang.
Nguyễn Khải đã không diễn tả theo đường mòn cũ mà cho chúng ta nhìn thấy một sự thật về
con người trong thời chiến. Người mẹ ấy đã chấp nhận cho đứa con đầu ra mặt trận, trong một
tâm trạng thật đặc biệt như bao bà mẹ khác. Khi người cháu hỏi : “Cô bằng lòng cho em đi
chiến đấu chứ?” bà đã nói ra một sự thật: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó
sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng.”. Xét cho cùng, đó cũng
là lòng tự trọng của một người mẹ, của một người ý thức rõ trách nhiệm công dân của
mình,trong thời điểm “những năm đất nước có chung một tâm hồn, một gương mặt”.
Không chỉ có vậy, cả người con trai thứ hai hừng hực khí thế thanh niên thời đại đòi
lên đường, bà cũng có một cách ứng xử thể hiện rõ phẩm cách một người mẹ hiểu rõ tâm tư
thế hệ con cháu: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm
đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Nhà văn không chỉ khai
thác hình tượng người mẹ thời chiến dưới một góc nhìn mới, mà còn thấy được sự ảnh hưởng
lan truyền thế hệ, khi lòng tự trọng dân tộc đã hoà quyện niềm tự hào nếp nhà, để những đứa
con sống xứng đáng với niềm tự hào của mẹ. Cái tinh tế trong đời sống tình cảm của người
Hà Nội chính là thái độ biết chia sẻ trước đau thương mất mát của người mẹ khác.
Trong giờ phút hân hoan mừng chiến thắng, điều xúc động lại chính là nỗi đau thấm
thía được phát biểu qua câu nói của Dũng người lính can trường trở về trong vinh quang
nhưng hiểu rõ giá trị của sự hy sinh, khi 660 người trai Hà Nội ra đi chỉ trở về hơn bốn chục
người, khi người bạn thân nằm lại chiến trường ngay trước giờ chiến thắng: “Cháu biết nói
thế nào với một bà mẹ có con hy sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây
giờ, đến hôm nay”. Đó là giá trị nhân bản của cuộc chiến đấu, được tính bằng máu! Không thể
vì niềm hân hoan hội ngộ, vinh quang chiến thắng mà được phép quên đi! Nguyễn Khải đã
khai thác vào một góc khuất của chiến tranh mà trước đó văn học ta mới chỉ khai thác cái
hùng tráng mà chưa nói nhiều về bi kịch của từng gia đình, từng số phận trong chiến tranh.
Vào thời điểm ấy, cách nhìn của nhà văn đã có sự chuyển hướng so với văn học giai đoạn
trước, hướng đến với cái bình thường.
b. Sau chiến tranh: Trong ngày thường, một người như bà Hiền đã hoà nhập rất tốt
vào cuộc sống chung, cũng "áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, vuông khăn len
tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu". Để hoàn thiện chân dung nhân vật Hiền, Nguyễn Khải còn
nhấn mạnh vào thái độ chu tất trong nết ăn, nết mặc, trong cử chỉ lau đánh cái bát đựng hoa
thuỷ tiên, trong việc duy trì một cách "bướng bỉnh" cái nền nếp sinh hoạt xa lông một thời vẫn
thường bị định kiến là "tư sản". Điều này khiến ta chợt nhớ tới câu ca nói về người Hà Nội từ
xưa:
“ Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,
Chẳng lịch cũng thể con người Tràng An”
Luyện thi đại học Năm học : 2012 -
2013
Nhưng bà, cũng như các bạn của mình, không vì vậy mà không được quyền sống cho
mình. Họ, lúc cần, đã biết rũ bỏ "đồng phục" để hoá thân thành những con người khác, đáng
để cho những kẻ yêu cái đẹp ngắm nhìn."bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu,
rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây
đi lại uyển chuyển". Tất cả những điều đó cũng là biểu hiện cụ thể của bản lĩnh sống – một
vấn đề hết sức nghiêm túc cần được nhìn nhận thấu đáo trong hoàn cảnh sống của đất nước,
của thời đại bây giờ.
Giá trị văn hoá ấy kết tụ trong một người phụ nữ vô danh, bình thường cũng đã kết tụ
tầng sâu văn hoá đất kinh kỳ xưa. Ngay cả khi cơn lốc dữ dội của nền kinh tế thị trường làm
xói mòn đi nếp sống của Hà Nội ngàn năm văn vật thì cũng không thể làm lay chuyển ý thức
của những con người luôn tin vào giá trị văn hoá bền vững của Hà Nội không thể mất đi. Chỉ
ra những nét tính cách phức tạp nhưng hết sức hợp lý của một người phụ nữ bình thường,
Nguyễn Khải đã đề cao nét đẹp văn hoá Hà Nội ẩn chứa trong nhân vật bà Hiền.
3. Chi tiết bà Hiền kể cho nhân vật "tôi" nghe về sự hồi sinh sau cơn bão của cây si cổ
thụ ở đền Ngọc Sơn mang ngụ ý triết lí sâu sắc.
Có thể tính cách bà Hiền còn những điều phải bàn cãi để đi đến một sự nhận diện có
tiêu biểu cho tính cách người Hà Nội gốc hay không, nhưng như nhà văn khẳng định: “Với
người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn luôn là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng
son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi.”.
Không những thế, ông còn bày tỏ thái độ ca ngợi con người biết trân trọng những giá trị tâm
linh, như cây si cổ thụ đền Ngọc Sơn vẫn vững chãi qua thời gian. Dẫu có lúc bị bật gốc,
nhưng nhờ những con người còn biết lưu giữ những giá trị đích thực của quá khứ mà cây cổ
thụ đã được hồi sinh.
Những giá trị văn hoá bền vững không bao giờ mất đi, mà như nhà văn ước ao những
giá trị ấy sẽ hoá thân vào hiện tại: “Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một
người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp
đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên
cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng.”