Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

một vài phương pháp xây dựng tiết học thân thiện môn hoá học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.59 KB, 18 trang )

O
VÕ THỊ
NỢ
(Trường
THCS
Nhơn
Mỹ
- Chợ Mới)
Giải
B
I.
ĐẶT VẤN
ĐỀ:
* Lí do
có sáng kiến
kinh nghiệm:
Hóa học là môn học rất mới mẽ đối với học
sinh
lớp
8.
Những khái niệm hóa học rất khó
hiểu, nó

trừu tượng, khô
khan
dễ làm
cho
người học chán nản, khó tiếp
thu
kiến thức v
à



khó xử

thông
tin
một

cách

triệt để.

thế có rất nhiều học
sinh
không hứng thú học môn này
.
Quan
hệ thầy trò còn khoảng cách
chưa
được thân thiện, giữa học
sinh
với
nhau
chưa

tinh
thần đoàn kết, các
em
không bộc
lộ khả năng của
mình.

Bản thân yêu nghề mến trẻ,
thích tìm
tòi sáng tạo và học hỏi để nâêng
cao tay
nghề.
Luôn ước
muốn
đem
lại
cho
các
em
những kiến thức bổ
ích
và nhiều niềm
vui trong
giờ học
hóa
học.
Từng bước xây dựng nên trường học thân thiện
theo
yêu cầu của ngành đề
ra.
Một số học
sinh


hoàn cảnh khó khăn mồ côi
cha
mẹ không

nơi nương tựa,
chưa
có kế
hoạch học tập nên cần

những giờ học thật
vui
vẻ.
Từ
khi
ngành
có chủ
trương
xây dựng trường học thân thiện, tôi quyết đònh và
áp dụng
phương
pháp

Xây dựng tiết học thân thiện môn hóa học

nhằm tạo
cho
các
em
yêu
thích
môn học, yêu trường, mến
lớp,

đoàn


kết bạn bè. Đồng thời biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống
gia đình
hằng
ngày.
* SKKN
đã giải quyết khó khăn
trong
công
tác
:
Xóa dần khoảng cách giữa thầy và
trò,

xây dựng lớp học đoàn kết,
vui
vẻ,

thoải mái, biết
thương
yêu

giúp đỡ
nhau.
Luôn tạo

hội
cho
học
sinh

yếu kém
tích
cực
tham gia
học tập,

vậy chất lượng
bộ
môn ngày

càng
cao.
Từng bước xóa dần lối học vẹt, học
tủ của vài học
sinh

biệt.
Tiết học
vui
vẻ các
em
yêu
thích
môn học
hơn, ít
gây mất trật tự giờ học, hạn chế
tình
trạng
nghỉ


học

của học
sinh.
Khuyến
khích
sự chuyên cần,
tích
cực chủ động sáng tạo và
ý
thức
vươn
lên, rèn luyện
khả
năng
tự học của học
sinh.
Thực hiện tốt tiết học thân thiện học
sinh
sẽ yêu
thích
môn
học,
thấy rằng
thầy
cô là
chỗ
dựa tinh
thần, trường học
là ngôi nhà thứ

hai
của
mình.
Từ đó tạo
cho
các
em
cảm giác

Mỗi ngày đến trường là

một niềm
vui”.
*
Dự kiến
phương
pháp giải quyết
:
Cùng với sự đổi mới
chương trình
và đổi mới
SGK,
tăng cường thiết bò, công nghệ
thông tin
Việc

đổi mới
phương
pháp dạy và học nhằm tạo
cho

học
sinh
yêu
thích
môn học
cần phải tạo
cho
không
khí vui tươi,
học
sinh
không
e
ngại trước thầy cô, mạnh dạn đề xuất với
bạn bè,
quan
tâm và giúp đỡ lẫn
nhau.

Theo

tôi cần xây dựng một số
phương
pháp
như
sau:
Lồng ghép nhiều trò
chơi
giải
trí

để lớp học
sinh
động
như :
Giải
ô
chữ,
thi “ai nhanh
hơn”,
đố
vui
Đưa ra ví
vụ thiết
thực
từ
thực tế để học
sinh
dễ hiểu
hơn
về bài học.
Quan
tâm đến
học sinh
cá biệt,
khen
ngợi các
em

việc rất nhỏ.
Tìm

hiểu hoàn cảnh
gia đình
của các
em
thông
qua
giáo viên chủ nhiệm
.
Giao
việc về nhà cụ thể rõ
ràng, không nói
chung chung
nhằm tạo điều kiện
cho
học
sinh
yếu kém

phấn đấu
vươn
lên, tránh trường hợp
quá tải đối với các
em
này.
Không đặt nặng việc kiểm
tra
bài cũ
để tránh trường hợp các
em lo
sợ

khi
bắt đầu tiết
học tạo sự

phấn khởi
cho
tiết học bắt
đầu.
Rèn luyện “kó năng sống”
cho
học
sinh như:
kó năng thực hành
thí
nghiệm, kó năng
viết
CTHH, PTHH,
ứng dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống
gia đình
hàng
ngày.
II.
THỰC TRẠNG
BAN
ĐẦU CỦA VẤN
ĐỀ:
Hóa học là một môn học mà học
sinh
không mấy
thích

thú, một số
em
không hề
quan
tâm
đến

tiết
học,
rất chán nản,
xem
giờ
học
Hóa
như
một
cực hình
vậy. Nhiều câu
hỏi
luôn đặt
ra trong
tôi. Tôi tự

hỏi
: Vì sao
cũng thực hiện đủ các bước lên lớp, cũng
sử
dụng đồ dùng
dạy học đầy đủ
nhưng

