Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.62 KB, 38 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam,
danh nhân văn hóa thế giới. Người luôn có công trong cả thời bình và thời
chiến, thời chiến tranh Người đã đi tìm con đường cứu nước, trong thời bình
Người đã để lại cho toàn dân tộc một di sản rất to lớn đó là tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng. Nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự tự hào của mỗi sinh viên, cán bộ. Đạo đức
cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh không những kế thừa nhiều từ đạo đức,
phong tục của dân tộc ta và cả văn hóa phương Đông lẫn phương Tây, mà đặc
biệt nó cũng kết tinh từ chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên. Trong những tác phẩm, bài nói, bài viết, Người đã nhiều lần nói
đến các phẩm chất đạo đức. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng của
cánh mạng: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân" [11, Tr.467]. Đồng thời Hồ Chí Minh cũng quan tâm đến vấn
đề giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ thanh niên, bởi vì “Một năm khởi
đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Đất
nước có sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không là phụ thuộc vào
đức và tài của thế hệ trẻ, đặc biệt là những sinh viên đang ngồi trên ghế giảng
đường đại học.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như việc vận dụng tư tưởng của
Người trong mọi lĩnh vực cách mạng, phát triển xã hội, vấn đề đào tạo bồi
dưỡng cán bộ cũng như là người dân hiện nay là một vấn đề thời sự. Chúng ta
đang sống trong thời đại mới - thời đại văn minh, khoa học, nhất là trong quá
trình phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin, và những nét văn hóa
của các nước trên thế giới du nhập vào, nó làm cho tri thức con người được
nâng cao, nhưng bên cạnh đó giá trị đạo đức đang ngày càng bị sói mòn, duy


vật chất, thực dụng và kéo theo đó là vô vàng các hệ lụy, như sống thiếu lý
2
tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tân đến tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp
hành pháp luật, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc… và một phần không nhỏ
bộ phận thế hệ trẻ đã bị ảnh hưởng về những văn hóa suy đoài, làm lung lay
lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước. Chính vì vậy việc cấp thiết
bây giờ là cần thực hiện giáo dục đạo đức thế hệ trẻ và cán bộ Đảng viên
nhằm nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tin vào Đảng, vào Nhà nước và đưa
đất nước từng bước phát triển lên tầm cao mới, sánh vai cùng với cường quốc
năm châu.
Nhằm đem lại cho mọi người hiểu rõ hơn về vai trò, vị trí của đạo đức
cách mạng, yêu cầu thực tiễn đặt ra một số vấn đề và cũng như đề xuất mới,
đồng thời góp phần nâng cao tinh thần học hỏi, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh nên tôi chon đề tài "tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và
sự vận dụng của Đảng ta trong thời kì hiện nay" là hết sức cần thiết cả về
mặt lý luận và thực tiễn.
2. Nội dung nghiên cứu
-Khái quát những vấn đề cơ bản về đạo đức cách mạng.
-Thực trạng về việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng.
-Những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện đạo đức cách mạng
trong thời đại mới.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong thời đại mới, từ đó
vận dụng vào việc xây dựng đạo đức cách mạng cho các thế hệ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong thời đại
hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp
như thống kê, phân tích, tổng hợp
3
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài được bố cục làm hai chương sau:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức cách mạng.
Chương 2: Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
trong thời kì hiện nay.
4
CHƯƠNG 1:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG.
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
1.1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng
1.1.1.1. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta góp phần hoàn
thiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Đất nước ta đã trải qua nhiều biến cố, những cuộc chiến tranh kéo dài.
Ông cha ta đã chiến đấu và dành chiến thắng. Một phần nào cũng do chúng ta
luôn coi trọng đạo đức, hình thành nên các chuẩn mực giá trị đạo đức tốt đẹp
phù hợp với yêu cầu hiện tại. Và trong đời sống chính trị, văn hóa, xã hội hiện
nay thật khó mà kiếm được một người như chủ tịch Hồ Chí Minh. Nói đến
Người, mọi người đều biết rằng, đó là một người vĩ đại, có đạo đức trong
sáng, suốt đời phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, cống hiến, hy sinh tất cả
cho độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Dễ hiểu lý luận, dễ tìm
phương hướng. Ngoài ra truyền thống quý báu của dân tộc ta còn thể hiện ở
chỗ đó là truyền thống yêu quê hương đất nước, gắn bó với thiên nhiên, với
cộng đồng, đoàn kết, thủy chung, sáng tạo, Đạo đức truyền thống Việt Nam
được hình thành trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta. Đầu tiên là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để

dựng nước và giữ nước, đây chính là truyền thống đạo đức quý báu nhất,
nguồn gốc sức mạnh xuyên suốt lịch sử dân tộc, từ văn hóa dân gian đến văn
hóa bác học, từ nhân vật truyền thuyết đến các tên tuổi sang ngời trong lịch sử
đều phản ánh hùng hồn chân lý đó. Đại Hội 2 (2/1957) Hồ Chí Minh khẳng
định: “Dân tộc ta có một lòng yêu nước nồng nàn, đó là truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Thứ
hai là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái. Hồ
Chí Minh chú ý phát huy sức mạnh này và cố gắn nhấn mạnh bốn chữ “đồng”
là đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh, truyền thống này cũng được
5
hình thành trong hoàn cảnh đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc
ngoại xâm. Thứ ba là tinh thần lạc quan, niềm tin vào sự tất thắng của chân lý,
chính nghĩa, vào một ngày mà cả dân tộc sẽ được độc lập, dân ta được ấm no
hạnh phúc. Thứ tư, dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông
minh, sáng tạo trong chế tạo, sản xuất và chiến đấu nên cũng là một dân tộc
ham học hỏi và luôn biết mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại,
một phần cũng nhờ vào vị trí thuận lợi, tiếp giáp với nhiều nước cùng với
đường bờ biển dài, ở giữa đầu đạo đức Hồ Chí Minh là kết tinh truyền thống
đạo đức tốt đẹp của cả dân tộc và gia đình, của nhân loại và đạo đức của chủ
nghĩa Mác -Lênin Người đã kế thừa và phát triển, một phần hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, đồng thời kết hợp với những tinh hoa văn
hóa, đạo đức của nhân loại, trong khoảng thời gian mà Người đã bôn ba ở
nước ngoài. Tư tưởng đó kết hợp với đạo đức tiên tiến nhất của thời đại là đạo
đức cộng sản Hồ Chí Minh, tử đó Người đã xây dựng nên giá trị đạo đức mới,
đó là đạo đức cách mạng.
1.1.1.2. Tư tưởng đạo đức văn hóa phương Đông, phương Tây
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã đi nhiều nước
trên thế giới, đã tiếp thu nhiều tinh hoa văn hóa ở các nước này. Trước hết là