cũng không
đủ

sức

thuyết phục các
em.
Phải chăng là
do
đặc thù bộ môn,
hay do
các
em chưa

phương
pháp học tốt.
Nhưng
rồi tôi cũng nhận
ra

do
tiết học nghiêm
túc, không
khí chưa vui,
lớp học
chưa
đoàn kết, thầy trò
chưa

thân

thiện.
III.
BIỆN PHÁP
VÀ QUÁ
TRÌNH
TỔ
CHỨC:
1.
Trước đây: Từ năm học
2007-2008
trở về trước,

từng tiết dạy tôi đều thực hiện
đầy
đủ
các

bước lên lớp,
sử
dụng đầy
đủ
thí
nghiệm thực hành, truyền
tải đầy đủ nội
dung
của
SGK,
nhưng
lại
ít quan

tâm

học
sinh
yếu kém, không
tìm
hiểu hoàn
cảnh các
em
nên
khi
trả bài các
em
không thuộc
thì cho
điểm
1,

khi
điểm
0
rồi
cho
chép bài
phạt.
Khi
trả bài, vài học
sinh
không thuộc các
em

bò căng thẳng làm
cho
tiết học
mang
không
khí
nặng nề. Thường
thì
để
tranh
thủ thời
gian
truyền tải hết kiến thức nên
hay
gọi học
sinh
1
khá

giỏi,
hay
các
em giơ tay xin
phát biểu mà bỏ quên
đi
những
em
yếu kém. Thế rồi những
em
này càng ngày sẽ

bò chây lười.

Bài tập về nhà
thì
bắt buộc phải làm hết không phân biệt giỏi,
dở gây quá tải đối với các
em.
* T
ồn
tại:
Tiết học thiếu nghiêm túc, không
khí chưa vui,
học
sinh
yếu kém
còn thụ
động và bỏ

học,
tỉ lệ
học
sinh
yếu kém còn
cao,
giờ học các
em hay
mất trật tự,


việc học, lớp

học
chưa
đoàn kết, thầy trò
chưa
thân
thiện.
2.
Hiện
nay: (
Từ
khi
áp
dụng
SKKN
)
Vào đầu năm học
2007-2008, sau khi
giảng dạy khoảng
3
tuần lễ, tôi có gọi
em
Mỹ
Linh
lên trả

bài,
em
này không thuộc. Tôi
cho
về chỗ ngồi và bảo lần

sau em
học bài kó nhé. Tiết
học
sau
đó tôi cũng
gọi em
lên trả bài
thì em
đứng tại chỗ
thưa

em
không thuộc bài. Tức giận
em vì
đã dặn học bài mà
không học nên
cho
điểm
0
vào cột kiểm
tra
miệng

cho
chép
5
lần bài
phạt.
Rồi tôi bảo
em

ngồi xuống
đi
để học bài mới.
Em
Linh
vẫn đứng lặng
im
rồi
hai
dòng lệ
tuôn trào. Thế rồi tôi đến gần và hỏi
em vì sao em
khóc.
Em
nói,
vừa

qua
ba
mẹ cãi
nhau,
mẹ bỏ
về
ngoại

Kiên
Giang, ba vì
buồn nên cũng bỏ nhà
đi
luôn. Mấy ngày

nay em
đi

cõng

gạch để
kiếm tiền, về nhà mệt quá nên
em
không học bài
được,
em
buồn lắm cô
ơi!
Thế rồi,
trong
tôi đã
nảy
sinh
ý
nghó
:
Có lẽ
do mình
không
quan
tâm đến các
em,
không
tìm
hiểu kó

nguyên
nhân lại
vội vàng phán
quyết, chưa
gần
gũi

với

các
em
nên các
em chưa


hội
tỏ

bày. Tôi
vỗ về
an
ủi
Linh
và nói:
Khi em
có gặp khó
khăn
gì thì
phải nói
ra cho

mọi người hiểu để
còn
giúp đỡ
cho
em . Em
ngồi xuống
đi
và chúng
ta
bắt đầu tiết
học.
Đến giờ
ra chơi,
tôi gặp
Linh tìm
hiểu kó
hoàn cảnh của
em, sau
đó đề xuất lên
BGH
nhà trường giúp đỡ
em
trong
lúc khó khăn
này
.
Cũng vào thời
gian
này
ở lớp

8A1
có một học
sinh
tên là
Kim
Ngân rất
xuất
sắc,
em
học rất chăm.
Em
là học
sinh
đã được “để
mắt”
chọn
thi
học
sinh
giỏi
cho
năm học
sau.
Nhưng
thật

bất ngờ lần kiểm
tra 1
tiết đầu tiên
em

làm bài điểm rất
thấp, 4
điểm
cho
phần trắc
nghiệm
với
8
câu chọn câu đúng
thì em
đều làm
sai,
còn phần tự luận
thì em
làm rất

sài.

Không
giống
bài làm của học
sinh
giỏi

nào. Thất vọng quá đến giờ sửa bài kiểm
tra
tôi gọi
em
đứng lên và


mắng
cho
một trận.
Nhưng
lời nói của tôi
hình như em
không
nghe
thấy,
em nhìn qua
cửa sổ
với ánh mắt
xa

xăm,

rồi nức nở
nghẹn ngào. Thấy vậy,
tôi

đến gần và hỏi:
Em

sao
không?
Sao
em
lại khóc
?
Chuyện


đã

xảy
ra
với
em
vậy! Cô nói thế

oan cho em
không?
Em
Ngân vẫn
lặng
im.
Thế rồi để không mất thời
gian
tiết

học
,
tôi để
em
ngồi
im
đó rồi tiếp tục bài giảng của
mình.
Đến giờ giải
lao,
tôi mời

em ra
ngoài sân ngồi

ghế

đá dưới bóng cây bàng. Tôi hỏi
em
đã
phải
gặp chuyện
gì,
có khó khăn
gì thì
nói
ra
để mọi người hiểu và
chia

sẻ. Ngân bảo:
Thưa
cô,vừa
qua
ba em
nhậu với ông chú, ông chú này
không

người thân nên
ba em đem
về


nuôi

dưỡng.
Khi hai
người nhậu xỉn
thì
có lời
qua
lại. Một lúc
sau
không
ai
chòu
thua vì
cái

của
mình.
Đôi
co
một
hồi lâu
ba em vì
nóng giận nên đã tát
ông chú một cái. Ông chú
không tự chủ được bản thân nên nhào
đầu xuống đất rồi bò
chấn
thương



đầu.
Kết

quả ngày hôm
sau
ông chú mất. Bây giờ
ba em đi
tù,

còn mẹ
thì
bò nợ nần
la
mắng tối ngày,
em
không
còn

tâm
trí gì
để mà học nữa cô
ơi. Nghe
câu
chuyện
tôi
cảm động không dằn lòng được, cũng khóc
theo em.
Tôi
an


ủi
em khi
hoàn cảnh khó
khăn
thì em
phải cố
gắng vượt
qua,
cô biết
em

người giàu nghò lực,
em
hãy cố
gắng
lên nhé,
đừng bỏ học
nhe em,
khó khăn nào rồi cũng
qua
thôi. Cô sẽ đề nghò lên
BGH
nhà trường
,
đoàn
đội

để


giúp đỡ
em trong
lúc khó khăn này. Thế rồi lòng
tương
thân,
tương
ái của các
em
học
sinh trong trường
cũng đã đóng góp được gần
1
triệu đồng để giúp đỡ
cho em Kim
Ngân. Giáo
viên trong
trường cũng chung 1
tấm lòng đã giúp đỡ
cho
Ngân
hơn
một triệu nữa để
cho em

3
thêm nghò
lực
tiếp
tục
việc học của

mình.
Đến giữa năm học trên đường đến trường, mẹ
em
Nhựt
Minh
lớp
8A3
nhờ tôi
cho em
quá
giang
đến trường.Tôi đồng
ý chở
em
và hỏi:
Sao em
không tự hỏi cô mà phải nhờ đến mẹ?
Minh
ấp úng, thấy vậy mẹ mở lời.” Cô
ơi,
cháu nó không

xe đi
học,

nhiều lần thức trễ bạn
đi
trước không quá
giang
được. Thấy


đi ngang
muốn hỏi
đi
cùng
nhưng em
không dám và
những ngày đó
phải nghỉ học”. Kể
từ

đó những ngày
đi
dạy cùng buổi
với
em
tôi thường đón
em đi
học.
Trong
những lần chở
em
đến trường, tôi hỏi
em vì sao
học lực những năm trước thường
hay
bò yếu.
Em
bảo rằng bởi


hằng ngày phải
đi
làm phụ giúp
cha
mẹ, đôi
khi đi
làm về còn
phải trông
coi em.
Bài học có đôi
khi
không chuẩn bò kòp, vào lớp
thì
thầy cô

luôn gọi lên trả bài,
em
luôn luôn
lo
sợ nên tiết học trước
em xem
lại bài cũ tiết học
sau
để chuẩn bò trả bài.
Hơn
nữa, thầy cô dạy
hay
gọi các bạn khá giỏi trả lời để kòp tiết
dạy,
em

không hiểu kòp. Có
khi em
muốn hỏi

thầy cô bài tập
nhưng em
không dám

sợ bò
la
mắng. Bài tập
cho
về nhà quá nhiều
làm
cho em
ngán
ngẫm
rồi chẳng muốn làm, dần dần
em
bò hỏng kiến thức.
Hơn
nữa, lớp học
không
khí
chẳng
vui
vẻ

nên tụi
em


thường
hay
nói chuyện
trong
giờ
học,
chẳng
nghe
giảng
bài

cả.
Qua
những câu chuyện
tôi đã thấy
mình chưa
thật sự
quan
tâm đến học
sinh
yếu
-
kém,
chưa tìm
hiểu

hoàn cảnh của các
em,
thầy trò

chưa
thân thiện,

đòa bàn nông thôn có
nhiều
em
hoàn cảnh còn khó

khăn nên
trong
tôi nảy
sinh
ý
nghó
phải
thay
đổi
phương
pháp
dạy học
trong
từng tiết dạy

môn hóa học để
đem
lại niềm
vui cho
các
em khi
đến trường. Thế

rồi năm học
2008-2009
ngành
có chủ
trương
xây dựng
trường
học thân thiện, học
sinh tích
cực
tôi quyết đònh chọn và áp dụng
phương
pháp “xây dựng tiết học thân
thiện
môn hóa học
8”
ở các lớp
mình dạy.
*
Tiến
hành:
Vào một đến
hai
tuần lễ đầu dạy lớp
tôi

kết hợp
với
GVCN,
cán bộ lớp và kiểm

tra 10
phút để phát

hiện học
sinh
yếu kém, có hoàn cảnh khó khăn và
tìm cơ
hội làm
quen
với những
đối
tượng này để hiểu
được
các
em.
Sau
đó tôi
thường
theo
dõi những đối
tượng
này để nhắc nhở các
em trong
học tập.
Khi
phát hiện
các
em
viết bài không kòp tôi nói chậm lại. Giờ làm bài tập
sau khi h

ướng dẫn
chung cho
cả lớp,
tôi thường đến cạnh bên những
em
này để
xem

hướng dẫn thật kó. Các

bài tập phù hợp đúng
theo
đối tượng,

ưu
tiên bài tập
đơn
giản
cho
học
sinh
yếu, bài tập khó
mang tính
thông
minh
dành
cho
học
sinh
khá