về Nho giáo. Mặc dù Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu,… tuy nhiên
Nho giáo cũng có nhiều yếu tố tích cực nên mới có sức sống mãnh liệt trong
mấy ngàn năm. Mà biểu hiện tích cực đó là triết hành động, tư tưởng nhập
thế, hành đạo, giúp đời; ngoài ra nó còn có triết nhân sinh giúp người học tu
thân tích đức. Nho giáo còn đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu
học. Từ Nho giáo Hồ Chí Minh đã rút được nhiều mặt tích cực trong việc
hoàn thiện đạo đức cách mạng. Đạo Phật vào Việt Nam từ rất sớm do vậy nó
có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa nước nhà trong thời bấy giờ. Phật giáo
truyền tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, đem những tinh thần
quý báu vào trong tinh thần của nhân dân. Phật giáo còn khuyến khích con
người làm việc thiện, sống trong sạch, giản dị, luôn tôn trọng tinh thần dân
chủ, không phân biệt đẳng cấp. Nhưng Người cũng chỉ ra nhiều điều hay của
Phật giáo mà nó đã đi vào tư duy, hành động, cách ứng xử của người Việt
Nam. Đó là những điều cần được khai thác để góp vào việc thực hiện nhiệm
6
vụ cách mạng. Phật giáo dạy con người nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản
dị, chăm lo làm điều thiện. Phật giáo còn có tinh thần bình đẳng, tinh thần dân
chủ chất phác, chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Đặc biệt là luôn đề cao tinh
thần lao động, và tinh thần yêu nước của mỗi người dân. Phật giáo đã là một
phần trong đời sống của mỗi người dân Việt Nam và để lại nhiều ấn tượng
sâu sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Về phía phương Tây, người cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền
văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây. Xuất thân từ gia đình khoa
bảng, tư chất thông minh, trình độ quốc học, hán học vững vàng, đồng thời
cũng hiểu một phần nào văn hóa phương Tây khi Pháp sang xâm lượt nước ta,
Người tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của đại Cách mạng Pháp.
Người học hỏi không ngừng khi bôn ba năm châu bốn biển, đã đặt chân lên
khoảng ba mươi nước, có vốn hiểu biết phong phú nhất về văn hóa của các
nước đã từng đi qua, đã thông thái những ngôn ngữ tiêu biểu cho nền văn
minh của nhân loại, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở Châu Âu nên Người cũng

chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng của
phương Tây. Khi sang Mỹ Người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do,
độc lập, cho quyền sống của con người được ghi lại trong Tuyên ngôn độc lập
1776 của nước Mỹ. Khi sang Pari là thủ đô chính trị cũng như là trung tâm
văn hóa – nghệ thuật của Pháp tại đây Người đã có điều kiện thuận lợi để
chiếm lĩnh vốn tri thức, đặt biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ
của nước Pháp. Người am tường văn hóa Đông, Tây, kim cổ, Người tượng
trưng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông Tây. Và cũng góp phần hình
thành tư tưởng của Hồ Chí Minh.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Trong lịch sử tư tưởng đạo đức học đã có nhiều quan điểm khác nhau
về đạo đức cách mạng. Một số nhà duy tâm – tôn giáo xem mọi sử điều chỉnh
hành vi, cách ứng xử của con người là do sự an bài của Thượng đế. Không ít
nhà đạo đức phương Tây hiện đại đã đi tìm cội rễ của các quan hệ đạo đức
trong bản năng sinh vật, trong tiềm thức siêu nghiệm hoặc trong tâm lý riêng
của cá nhân cực đoan, nhưng vẫn chưa giải thích đúng đắn bản chất của đạo
7
đức. Thực ra trong thời cổ đại, một số nhà triết học duy vật đã cố gắng giải
thích nguồn gốc của đạo đức là từ chính bản thân của con người. Trong quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc đạo đức đã nói: Đạo đức và các
chuẩn mực của ý thức đạo đức được hình thành và tồn tại trong quá trình con
người giao tiếp với nhau. Chúng là sự phản ánh và thể hiện kinh nghiệm
chung sống và kinh nghiệm lịch sử - thực tiễn của con người.
Theo Mác và Ăngghen, thì con người khi sống phải có nhiều mối quan
hệ tác động lẫn nhau. Quan hệ giữa con người với con người, quan hệ giữa
con người với tự nhiên, như Mác đã từng viết “Phương thức sản xuất đời
sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần
nói chung. Không phải ý thức của xã hội của họ quyết định tồn tại của họ;
trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Luận điểm này là
chìa khóa để khám phá tất cả các hiện tượng xã hội, trong đó có cả đạo đức.

Như vậy, đạo đức không phải là sự biểu hiện của một sức mạnh ở bên ngoài
xã hội, mà nó xuất phát từ con người. Đạo đức là sản phẩm của những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế xã hội.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức được sinh ra trước
hết là từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong
đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát triển.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của các quan hệ xã hội, hệ
thống các luân đạo đức, ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng thao đó mà
ngày càng phát triển, ngày càng nâng cao.
Đạo đức cách mạng là sự phù hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
chung, có nghĩa là trong việc thực hiện phát triển đạo đức cách mạng chúng ta
phải đặt ra những yêu cầu đối với mình và đối với cách mạng, phải luôn hoàn
thiện bản thân đồng thời phải góp phần xây dựng đất nước. Đạo đức cách
mạng là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản
và không ngừng vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cuộc cách mạng
đó, đó là thực hành chủ nghĩa tập thể, đoàn kết, gắn bó mật thiết với dân. Đạo
đức cách mạng là lao động trung thực và tận tâm vì chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản. Đạo đức cách mạng là đấu tranh không mệt mỏi cho tinh
8
thần nhân đạo và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Đối xử nhân đạo với tất cả
mọi người đều bình đẳng kể cả tù bình, hàng binh, đặc biệt là những sĩ quan,
binh sĩ bị thương là một nét đẹp của cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta trong chiến
tranh. Mục đích cao nhất của Quân đội là chiến đấu để chiến thắng và đem lại
hoà bình. Bởi vậy, khi kẻ địch đã thua hàng thì Quân đội không bao giờ dồn
đến bước đường cùng, mà luôn mở cho chúng một con đường sống, một cơ
hội cứu vãn hoà bình, hữu nghị. Đó là một biểu hiện nhân đạo của chiến tranh
chính nghĩa, của những người cộng sản và quân nhân cách mạng.
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm được cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận của tư tưởng bản thân. Nhờ vậy Người đã hấp thụ
và chuyển hoá được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân

tộc cũng như của tư tưởng văn hoá nhân loại tạo nên hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh. Vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác - Lênin; đồng
thời nó còn là sự vận dụng sáng tạo và phát triển làm phong phú chủ nghĩa
Mác - Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập tự do, xây
dựng đời sống mới.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đạo đức
cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có một trí tuệ siêu việt và một tâm
hồn cao thượng mà còn là một tấm gương sáng ngời về đạo đức và ý chí, về
lòng yêu nước và tình thương đồng bào, về lòng nhân ái và tinh thần quốc tế,
về dũng khí “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay,
uy lực không thể khuất phục” [ 15, tr 54]. Hồ Chí Minh là một tấm gương đạo
đức của mỗi người cán bộ, sinh viên trong giai đoạn hiện nay, Người là vị
lãnh tựu quan tâm nhiều nhất về vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên và người dân thuộc mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội: công nhân,
nông dân, trí thức, bộ đội, công an, thiếu niên, nhi đồng Và có thể nói rằng
toàn bộ những tư tưởng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và
về rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân là một hệ thống tri
thức khoa học và cách mạng, truyền thống và hiện đại về đạo đức của con
9
người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời đại ngày nay, là đạo đức học Hồ
Chí Minh, đạo đức học Việt Nam hiện đại. Đạo đức học này đã ra đời cùng
với tác phẩm “Đường kách mệnh” do Người viết nên. Người cho rằng đạo
đức là cái gốc, là nền tảng của người cách mạng, quan điểm “đức làm gốc”
của Hồ Chí Minh có nội dung phong phú, bao trùm và xuyên suốt toàn bộ tư
tưởng đạo đức cách mạng của Người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh,
Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”, thì mới hoàn thành được sứ mệnh vẻ
vang của mình. Đạo đức cách mạng liên quan đến thành bại của cách mạng,
người đã nói người có phẩm chất đạo đức cách mạng phải đòi hỏi con người

tham gia vào quá trình giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, luôn lấy đạo
đức làm gốc, là nguồn, là nền tảng bởi vì muốn làm cách mạng con người
phải giữ tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với mình. Bác đã nói làm cách
mạng để cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới là một nhiệm vụ rất vẻ vang,
nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề. Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách
mạng còn biểu hiện trong việc ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của
Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và
nhân dân lên trước lợi ích riêng của cá nhân. Ra sức học tập theo chủ nghĩa
Mác - Lênin, “Tự phê bình và phê bình phải thật thà vạch khuyết điểm. Có lỗi
mà không vạch ra không khác gì người có bệnh mà không chịu khai với thầy
thuốc. Làm nhiều công việc thì khó mà hoàn toàn tránh khỏi khuyết điểm.
Cho nên phải dùng cách phê bình và tự phê bình để giúp nhau cùng tiến bộ.
Vạch khuyết điểm để sửa chữa, nhưng cũng phải nêu ưu điểm để phát huy.
Muốn tự phê bình và phê bình có kết quả, cán bộ các cấp nhất là cán bộ cao
cấp phải làm gương trước” [14, Tr.441]. Nói tóm tắt muốn trở thành người
cách mạng chân chính phải thực hiện tốt năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng,
liêm. Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì
thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến
nhân dân; sẵn sàng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên
hạ. Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc có hại đến Nhà
nước, không có việc gì phải che dấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có
lợi ích riêng phải lo toan. Trí là không có việc tư túi làm mù quáng, cho nên
10
đầu óc phải trong sạch, sáng suốt. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách
mạng là đạo đức của người cách mạng xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải
phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách
mạng là trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm,

chính, chí công vô tư; luôn yêu thương, quý trọng con người, sống có tình, có
nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng…
Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ cũng không sợ
sệt, rụt rè. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp và của dân
tộc mà không ngại hy sinh lợi ích riêng của mình. Khi gặp thuận lợi và thành
công cũng vẫn giữ tinh thần khiêm tốn, chất phát, “lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không mong muốn được hưởng
thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa, cho
nên đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người, cái khổ vì
dân là cái khổ rất có giá trị, Người nói: “Chúng ta đem tinh thần để chiến
thắng vật chất. Chúng ta vì nước vì dân mà chịu cực khổ, cái khổ rất có giá
trị, thì vật chất càng khổ thì tinh thần càng sướng”. Vì thế, theo Người, “Có
gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người” [17;
tr.248]. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong đời sống xã hội cũng như
trong hoạt động cách mạng, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác
nhau, người làm việc lớn, người làm việc nhỏ, nhưng bất cứ ai giữ vững được
đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. Trong mối quan hệ giữa đức và
tài thì đức là gốc nhưng đức và tài phải đi đôi với nhau, không thể có mặt này
mà thiếu mặt kia thì cũng không được. Trong đức có tài bởi vì, người có đức
bao giờ cũng cố gắng hoàn thiện bản thân, nâng cao hiểu biết. Và đạo đức
cách mạng là cái gốc nhân cách, là nền tảng của người cách mạng. Quan niệm
lấy đức làm gốc không có nghĩa là tuyệt đối hóa về mặt đạo đức, mà coi nhẹ
mặt tài, “Thanh niên phải có đức có tài. Có tài mà không có đức ví như một
anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những
không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có
11
đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi
gì cho loài người…” [17, Tr 126].
Nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh cũng