-
giỏi. Thường xuyên tuyên
dương
các
em khi
trả lời
đúng. Bên
cạnh đó,

tôi cũng
quan
tâm đến học
sinh
khác một cách công bằng nhằm tạo
tình
cảm tốt với học
trò,
khuyến
khích
sự
ham
học của các
em,
giúp các
em
đoàn kết giúp đỡ
nhau trong
học tập.
Dưới đây,
tôi sẽ

trình
bày một v
ài
phương
pháp giảng dạy góp phần xây
dựng nên trường
học thân

thiện
theo
chỉ đạo của
ngành.
O
Phương
pháp
1:
Rèn luyện

Kó năng sống”
cho
học
sinh.
Đó là
kó năng viết
CTHH, PTHH

THTN.
Sự ngán ngại của học
sinh


môn học này xuất phát chỗ học
sinh
không viết được
CTHH. Vì
từ
CTHH
viết không đúng
sẽ dẫn đến
PTHH
sai.Từ đo,ù các
em
không hiểu được
tính
chất hóa học.
Do
đó để
học sinh
yêu
thích
môn hóa
thì ngay
từ
đầu phải rèn luyện
cho
học
sinh
cách viết
CTHH
dựa
theo

hóa trò. Để cho
học
sinh
dễ nhớ hóa trò, tôi
cho
các
em
nhớ bài
thơ
lục bát nói về hóa trò
:
“ Kali,
iôt,
hidro
Natri
với bạc,
clo
một loài
Là hóa trò
I ai
ơi
Nhớ
ghi cho
kó, kẻo rồi
phân vân
Magiê,
kẽm với thủy ngân
Canxi,
đồng đấy cũng gần
oxi

Cuối cùng
hiện

chú
Bari
Hóa trò
II
đấy có

khó
khăn
Bác Nhôm hóa trò
III
lần
Ghi
sâu v
ào
trí khi
cần nhớ
ngay.
Cacbon,
silic
này đây
Hóa trò
tư ( IV)
đấy chớ ngày nào
quên
Sắt
kia
cũng chẳng quên têân.

Hai, ba
lên xuống thật phiền lắm
thay
Nitơ
rắc rối nhất đời
Một,
hai, ba,
bốn
khi
thời lên năm
Lưu
huỳnh lắm lúc
chơi khăm
Xuống
hai,
lên sáu
khi
nằm thứ

Photpho
nói tới không
như
Nếu
ai


hỏi
thì
ø


rằng năm
Ai ơi
cố
gắng
học chăm
Sao cho
hóa trò nửa năm thuộc
lòng”.
Qua
bài
thơ
học
sinh
nhớ được hóa trò các
nguyên
tố
hóa học thường gặp một cách
nhanh chóng.
I: Kali,
iôt,
hidro, natri,
bạc.
Clo.
II :Magie,
kẽm, thủy ngân,
canxi,
đồng,
oxi.
III : Nhôm
IV : Cacbon, silic

V : Photpho
II, III :
Sắt
I. II, III , IV V: Nitơ
Khi
học
sinh
thuộc được hóa trò, giáo viên
đưa ra
các cách lập công thức hóa học
nhanh cho học sinh
để các
em
dễ thực
hiện.
*
Cách lập
CTHH :
A
a
xB
b
y
- Khi hai
hóa trò bằng
nhau (a=b) thì
chỉ số là
1 (x=y) Ví
dụ
: K

I
Cl
I
ỈKCl ; Mg
II
O
II

MgO.
- Khi hai
hóa trò khác
nhau
(a



b) nhưng
lại là số tối giản
thì cho
nghòch đảo
(a=y, b=x)
VD : Al
III
O
II
Ỉ Al O
x y 2
3
P
V

O
II
x y
Ỉ P
2
O
5
- Khi hai
hóa trò
nhau (a b) nhưng
lại là
những số
chưa
tối giản
thì cho
nghòch đảo
nhưng
phải
đơn

giản thành số tối giản
: ( a=y=y

; b=x=x

)
(x

, y


)
là số tối giản của
(x,y)
VD : S
IV
O
II

SO
x y
2
C
IV
O
II
x y

CO
2
Hóa học là môn
khoa
học,
đi
từ trực
quan sinh
động đến
tư duy
trừu tượng.
V
à

bằng trực
quan,

giáo viên
cho
học
sinh
thực hiện các
thí
nghiệm
do chính
các
em
làm, tạo
cho
các
em
niềm
tin
vào cuộc sống,

lòng
tin
vào
khoa
học, khiến các
em
có cái
nhìn
đúng đắn

hơn trong
học tập.

vậy
ngay
từ
tiết thực hành đầu

tiên giáo
viên
hướng dẫn
cho
các
em
thật kó các
thao
tác
thí
nghiệm, cách lấy hóa chất, cách
sử
dụng đèn
cồn,
sử
dụng ống nghiệm không
bò vỡ, rèn luyện
tính
cẩn thận
cho
các
em khi

lấy hóa chất độc
hại
( HCl, H SO , NaOH, …) V
à

cũng rèn luyện
cho
các
em tinh
2
4
thần đoàn kết
khi
hợp tác làm
thí nghiệm.
VD:
Giáo viên giới thiệu
cho
các
em
một số
dụng cụ
thí
nghiệm
các
em
thường
sử
dụng:
Ống

nghiệm,

kẹp gỗ, đèn cồn, cốc thủy
tinh,
đũa thủy
tinh,
đế sứ, muối sắt, ống
đong,
giá
thí
nghiệm bằng sắt, lọ đựng hóa

chất,
bình tam
giác
thu khí, bình
cầu,
chén
sứ, phễu, giấy
lọc, ống dẫn
khí:
-
Kẹp ống nghiệm
từ
miệng xuống
1/3.
-
Điểm nóng nhất của đèn cồn là
2/3
ngọn lửa.