được thể hiện ở mấy điểm chính như: trung với nước hiếu với dân, người cán
bộ phải là đầy tớ của nhân dân. Dũng cảm hy sinh, không sợ khó khăn, gian
khổ, gạt bỏ lợi ích cá nhân để phục tùng lợi ích tập thể. Khiêm tốn học hỏi
không tự cao tự đại. Mà nội dung chủ yếu là phải biết đặt lợi ích của Đảng,
Tổ quốc, cách mạng lên trên hết. Quyết tâm thực hiện tốt mọi chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Một phần đạo đức cách mạng gắn liền với
hoạt động của Người là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Hồ Chí Minh
đã sử dụng những khái niệm đó để làm thước đo sự giàu có về mặt vật chất và
vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. Đạo đức cách
mạng là nhằm giải phóng và đem lại lợi ích cho con người, đó là đạo đức của
những con người được giải phóng. Vì vậy tu dưỡng đạo đức phải gắn liền với
hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự giác, tự nguyện dựa vào lương tâm và
trách nhiệm của mỗi người. Hồ Chí Minh đã viết: “Đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày
mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc sáng càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong. Có gì sung sướng, vẻ vang hơn là trâu dồi đạo đức
cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
và giải phóng loài người” [16, Tr.293].
Tư cách của một người cách mệnh là đối với mình phải cần, kiệm; hòa
mà không tư; cả quyết sửa đổi mình; cẩn thận không nhút nhát; nhẫn nại chịu
khó; hay nghiên cứu, xem xét; vị công, vô tư; không hiếu danh, không hiêu
ngạo; nói thì phải làm; giữ chủ nghĩa cho vững; ít lòng tham muốn về mặt vật
chất, bí mật. Đạo đức cách mạng còn là nhân tố hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội,
sự hấp dẫn ở đây là giá trị cao đẹp nhân văn, phẩm chất của những người
cộng sản ưu tú, bằng hành động của mình chiến đấu cho lý tưởng cộng sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dạo đức cách mạng người cán bộ, công chức
là nhất quán được Người thể hiện trong nhiều tác phẩm, nhưng có thể lấy lời
nói của Người về tư cách người công an cách mệnh làm lời tổng kết:
12
“Đối với tự mình, phải cần kiệm liêm chính.

Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tụy.
Đối với địch, phải cương quyết khôn khéo”.
Đây cũng là đạo đức cần có của mỗi cán bộ, công chức chúng ta hiện
nay.
1.2.2.Phẩm chất đạo đức của con người trong thời đại mới
1.2.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước, hiếu với dân là truyền thống của dân tộc Việt Nam và
phương Đông, được chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều
kiện mới.
Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ
nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước cùng sánh vai với các nước trên
thế giới. Trung thành với sự nghiệp bảo về Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ
quyền toàn vện lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ và sự nghiệp đổi
mới, bảo vệ lợi ích của đất nước, dân tộc. Nước là của dân, dân làm chủ đất
nước, trung với nước là trung với dân, làm việc gì cũng đặt lợi ích của dân lên
hàng đầu, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu,
kiến nghị của dân, biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức,
động viên cho nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo, “làm giàu cho mình,
cho đất nước”.
Hiếu với dân, theo Hồ Chí Minh là không phải chỉ là hiếu với cha mẹ
mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân, với toàn dân tộc, vì
"nước lấy dân làm gốc", dân là "gốc" của nước. Tư tưởng hiếu với dân là phải phục
vụ hết lòng, phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân. Nắm vững
dân tình, hiểu rõ dân tâm, lại phải quan tâm cảnh thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
Trung với nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể
hiện trong mọi công việc cách mạng của Đảng, trong từng suy nghĩ, việc làm
13

cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân.
1.2.2.2. Yêu thương con người
Tư tưởng yêu thương con người được Hồ Chí Minh nêu lên và vận
động mọi người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Người vẫn ân cần nhắc nhở
toàn Đảng phải tiếp tục chăm lo cho con người. Hồ Chí Minh yêu thương đồng
bào, đồng chí của Người, không phân biệt miền ngược miền xuôi, già hay trẻ, gái
hay trai… hễ là người Việt Nam yêu nước đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của
Người, nhưng trước hết dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị
áp bức bóc lột. Tình yêu thương con người của Bác thật bao la. Tình yêu thương
con người đối với đồng bào mình, Người có một ham muốn duy nhất là: “Tôi chỉ
có một ham muốn duy nhất, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn
độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng xó cơm ăn áo mặt, ai cũng
được học hành”. Tình yêu thương đó gắn liền với thái độ tôn trọng con người, biết
cách giúp đỡ con người, rộng lượng, bao dung với người, đồng thời nghiêm khắc
với mình. Tình yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt
đẹp hơn; bằng cách tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao điểm tích cực, hạn chế
những tiêu cực để mỗi người, ngày càng tốt hơn, có ích hơn cho Đảng, cho đất
nước.
Tư tưởng yêu thương đó được Hồ Chí Minh nêu lên và vận động mọi người
cùng thực hiện suốt cả đời. Cho tới lúc đi xa, Người vẫn ân cần nhắc nhở toàn
Đảng phải tiếp tục chăm lo cho con người. Trước hết là những người đã hy sinh
cho Tổ quốc này, là cha mẹ của thương binh, liệt sĩ, là nhân dân khắp nước… Yêu
thương con người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với
tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn chúng ta phải biết phát triển
những mặt tốt của mình và của mọi người làm cho phần xấu ngày càng phai đi và
phần tốt phát triển mạnh mẽ. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng
người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ nhận thức lại và giúp họ
tiến bộ. Mọi người phải cùng nhau phát triển phần thiện vốn có ở mỗi người và
chung tay đẩy lùi phần ác cũng luôn rình rập quanh ta, cùng thực hiện các chuẩn
mực yêu thương con người.