-
Trước
khi đun
nóng ống nghiệm cần

đều ống
nghiệm.
-
Ống
nghiệm
mới vứa
đun
không
để lên giá quá
mạnh

không
cho
nước vào
ngay
tránh bò vỡ.
-
Hóa chất lỏng lấy bằng ống nhỏ
giọt.
-
Muốn tắt đèn cồn
ta
dùng nắp đậy lại, không nên thổi.
-
Hóa chất rắn phải lấy bằng

thìa,
không dùng
tay.
-
Hóa chất dùng
xong
nếu có
thừa, không được đổ lại
bình chứa.
-
Hóa chất phải đựng
trong
lọ có
nhãn.
-
Không nếm hoặc ngửi trực tiếp hóa
chất
Khi
hướng dẫn thực hành
thí
nghiệm
đối với học
sinh
lướp
8
giáo viên nên thực hiện
trước để các
em

làm

theo,
tránh trường hợp để các
em
làm
sai
sẽ gây
nguy hiểm
O
Phương
pháp
2:
Tổ chức một
vài

trò
chơi
nhỏ
cho
các
em
(gây hứng thú học
tập
cho
các
em)
Đây

phương
pháp
chơi

mà học. Bước đầu đã tạo
cho
các
em


một trò
chơi vui tươi,
thoải
mái.

Với tâm trạng náo nức sẽ
tìm ra
đáp án đúng để được
khen


một
động lực lớn giúp các
em
học tập
tốt
hơn.
Cách này học
sinh
sẽ dễ khắc sâu kiến
thức.
VD.
Để tổng kết các khái niệm trừu tượng


chương 1,
giáo viên tổ chức
cho
các
em
chơi
trò
chơi
đoán
ô
chữ để nhắc lại các khái niệm
này.
-
Hàng
ngang
thứ
1
gồm
8
chữ cái: Hạt vô cùng nhỏ và
trung
hòa về
điện.
-
Hàng
ngang
thứ
2
gồm
6

chữ cái: Chỉ khái niệm được
đònh
nghóa
là gồm nhiều
chất trộn lẫn

vào
nhau.
-
Hàng
ngang
thứ
3
gồm
7
chữ cái: Khối
lượng nguyên
tử tập
trung
hầu hết

phần
này.
-
Hàng
ngang
thứ
4
gồm
8

chữ cái:
Hạt cấu tạo nên nguyên
tử,
mang
giá trò
điện
tích -1.
-
Hàng
ngang
thứ
5
gồm
6
chữ cái:
Hạt cấu tạo nên hạt nhân nguyên
tử,
mang
điện
tích
bằng
+1.
-
Hàng
ngang
thứ
6
gồm
8
chữ cái: Đó là từ chỉ tập

hợp
những nguyên
tử cùng
loại.
-
Từ
chìa
khóa có
6
chữ cái.
Hoặc để
đi
vào bài không
khí
sôi nổi, hào hứng, giáo viên cũng có thể
cho
học
sinh
giải ô
chữ.
VD:
Dạy bài” Nguyên
tố hóa học” giáo viên
cho
học
sinh
giải ô
chữ.
Ô
chữ gồm

5
chữ cái. Đây là chất có lợi
cho xương,
giúp phòng chống bệnh
loãng
xương.
C A N X I
Canxi

nguyên
tố
hoá học. Vậy nguyên
tố hóa học là
gì?
Được

hiệu
như
thế
nào?

Bài

mới.
**VD: Khi
dạy bài
tính
chất của
oxi.
Giáo viên

cho
học
sinh
giải ô chữ
,
ô
chữ gồm
3
chữ cái.

Nguyên
tố hóa học rất cần thiết
cho
sự hô
hấp.
O X I
Vậy
oxi

tính
chất
như
thế nào? Màu sắc, mùi vò
ra sao?
Các
em
sẽ
được
tìm
hiểu

trong
bài
24: “Tính
chất của
oxi”.
VD: Khi
dạy bài “nước”. Giáo viên
cho
học
sinh
giải ô
chữ.
Ô
chữ gồm
4
chữ cái. Đây là
một chất lỏng rất cần thiết đối với

thể, chúng
ta
có thể nhòn
ăn
được
nhưng
không thể thiếu chất
này
.
N
Ư


C
GV :
Nước có thành phần
như
thế nào
? Tính
chất
ra sao?
Phải
làm

để

giữ
gìn
nguồn nước không bò
ô
nhiễm.
Vào
bài
:
Bài
36 : Nước.
*
Phần củng cố bài cũng không kém phần
quan trọng, nhưng
để
học sinh
thoát
khỏi sự

mệt

mỏi

vào cuối giờ. Giáo viên tổ chức
cho
học
sinh
vài trò
chơi
nhỏ.
O
T

chơi “Ai nhanh hơn”
Để củng cố phần

hiệu hóa học, giáo viên
tổ chức
cho
học
sinh tham gia
trò
chơi
này. Giáo
viên
chuẩn bò
3
bảng phụ
ghi

nội
dung
tên các
nguyên
tố hóa
học.
Đại diện
3
tổ lần lượt lên viết
KHHH v
ào

tên nguyên tố.
Trong
thời
gian 1
phút
30
giây.Đội
nào

viết đúng nhiều nhất sẽ được điểm thưởng


điểm cộng
cho
phần trả
bài.
trò
chơi

VD:
Để củng cố bài
“ Phương trình
hóa học”. Giáo viên
cho
học
sinh tham
gia

Tiếp sức đồng đội”
*
Chuẩn
bò:
-
Lớp được
cử
ra
làm
3
đội, mỗi đội
5 HS
-
Các miếng
bìa
có dán
keo hai
mặt
phía sau
với số
lượng như

sau:
+ 3
Miếng
bìa
số
2
+ 2
Miếng
bìa
số
3
+ 1
Miếng
bìa
số
4
+ 5
Miếng
bìa

ghi
*
Mỗi đội có
1
bảng phụ được
treo
trên bảng, nội
dung như
sau:
t

o
2
2 3
3
2
3
2
2
a/ Al +
3 Cl

?
b/ Al +
?