Yêu thương con người vận dụng vào trong Đảng, trong tổ chức là phải
14
có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Tình yêu thương con người đã trở
thành nét đẹp vĩnh hằng trong chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh.
1.2.2.3. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động thương ngày của mỗi
người.
"Cần" tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. Lao động có kế
hoạch, sáng tạo, có năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cách sinh, không
nhờ vả. Tuy nhiên phải biết nuôi dưỡng tinh thần và sức lực để làm việc lâu dài.
"Kiệm" là tiết kiệm, không hoang phí thời gian và tiền bạc, không bừa
bãi. Không tổ chức rượu chè. Phải tiết kiệm tiền của cho nhân dân. Kiệm
không xa xỉ chứ không phải bủn xỉn, gặp việc gì cũng không làm, việc đáng
tiêu thì không tiêu. Tiết kiệm không phải là bắt mọi người, phải ép mọi người
nhịn ăn nhịn mặc.
"Liêm" là trong sạch, không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng. Chỉ
có một thứ ham đó là ham học hỏi, ham tìm tòi, ham tiến bộ. Không vì địa vị,
tiền của mà dìm người tài, cậy quyền thế.
"Chính" là không tà, thằng thắn, đứng đắn. Đối với mình không được
tự cao, tự đại, luôn chiệu khó học tập cầu tiến bộ, việc thiện dù nhỏ đến mấy
cũng làm, việc ác dù nhỏ đến mấy cũng tránh.
Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh tiến bộ của một dân tộc. Một
dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc văn minh tiến bộ, là đặc điểm
của một xã hội hưng thịnh, trái lại là đặc điểm của một xã hội suy tàn.
Bác đã viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.

Thiếu một đức, thì không thành người” [12, Tr 233].
Về chí công vô tư , khi làm việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, phải
15
khổ trước thiên hạ, vui sau sau thiên hạ. Chí công là rất mực công tâm; vô tư là
không có lòng riêng, thiên tư, thù oán. Muốn được chí công, vô tư phải chiến
thắng được chủ nghĩa cá nhân. Theo Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa cá nhân là muốn
con người sống chỉ vì mình, nó là một thứ nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Chủ
nghĩa cá nhân là một thứ chất độc, làm cho con người nảy sinh ra cá thói hư tật
xấu.
Như vậy có thể nói, Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là cái cần để
"làm việc, làm người, làm cán bộ… phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ
quốc và nhân loại". Các đức tính đó có mối quan hệ chặc chẽ với nhau, cần, kiệm, liêm,
chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Và ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì
dân thì sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
1.2.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế trong sáng là
sự mở rộng quan hệ đạo đức giữa người với người và với toàn nhân loại vì
Người không chỉ là “người Việt Nam nhất” như cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng khẳng định, mà còn là “nhà văn hoá lớn của thế giới”, “chiến sĩ lỗi lạc
của phong trào cộng sản quốc tế”. Đoàn kết quốc tế trong sáng theo Hồ Chí
Minh trước hết là đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu
chung: đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đó là tình
đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu
chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”; là đoàn kết với các dân tộc vì hoà
bình, công lý và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu
nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong
sáng.
Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao
động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách
mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân

tộc. Trên tinh thần quốc tế trong sáng còn là mục tiêu chung “bốn phương vô
sản đều là anh em”. Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hòa bình, công lý và
tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa
16
yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi
biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc…
17
CHƯƠNG 2:
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
2.1. Thực trạng đạo đức cách mạng hiện nay
2.1.1. Những mặt đạt được
Qua nhiều năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân có nhiều tiến bộ… Đa số cán bộ, Đảng viên
phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong công
tác, rèn luyện phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt trong cuộc đổi mới.
Như chúng ta đã biết đạo đức có thể tạo nên sức mạnh giữ được sự ổn định và
phát triển của một quốc gia, chúng ta đã chứng minh điều đó là đúng khi dành
nhiều chiến thắng bởi một phần lớn là từ sự cố gắng rèn luyện đạo đức. Cũng
như ở những triều đại trước bị sụp đổ cũng là vì mất đi đạo đức, hay đạo đức
bị suy thoái. Cho thấy đạo đức là điều không thể thiếu đối với một quốc gia
hiện đại ngày nay, một cường quốc ngoài một nền kinh tế phát triển và chính
trị vững mạnh, còn phải có một nền đạo đức vững chắc. Đảng đã giáo dục,
nâng cao ý thức, nhiệt tình cách mạng cho đội ngũ đảng viên cũng đã cố gắng
vươn lên, tự rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng trong điều
kiện mới. Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng, công tác giáo dục, rèn luyện
đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa ngăn chặn được sự suy thoái về tư tưởng
chính trị và đạo đức, lối sống. Vì thế, Đảng ta đã lãnh đạo đẩy mạnh công
cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước, mở cửa, chủ động hội

nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta đã cung cấp cho thế hệ mới những kiến thức
mới, không những là kiến thức kinh tế, mà còn phải có đạo đức cách mạng,
bản lĩnh chính trị vững vàng để không chỉ thích nghi, mà còn làm chủ được
cơ chế thị trường, biết phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó.
Đại hội X của Đảng xác định quyết tâm chống tham nhũng và Bộ Chính trị đã
phát động, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tiến hành cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chỉ ra những yêu cầu về việc xây
18
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trong đó phải chú trọng “nâng cao đạo
đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân”.
Đảng ta đã nêu ra kế hoạch cụ thể và không chỉ học tập ở nghị quyết,
chủ trương của Đảng mà ngay cả trong sinh hoạt đảng thưởng kỳ của cá tổ
chức Đảng, trong cơ quan cũng như trong đoàn thể nhân dân. Đặc biệt chú
trọng tự phê bình và phê bình đối với đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng nhằm
ngăn ngừa và chống lại những tiêu cực về đạo đức. Phát huy và thực hành dân
chủ rộng rãi trong sinh hoạt Đảng, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt
cấp ủy, chi bộ. Thực hiện tốt việc phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên
chấp hành nhiệm vụ, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu trong công tác,
học tập và lối sống, giữ mối liên hệ với quần chúng nơi công tác với chi bộ và
nhân dân nơi cưu trú. Đảng đồng thời đã giải quyết nghiêm tổ chức, đảng viên
vi phạm kỉ luật Đảng để củng cố, chỉnh đốn các tổ chức. Từng bước đưa tinh
thần tự giác lên cao. Đó là từng bước thực hiện năm điều: nhân, nghĩa, trí,
dũng, liêm. Nhân ở đây là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí
đồng bào. Kiên quyết chống lại những người, những công việc có hại đến
Đảng, vì thế sẵn sàng chịu khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Nghĩa là ngay
thẳng, không có tư tâm, không làm việc xấu, không có việc gì phải giấu Đảng.
Trí thì đầu óc phải trong suốt, trong sạch, dễ hiểu lý luận, biết xem người, biết
xét việc. Dũng là dũng cảm, gan góc, thấy khuyết điểm phải tự sửa chữa
không sợ khó khăn trước mắt. Liêm là không tham địa vị, tiền tài. Tuy nhiên,
Đảng ta cũng thừa nhận: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong

đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao
cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội,
thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng,
lãng phí, tùytiện, vô nguyên tắc ” [7,tr. 22].
Về phía thanh niên thì nhìn chung, thanh niên nước ta hiện nay có lòng
yêu nước nồng nàn, luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha
anh, khẳng định niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo
của Đảng; có nhận thức và thái độ chính trị đúng đắn, kiên quyết chống lại
những biểu hiện sai trái, âm mưu “diễn biến hòa bình”, các hành vi gây tổn
19
hại đến sự phát triển đất nước của các thế lực phản động, thù địch; quan tâm
đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước; có ý chí vươn lên trong
học tập, lao động và công tác, mong muốn đất nước sớm thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, không thua kém các nước trên thế giới, được cống hiến nhiều
nhất cho công cuộc chấn hưng đất nước; sẵn sàng vì lợi ích dân tộc, bảo vệ
chủ quyền quốc gia, tình nguyện vì cộng đồng. Nhiều thanh niên có ý thức
chính trị tốt; tỷ lệ thanh niên phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam ngày càng tăng. Đa số thanh niên nước ta hiện nay có phẩm chất
tốt, tôn trọng các chuẩn mực đạo đức xã hội, giá trị văn hóa truyền thống dân
tộc, có ý thức công dân, chấp hành pháp luật, tích cực tham gia các phong
trào, hoạt động đoàn thể, xung kích, sáng tạo, tình nguyện vì cộng đồng; sống
có nghĩa tình, luôn biết quan tâm, giúp đỡ người khác, tinh thần tương thân
tương ái đã được khơi dậy, trở thành xu hướng chủ đạo lôi cuốn và thu hút
giới trẻ. Nhiều tấm gương thanh niên vượt qua khó khăn của bản thân, gia
đình để vươn lên thành những người hữu ích; không ít thanh niên dám đấu
tranh quyết liệt với các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội, tỏ thái độ lo lắng,
băn khoăn trước các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội, bất bình trước
những sai phạm của cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật.
Phần lớn thanh niên hiện nay có đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, nhu

cầu giải trí lành mạnh, lên án những hoạt động giải trí không lành mạnh,
không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Từ thực tế đó và để thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI và Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, đã
đặc biệt chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên. Phát huy vai
trò to lớn của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng là việc làm quan trọng và
mang tính cấp thiết. Giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên hiện nay là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mỗi gia đình và toàn xã hội với nội
dung sâu rộng, hình thức phong phú đa dạng Đảng ta đã thực hiện được
những mặt như: thường xuyên chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống
trong sạch, lành mạnh cho thanh niên; đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia
đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống
cho thanh niên; phát huy vai trò tự học tập, tự du dưỡng, rèn luyện đạo đức,
lối sống của thanh niên.
20
Các cấp bộ Đoàn đã có nhiều mô hình phong phú để giáo dục thanh
thiếu nhi như viết “Nhật ký làm theo lời Bác”; “Sổ vàng học tập và làm theo
lời Bác”, “Sổ tay tự rèn”, cuộc thi “Tôi yêu Tổ quốc tôi, tôi yêu đồng bào tôi”,
khẩu hiệu hành động “Mỗi ngày một việc tốt vì nhân dân” ; xây dựng các
tiêu chí về chuẩn mực đạo đức, lối sống cho các đối tượng đoàn viên thanh
niên gắn liền với chương trình rèn luyện đoàn viên và tuyên dương, biểu
dương các đoàn viên điển hình. Trong các kỳ Đại hội, Đảng ta đều nhấn mạnh
tới sự cần thiết và giá trị nhân văn sâu sắc của việc nâng cao đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên, đồng thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên. Rõ ràng là, người cán
bộ, đảng viên cần phải có đạo đức cách mạng, lối sống giản dị, lành mạnh. Có
đạo đức cách mạng sẽ giúp cho người cán bộ đảng viên có uy tín, có điều kiện
để hoàn thành nhiệm vụ và góp phần vào sự trưởng thành, lớn mạnh của Đảng
ta; mới “đem hết sức mình, toàn tâm toàn ý phụng sự Tổ quốc và dân tộc,
phục vụ nhân dân” [8,tr.331 - 332]. Về tổ chức đã đưa ra trong đội ngũ cán bộ
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể các cấp làm theo đúng tinh