Al O
t
o
c/ 2Al( OH)
Ỉ ? + H
2
O
* *
Phổ biến luật
chơi:
-
Thảo luận
trong 2
phút.
- Sau

đó lần lượt từng
em
lên dán những miếng
bìa
của
mình
vào chỗ
thích
hợp
sao
cho
được các
phương trình
hóa học đúng (Thời
gian
dán
2 phút).
-
Mỗi học
sinh
chỉ được dán
1
miếng
bìa
và không được lên dán
2
lần.
t
o
a/ 2 Al + 3 Cl

Ỉ 2 AlCl
3
b/ 4 Al + 3 O
Ỉ 2 Al O
2 2
3
t
o
c/ 2 Al( OH)

Al
2
O
3
+ 3 H O
Sau
đó giáo viên tổng kết, chấm điểm
,
tuyên
dương
học
sinh.
O
Phương
pháp
3:
Lấy những

dụ từ thực tế để các
em

dễ tiếp
thu
bài
hơn.
VD 1:
Để học
sinh
dễ hiểu hệ số của
PTHH
giáo viên gọi
3
hoặc
4
học
sinh
lên bảng
đứng
thành
hàng dọc. Giáo viên hỏi: Có phải
em
đứng vò
trí
đầu hàng là đứng trước tất cả các
em phía sau không?
Học trả lời: Phải. Giáo viên nói
em
đứng
đầu
đại diện
cho

hệ số
phương trình,
các
em phía sau
đại diện
cho
các
nguyên
tố hóa
hoc.
Vậy
hệ số đứng trước các
nguyên
tố hóa học
thì
chỉ số
nguyên
tử
của tất cả các
nguyên
tố, chứ không phải chỉ có

nguyên
tố
đầu.
Giả sử
cân bằng
PTHH : 2Mg + O
Ỉ 2 MgO.
Hệ số

2
đứng trước
Mg

O thì
chỉ
2
nguyên
tử
Mg

2
nguyên
tử
O.
Vế trái có
1 Mg thì
thêm số
2 phía trước.
HS1 HS2 HS3
2 Mg O
VD2:
Để học
sinh
dễ hiểu
khi tính
thành phần
%
của một
nguyên

tố
trong
hợp chất.
Trước hết
giáo

viên
đưa ra ví
dụ: Giả
sử

lớp của các
em

40 em. Trong
đó
nam

24,
nữ
16.
Các
em
hãy
cho
biết
% nam, %
nữ
trong
lớp

.
HS
dễ dàng trả lời
nam
chiếm
60%,
nữ
chiếm
40%.
GV
hỏi: Dựa vào đâu mà
em
biết, cách
tính như
thế nào.
Từ đó
GV đưa ra ví
dụ
tính % Mg, % O trong
hợp chất
MgO.
So
sánh
Mg

nam, O Ỉ
nữ,
MgO Ỉ
cả
lớp.

% Mg =24/40 x100% = 60 %
% O = 16/40 x100%= 40%
Từ

đó
GV
nâng dần lên các công thức
có chỉ số
khác
1 như : Fe O , Al O , CO ,
2
3
2
3 2
SO , SO ,
Hoặc
cao hơn
công

thức




3
nguyên

tố

hóa


học
: MgSO , CaCO , CuSO ,
2 3 4 3
4
O
Phương
pháp
4: Thay
đổi cách kiểm
tra
bài cũ để
HS
thấy không còn bò áp lực vào
đầu tiết
học.
a/
Trước đây:
(chưa
áp dụng
SKKN)
- GV
thường
hay
đặt nặng việc kiểm
tra
bài cũ, đối với
HS
yếu thường
lo

sợ bò trả bài vào
đầu tiết
học.

Gây
ra
tâm trạng
lo
sợ, sẽ
không
có hứng thú
khi
học bài mới.
Hơn
nữa,
khi
trả bài
cũng thường
hay
gọi những
em

này. Gọi
HS
trả bài
một cách ngẫu nhiên, điểm dưới
5
vẫn
ghi
điểm rồi còn

cho
chép phạt, thậm
chí ghi
điểm
1
nhiều lần.
- GV
thường
ghi
điểm khuyến
khích cho HS
khá giỏi
khi
các
em
trả lời câu hỏi
thông
minh. Chính
điều

này đã gây
cho
các
em
có cái
nhìn

mình
bò phân biệt đối xử.
b/

Hiện
nay:
(áp dụng
SKKN)
- Khi
kiểm
tra
bài cũ, tôi phân loại câu hỏi
như
sau:
+
Câu hỏi khó dành
cho HS
khá- giỏi.
+
Câu hỏi dễ
cho HS trung bình.
+
Câu hỏi thật dễ
cho HS
yếu
-kém.
VD: Khi
trả bài
“Điều chế
khí oxi -
phản ứng phân hủy”. Tôi phân loại câu hỏi
như
sau:
1/ Cho

biết
2
chất dùng để điều chế
khí oxi trong
phòng
thí
nghiệm
trong
số các
chất
sau: KClO , H O, KMnO , CaCO . (HS
yếu
– kém).
3 2 4
3
2/ Trong
phòng
thí
nghiệm,
khí oxi
điều chế bằng cách nào? Nói rõ cách
thu. (HS
trung bình).
3/
Sự khác
nhau
về việc điều chế
khí oxi trong
phòng
thí

nghiệm và
trong
công
nghiệp
về

nguyên liệu, sản lượng,
giá thành? Viết
phương trình
phản ứng điều chế
khí oxi
trong
phòng
thí
nghiệm.
( HS
khá

giỏi
).
Khi HS
không thuộc bài,
GV tìm
hiểu nguyên nhân
rồi
cho
các
em
hẹn trả bài
lại.