thần Nghị quyết Đại hội IX chỉ rõ: “Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy, mỗi Chi bộ có kế hoạch
định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng
cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng cơ hội,
thực dụng” [8,tr.139].
Chúng ta đã tổ chức được nhiều lớp học cho các thế hệ về nội dung học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với những nội dung như:
-Thực hiện “trung với nước hiếu với dân”, mỗi cán bộ, đảng viên, học
sinh và sinh viên phải trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của đất
nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,dân chủ, xã hội công bằng, văn minh.
- Thực hiện đúng lời dạy: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nêu
cao phẩm chất con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
- Nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân
phục vụ.
21
- Tổ chức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần
phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn
kết, hữu nghị giữa các dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Thông qua các hoạt động đó nhằm nâng cao phẩm chất cách mạng của
các thế hệ hiện nay.
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
Trong thời gian gần đây, đã có nhiều báo động về tình trạng xuống dốc
đáng ngại trong xã hội Việt Nam. Nghị quyết đại hội X đã nhận định: “thoái
hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ…”. Nó
biểu hiện ở dạng chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, vụ lợi, thiếu lý tưởng. Tệ
tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra ở nhiều nghành nghề
lĩnh vực gây cho nhân dân nhiều bức súc, bệnh tham nhũng giữa những người
có chức có quyền khác với tham nhũng của những người bình thường, loại
tham nhũng này thường dùng uy quyền của mình để lấy của công làm của tư,

nhân danh tổ chức, nhân danh Nhà nước để thực hiện mục đính của mình,
cùng với đó là những ảnh hưởng của nó như vụ rút ruột cầu ở Lai Châu. Hiện
nay căn bệnh đang phát triển, kể cả tính chất và mức độ căn bệnh trầm trọng
hơn nhiều, nó lây lan, thâm nhập vào một bộ phận cán bộ trong các tổ chức.
Nói không đi đôi với việc làm. Tình trạng suy thoái đạo đức trong quan hệ gia
đình và đạo đức nghề nghiệp. Và việc giải quyết vấn đề này ngay thực tế đã
chứng minh thật khó để chữa trị căn bệnh này, trừ nhân dân, không biết từ lúc
nào tai mắt của quần chúng nhân dân đã trở thành những chứng cứ để kết tội
những người tham ô, tham nhũng. Vì thế Hội nghị lần thứ Tư, Ban chấp hành
Trung ương Khóa XI đã chỉ đạo: “Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin
của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng” [7,tr.26]
Một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan
tâm đến tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng,
22
xa rời truyền thống văn hóa dân tộc. Học vấn của một bộ phận thanh niên, nhất
là thanh niên nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số còn thấp; nhiều thanh niên
thiếu kiến thức và kĩ năng trong hội nhập quốc tế. Tính độc lập, chủ động sáng
tạo, năng lực thực hành sau đào tạo của thanh niên còn yếu, chưa đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong
thanh niên đang gia tăng và đang diễn biến ngày càng phức tạp. Tỷ lệ thanh niên
nhiễm HIV/AIDS còn cao. Học sinh rơi vào những tệ nạn xã hội, bạo lực học
đường; không kính trọng thầy cô, xem thường bạn bè và mọi người xung
quanh; không hiếu thảo với ông bà cha mẹ; thiếu tính nhân đạo; các em mê
game bỏ học hoặc tự tử vì game… Từ đó làm suy thoái những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy việc giáo dục đạo con người điều rất
cấp thiết để thúc đẩy sự hoàn thiện con người nói riêng và đẩy nhanh sự phát
triển của đất nước nói chung. Ngoài ra bên cạnh những bộ phận thanh niên

chăm chỉ học tập, rèn luyện đạo đức thì đạo đức, lối sống của một bộ phận
thanh thiếu niên còn lệch lạc, đề cao hưởng thụ, sống thực dụng, ích kỷ, đua
đòi, xa hoa lãng phí, sùng bái thần tượng thái quá, ít quan tâm đến cộng đồng
và những người xung quanh. Một bộ phận thanh thiếu niên thiếu ý thức rèn
luyện, không tích cực tham gia các hoạt động Đoàn, Hội, Đội, các phong trào
và hoạt động tập thể do nhà trường, địa phương tổ chức; lười học tập, lao
động, không dám đấu tranh với sai trái, tiêu cực, thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau
của người khác, ích kỷ, bất hiếu với cha mẹ, thiếu trách nhiệm với cộng đồng,
thiếu quan tâm đến tình hình đất nước; một số thanh thiếu niên mắc tệ nạn xã
hội, vi phạm pháp luật.
Nhìn vào thực trạng suy thoái tư tưởng chính trị trong cán bộ, tổ chức
hiện nay:
Một số cán bộ, tổ chức có những dao động về lý tưởng, mục tiêu và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là biểu hiện rõ nét nhất, tập trung nhất của
suy thoái tư tưởng chính trị. Từ dao động dẫn đến hoài nghi, không tin vào
Chủ nghĩa Mác-Lênin, không kiên định lập trường, quan điểm, làm xuất hiện
chủ nghĩa cơ hội. Không tích cực học tập, nghiên cứu lý luận. Không ít cán
bộ, đảng viên tự thỏa mãn, bằng lòng với trình độ đã có, những nhận thức đơn
giản, chung chung về Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
23
lối của Đảng. Học chủ yếu để lấy bằng để đủ điều kiện đề bạt, cất nhắc, nâng
ngạch…
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, do
sự bùng phát của lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất chấp đạo lý, dẫn đến
những tiêu cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ biến. Đó là tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ
nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ công chức diễn ra
nghiêm trọng. Thêm vào đó là những biểu hiện mục tiêu xa rời chủ nghĩa xã hội
chưa được khắc phục, sự chống phá của các thế lực phản động quốc tế nhằm mục
đích phá hoại. Dẫn đến đã có nhiều bộ phận cán bộ, sinh viên và nhân dân giảm

niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí thiến thủ, chạy theo
lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình
và xã hội, nghiện ngập, chạy điểm, mua bằng cấp…
Về phía các chương trình hoạt động Đoàn và quản lý thì Đoàn Thanh niên
chưa cụ thể hóa nội dung giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho
phù hợp với các đối tượng thanh niên; việc đổi mới phương thức giáo dục
chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tác động sâu sắc đến đông đảo đoàn viên,
thanh niên. Tỷ lệ tập hợp thanh niên ở một số nơi còn thấp, nhiều hoạt động
giáo dục chỉ đến với thanh niên tích cực, chưa đến với nhóm đối tượng thanh
niên đặc thù. Việc tổ chức các phong trào hành động cách mạng tuy diễn ra
sôi nổi, đều khắp nhưng có những nơi cách thức tổ chức yếu, còn mang tính
hình thức, thiếu tính hiệu quả nên nảy sinh những dư luận không tốt, gây tác
dụng ngược đối với công tác giáo dục của Đoàn; việc tổng kết và nhân rộng
các mô hình, cách làm hay còn hạn chế. Việc sử dụng các cơ quan báo chí,
xuất bản của Đoàn, các phương tiện truyền thông hiện đại vào công tác giáo
dục chưa phát huy tối đa hiệu quả; các ấn phẩm, tài liệu phục vụ công tác
tuyên truyền còn thiếu, chưa sinh động, hấp dẫn các thanh niên.
Một trong những nguyên nhân của sự biểu hiện yếu kém nêu trên là do
chúng ta chưa thật sự quan tâm đến giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ
trước những biến đổi to lớn của đất nước. Nội dung giáo dục đạo đức, lối
sống còn thiếu chiều sâu, chưa thiết thực. Hình thức giáo dục đạo đức, lối
24
sống còn sơ sài, chưa có sức hấp dẫn, lôi cuốn thanh niên. Sự kết hợp giữa
các cơ quan chức năng với nhà trường, gia đình, xã hội còn nhiều hạn chế.
Những hạn chế, yếu kém nói trên có cả nguyên nhân khách quan và
chủ quan. Về khách quan, trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế
thị trường, đặc biệt là khả năng kích thích lối sống thực dụng của cơ chế này,
nhưng có phải nguyên nhân thực sự là từ phát triển và hội nhập hay không thì
còn phải xem xét. Trước đây Người dã từng suy nghĩ về điều này, những tư
tưởng về đạo đức cách mạng của cán bộ, nhân dân không phải hoàn toàn nằm

ngoài sự tác động của nền kinh tế thị trường, nhưng điều cần lo lắng là những
căn bệnh đó đã tồn tại từ rất lâu bên trong xã hội ta. Sự tác động của đạo đức
lối sống tư sản, hưởng thụ phương Tây vào nước ta trong điều kiện toàn cầu
hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và bùng nổ mạng thông tin toàn cầu. Các thế lực
thù địch, phản động đã chủ động khuyến khích lối sống ích kỷ, hưởng thụ,
thực dụng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo và gia đình họ, coi đó là
một trong những biện pháp thực hiện “diễn biến hoà bình”. Về nguyên nhân
chủ quan, do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò nền tảng của đạo
đức trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường
đến đạo đức xã hội. Trên thực tế, chúng ta chưa coi trọng giáo dục đạo đức,
lối sống; thiếu sự tổ chức, phối hợp các ngành, các cấp. Một bộ phận cán bộ
lãnh đạo, đảng viên và gia đình chưa nêu gương về đạo đức, lối sống. Về mặt
gia đình: Gia đình trong xã hội chúng ta ngày nay có những "lổ hổng" rất
lớn, hầu như người nào sống biết người đó: cha có việc cha, mẹ có việc mẹ, ai
cũng phải vật lộn với cuộc sống, với đồng tiền. Và thay vì khuyên bảo con
cái thì chỉ là quở trách và la mắng. Từ đó, một số người con sinh ra có cách
sống đơn độc, nhút nhát, khó gần, số khác sẽ tụ tập với những kẻ gây rối để
quậy phá.
2.2. Một số đề suất nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện đạo đức
cách mạng
2.2.1. Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền tư tưởng “tận trung với
nước, tận hiếu với dân”, thực hiện đúng lời dạy: “Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư”, đồng thời chống tham ô, lãng phí
25
Cuộc đời Hồ Chí Minh là tấm gương “Tận trung với nước, tận hiếu với
dân”, không một phút ngơi nghỉ, suốt đời suy nghĩ, lo lắng, chăm lo cho
nước, cho dân. Việc đẩy mạnh công tác giáo dục và tuyên truyền tư tưởng
“tận trung với nước, tận hiếu với dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay sẽ khuyến khích mỗi cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành
với lợi ích của đất nước, của nhân dân, đặt độc lập dân tộc, chủ quyền và lợi

ích quốc gia lên trên hết và trước hết.
Ý thức hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của mỗi
người phải được phát hiện, cổ vũ, động viên trong từng hành động nhỏ nhất,
khuyến khích mỗi người đem hết tài năng, sức lực cống hiến cho độc lập, tự
do của Tổ quốc, cho sự phát triển của đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa.
Để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là người công
bộc tận tụy, trung thành của nhân dân thì mỗi cán bộ, công chức phải hoàn
thành nhiệm vụ, chức trách của mình theo đúng Luật cán bộ công chức. Biểu
hiện cụ thể là: Làm tốt những công việc hàng ngày, nhất là những việc liên
quan trực tiếp tới đời sống của người dân.
Đồng thời với việc nâng cao ý thực trách nhiệm của người công bộc tận
tụy, trung thành của nhân dân, công tác giáo dục, tuyên truyền cần kiên quyết
đấu tranh, phê phán những quan niệm và biểu hiện sai trái. Đó là sự lầm lẫn
giữa trọng trách được tổ chức giao phó với quyền lực cá nhân. Sự lẫn lộn đó
dẫn tới cơn khát quyền lực, chạy quyền, mua quyền, bán quyền, lộng quyền,
cửa quyền, tham quyền cố vị. Khi có quyền mà thiếu lương tâm sẽ trở nên hủ
bại, biến thành sâu mọt của dân, đục khoét dân, “dĩ công vi tư”. Sinh thời Bác
Hồ đã cảnh báo: “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng
phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân.
Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy
thế với dân” [11, tr 56-58].
Hồ Chí Minh chuẩn bị cái “gốc” cho mỗi chúng ta. Cái gốc đó là đạo
đức cách mạng, là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người đã chỉ ra
rằng chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân của những căn bệnh tham ô, hủ hóa,

×