vậy,
rất
ít

HS
bò điểm kiểm
tra
miệng xấu.
Khi
đó, các
em
thấy
GV quan
tâm nhiều đến các
em
nên cũng cố
gắng hơn trong nhưng
giờ học tiếp
theo.
Tuy
nhiên, bên cạnh
đó còn
tình
trạng
HS
mất trật tự
khi
kiểm
tra

bài cũ. Để hạn chế
tình
trạng

này,

tôi tiến hành
theo
cách
2.
**
Cách
2:
Để đỡ mất thời
gian cho
phần kiểm
tra
bài cũ đồng thời giữ trật tự
trong
lúc
này cũng
như
tạo điều kiện
cho
các
em
yếu

kém có điều kiện
ghi

được điểm tốt.
GV
tiến
hành
như
sau:
Giáo viên gọi
2
học
sinh
lên bảng để kiểm
tra
bài cũ, cách kiểm
tra
cũng
giống
như phần
trên.Tuy nhiên,
trong
lúc
2 HS
này trả bài
thì
các
HS
còn lại cũng lấy
tờ
giấy
ra
để

ghi
phần bài làm của
mình v
ào

đấy.
Sau khi HS
trên bảng hoàn thành bài làm của
mình.
GV
gọi
3-5 HS đem
tờ giấy của
mình
lên để
chấm
điểm.
Để

làm được điều này giáo viên chuẩn bò bảng phụ gồm
3
nội
dung HS1, HS2

HS
bên dưới.
Đối với học
sinh
yếu kém, giáo viên nên gọi các
em

kiểm
tra
thường xuyên, mỗi lần
chấm
tờ

giấy

của các
em.
Giáo viên nên
cho
điểm cộng
(+ 1
hoặc
+ 2)
vào điểm trả bài của các
em. Hơn
nữa,
khi
làm bài

nhiều lần các
em
cũng nhớ được kiến thức nhiều
hơn.
VD :
Để kiểm
tra
bài phản ứng

oxi
hóa
-
khử.
GV
chuẩn bò bảng
phụ:
O
Phương
pháp
5:
Hướng dẫn về nhà cụ thể


ràng, không
nói
chung chung.
HS
yếu thường rất
lo
sợ công việc về nhà nhiều, cảm thấy nặng
nề rồi bỏ mặc không
làm gì
cả.

vậy
GV
cần
giao cho
các

em
cụ thể, phù hợp khả
năng v
a
ø
mức độ
tăng dần.
VD:
Dạy bài” Chuyển đổi giữa khối lượng
,
thể
tích
và lượng chất:
(
tiết
1)
a/
Đối với
HS
khá giỏi:
GV
yêu cầu
HS
chuẩn bò tiếp phần
II,
làm các bài tập
3, 4 SGK trang 67

bài
19.1, 19.4

sách bài
tập.
b/
Đối với
HS
yếu –kém:
GV cho
các
em
thực hiện phiếu học tập.
Phiếu học tập này
GV
động viên
HS
khá giỏi giúp đỡ các
em
hoàn thành tốt. Từ những
bài
tập

nhỏ

nhiều lần các
em
sẽ làm được nhiều bài tập
hơn.
Các
em
sẽ
thích

thú học môn
học này
hơn. Khi
các
em
thực hiện tốt phiếu học tập,
GV
tuyên
dương khen
ngợi các
em
trước lớp.
Nếu
cần lấy điểm kiểm
tra

bài để
khích
lệ các
em.
IV.
KẾT QUẢ ĐẠT
ĐƯC:
*
Đối với bản
thân:
GV
được
HS
yêu mến, được đồng nghiệp,

tổ
chuyên môn,
BGH
đánh giá
cao
về
chuyên
môn.
.
Xây đựng được tiết học
vui
vẻ, lớp học đoàn kết, hạn chế
HS
bỏ
học.
. Đem
lại
cho
các
em
niềm
say

trong
học tập, tiết học thêm
sinh
động,
HS
tiếp
thu

kiến thức
nhanh chóng.
.
Đạt
danh
hiệu chiến só
thi đua cơ
sở
ø
năm học
2008- 2009.
*
Đối
với

học
sinh:
-
Trước
khi
áp
dụng sáng kiến
kinh
nghiệm
( 2007-2008 ):
T


lệ học
sinh

yếu- kém
còn
cao,
số học
sinh
khá giỏi còn thấp,

các
em
học
sinh
không hứng thú
trong
học tập, mỗi
khi
đến lớp là một cực
hình
đối với các
em,
học
sinh
vào
lớp với tâm trạng
lo
sợ.
- Sau khi
áp
dụng sáng kiến
kinh nghiệm:
. HS

có hứng thú học tập, nhất là học
sinh
yếu, các
em
này có nhiều

hội đóng góp
ý
kiến xây

dựng bài mới, hạn chế mất trật tự.
. HS
yêu
thích
môn học, rất sẵn sàng đón chờ tiết
học.
.
Kết quả học tập năm
sau cao hơn
năm trước,
tỉ lệ học
sinh
khá
-
giỏi ngày càng
tăng,
tỉ lệ
học sinh
yếu kém giảm hẳn.
*

Đối với tổ
chuyên môn:
-
Được giáo viên
trong
tổ áp dụng tiết học thân thiện, tiết
sinh hoạt
chủ nhiệm thân
thiện
- T


được
BGH
đánh giá tổ
đoàn kết, thân
thiện.
- T


đạt Tập thể
LĐ XS
năm học
: 2008-2009.
- 100%
Giáo viên
trong
tổ đạt
CSTĐ cơ
sở

*
Đối với
trường:
-
Tạo được nền tảng để xây dựng trường học thân
thiện
-
Tạo được
tinh
thần đoàn k
ết

của học
sinh trong
lớp,
trong trường.
-
Nâng dần chất lượng dạy
và học

môn hóa
học.
*
Đối với
ngành:
-
Nâng
cao
chất lượng
hai

mặt giáo dục,
duy trì
só số tốt. Góp phần làm giảm nhẹ
cho
công tác phổ

cập.
- Cơ
sở tốt để ngành thực hiện
phong
trào xây dựng trường học thân thiện, học
sinh
tích cực.
V.
NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG


TỒN
TẠI:
1.
Thành
công:
Bản thân luôn đổi mới
phương
pháp dạy học,
thích tìm
tòi sáng tạo và
mong
muốn
mang

lại kết

quả tốt nhất
cho
học
sinh.
Học
sinh
có truyền thống
kính
thầy mến
bạn,
đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau trong
học tập.
Có sự bàn bạc với tổ
chuyên môn, sự đóng góp
ý
kiến nhiệt
tình
của
HĐBM, BGH,
đồng
nghiệp,
động viên
khen
thưởng kòp thời.
Phối hợp nhòp nhàng với
GVBM
khác, với

GVCN.
Bản thân luôn đối xử hòa đồng với tất cả các đối
tượng học
sinh,
từ đó các
em
cảm thấy
mình
rất

được
quan
tâm nên ủng hộ nhiệt
tình.
2.
Tồn
tại:
Giáo viên tốn nhiều thời
gian
chuẩn bò
cho
tiết dạy: trò
chơi,
phiếu học tập,

Một số học
sinh
thuộc
gia đình
nghèo, phải

đi
làm thuê, phụ giúp
gia đình
nên việc học hành không được liên tục khiến các
em
cũng bò hụt hẫng về kiến thức.
*
Hướng giải
quyết:
Hạn chế của giáo viên bản thân luôn cố gắng để dạy tốt môn học này. Còn về
phía
học
sinh
bản

thân đề xuất
BGH
nhà trường,
chính
quyền đòa
phương,
các tổ chức đoàn thể, các nhà
hảo tâm cùng
chung
tay

giúp đỡ để các
em
được yên tâm đến
trường, nâng

cao
chất lượng học tập của
mình.
VI.
TÁC
DỤNG
CỦA
SKKN:
*
Đối với học
sinh:
Rèn luyện khả năng tự học,
tính nhanh
nhẹn, bày
tỏ ý
kiến
.
Phát
huy
khả

năng
tư duy
của học
sinh.
Giảm hẳn
tỉ lệ học
sinh
yếu- kém, hạn chế được học
sinh

bỏ học, các
em
yêu
thích
môn
học.
*
Đối với bản
thân:
Tạo
cho
học
sinh
không
khí
lớp học
vui
vẻ, học
sinh
biết lónh hội được kiến thức.
Đem
lại niềm
say


trong
học tập của học
sinh
*
Đối

với

tổ

chuyên môn: Chất lượng
bộ môn ngày càng
cao,
có nhiều học
sinh
giỏi
cấp
huyện,
tỉnh, tổ đạt tổ
tiên tiến xuất sắc.
VII.
PHẠM
VI
ÁP

DỤNG
CỦA
SKKN
:
Có thể áp dụng rộng rãi,

vùng nông thôn

sở vật chất còn thiếu thốn
thì
giáo viên cần

chuẩn
bò nhiều bảng phụ
cho
phần trò
chơi

phiếu học tập. Còn

vùng thành thò, việc áp
dụng
công nghệ thông
tin
sẽ

tăng thêm phần hấp dẫn. Bên cạnh
đó, có thể áp
dụng
cho
khối khác, các
môn học khác góp phần xây
dựng
nên trường học thân
thiện.
VIII.
BÀI
HỌC
KINH NGHIỆM:
Để thực hiện thành công, yêu cầu người giáo viên phải có
bước chuẩn bò trò
chơi

thật
chu
đáo:

chuẩn bò nội
dung
kiểm
tra
bài cũ rõ
ràng, Chuẩn
bò trò
chơi cho
tiết dạy, phiếu học tập,

Bước này mất
nhiều
thời
gian nhưng
tất

cả chúng
ta
hãy:
“ Vì
học
sinh
thân yêu,

mái
trường thân

thiện”.
Giáo viên cần giáo dục
cho
các
em
ý

thức tự giác, phải học bài, ôn
bài

kó để đạt được
điểm tốt.
Giáo

viên phải tìøm hiểu tâm

từng học
sinh
cá biệt
kích thích
đúng chỗ. Từ đó các
em
thích
môn
học
kết quả học tập tốt
hơn.
Giáo viên cần phải kiên
trì,
bền bỉ, gần gũi, thân thiện với các

em,
nhiệt
tình trong
giảng
dạy.
Đối

với học
sinh
khá giỏi, cán bộ lớp, tôi
thường xuyên giáo dục
tinh
thần đoàn kết, lòng
yêu
thương
giúp đỡ mọi người, sẵn sàng giúp đỡ học
sinh
yếu kém cùng
nhau
tiến bộ.
Đối với học
sinh
yếu kém
khi vi
phạm tôi không phê
bình ngay
mà nhắc nhở và
cho
các
em cơ

hội

sửa đổi đến lần thứ
3,
nếu các
em
tiếp tục
thì
mời riêng dể
trao
đổi, phân
tích
đúng
sai
để các
em
khắc
phục
dần.
Tuy
nhiên cũng cần
thay
đổi trò
chơi
khác
cho
tiết
dạy
thêm
sinh

động, đỡ gây
nhàm
chán.
IX.
KẾT LUẬN:
Hiện
nay,
ngành giáo dục
có chủ
trương
xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích
cực.
Muốn
đạt được kết quả này
thì
việc xây
dựng
tiết học thân thiện

từng bộ môn là
việc cần
làm. Nếu được
đồng
nghiệp cùng hưởng
ứng sẽ góp phần không nhỏ
trong
việc nâng
cao
chất

lượng 2
mặt giáo
dục cho ngành.
Bên cạnh
đó, nó còn nâng
cao
công tác
duy trì
só số, giảm
bớt áp lực trẻ bỏ học
cho gia đình
và nâng
cao
dân
trí
đòa
phương.
Thực hiện tốt
SKKN
trên
còn góp phần xây dựng
con
người
HS
phát triển toàn diện,
ý
thức

tự


học, phát
huy
năng lực của
mình.
Tạo
cho
các
em
lòng yêu
thương con
người,
tinh
thần đoàn kết, giúp đỡ
nhau trong
học tập. Để các
em
thấy rằng:

Mỗi giờ học Hóa là một niềm
vui”.

×