TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA ĐÀO TẠO TẠI CHỨC VÀ BỒI DƯỠNG
___________
Nhóm 1
( Nguyễn Văn A)
CÔNG TÁC QUẢN LÝ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC GIANG TRONG GIAI ĐOẠN 2012-2014
KHÓA LUẬN TỐT NGHIÊP
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ….
BÀI TẬP NHÓM
HỌC PHẬN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
HÀ NỘI 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA ĐÀO TẠO TẠI CHỨC VÀ BỒI DƯỠNG
___________
CÔNG TÁC QUẢN LÝ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC GIANG TRONG GIAI ĐOẠN 2012-2014
BÀI TẬP NHÓM
HỌC PHẬN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Thị Hiền
Nhóm thực hiện : 1
Lớp :
HÀ NỘI 2014
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 1
1. Trịnh Văn Khôi
2. Nguyễn Thị Hằng (04/11/1990)
3. Trần Sỹ Hải
4. Phạm Thị Giang Thu
5. Nguyễn Bích Ngọc
6. Đỗ Hồng Hạnh
7. Hà Ngọc Anh
8. Phạm Thị Thương
9. Lương Thị Phấn
10. Đặng Văn Chế
11. Nguyễn Thị Mai
12. Lê Thu Hằng
13. Phạm Thị Sim
14. Nguyễn Thị Hương
15. Nguyễn Văn Hà
16. Nguyễn Mai Linh
17. Bùi Thị Mai Hương
18. Nguyễn Phương Hải
19. Nguyễn Thị Huyền
20. Vũ Thị Hoa
21. Trần Thị Dung
22. Tạ Thị Hồng./.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan………………………
Ký tên
LỜI CẢM ƠN
BẢNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Tên cụm từ viết tắt
1 UBND Uỷ ban nhân dân
2 HĐND Hội đồng nhân dân
3 ĐTBD Đào tạo – bồi dưỡng
4 CBCCVC Cán bộ, Công chức, Viên chức
5 ĐH Đại học
6 CĐ Cao đẳng
7 TC Trung cấp
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN 4
Tôi xin cam đoan……………………… 4
Ký tên 4
LỜI CẢM ƠN 5
BẢNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT 6
MỤC LỤC 6
Trang
6
PHỤ LỤC 8
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH 5
1.1.Khái niệm hộ tịch 5
1.1.1.Khía cạnh ngôn ngữ 5
1.1.2.Về khía cạnh pháp lý 5
1.1.3.Phân biệt giữa “quản lý hộ tịch” và “quản lý hộ khẩu” 6
1.2. Vị trí, vai trò của quản lý hộ tịch 8
Chương 2 11
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HỘ TỊCH Ở MỘT SỐ XÃ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC GIANG 11
2.1. Lịch sử quản lý dân cư của nước ta qua các thời kỳ 11
2.1.1. Chế độ quản lý đinh, quản lý hộ tịch trong thời kỳ phong kiến 11
2.1.2. Quản lý hộ tịch thời kỳ Pháp thuộc và ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 14
2.1.3. Chế độ quản lý hộ tịch của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam 16
2.2. Thực trạng quản lý hộ tịch ở một số xã trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2012-
2014 18
2.2.1. Giới thiệu về tỉnh Bắc Giang 18
2.2.2. Thực trạng quản lý hộ tịch ở một số xã trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay 20
2.2.3. Phương thức quản lý hộ tịch 20
2.3. Đánh giá hiệu quả quản lý và đăng ký hộ tịch ở một số xã trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
26
2.3.1. Ưu điểm 26
2.3.2. Hạn chế 28
Chương 3 31
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG 31
3.1. Những yêu cầu đối với hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch trong giai đoạn mới .31
3.1.1. Yêu cầu về tính kịp thời 31
3.1.2. Yêu cầu về tính đầy đủ 32
3.1.3. Yêu cầu về tính chính xác, khách quan. 32
3.1.4. Yêu cầu về tính chủ động của cơ quan quản lý và đăng kí hộ tịch 32
3.1.5. Yêu cầu về tính pháp chế 33
3.1.6. Yêu cầu về cải cách hành chính 33
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hộ tịch ở một số xã trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang. 34
3.2.1. Xây dựng luật hộ tịch - cơ sở pháp lý vững chắc, ổn định, tạo tiền đề đổi mới cơ bản,
toàn diện công tác quản lý hộ tịch 34
3.2.2. Kiện toàn, nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp - hộ tịch chuyên
trách, phát huy vai trò và nâng cao năng lực quản lý hộ tịch ở cấp huyện 35
3.2.3. Phát huy vai trò, nâng cao năng lực quản lý hộ tịch của Uỷ ban nhân dân cấp huyện
và Phòng tư pháp 37
38
3.3. Cải tiến phương thức quản lý hộ tịch, xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin hộ tịch thống
nhất trên toàn quốc 39
3.3.1 . Nghiên cứu và tính toán bước đi phù hợp để thực hiện việc cấp sổ hộ tịch gia đình
thay thế cho việc sử dụng giấy tờ hộ tịch rời như hiện nay 39
KẾT LUẬN 43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam quản lý hộ tịch được coi là khâu trung tâm của toàn bộ hoạt
động quản lý dân cư. Hiện nay, vấn đề đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về hộ tịch đã và đang đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với sự phát
triển của nền hành chính quốc gia. Bởi chế độ quản lý hộ tịch không chỉ phản
ánh trình độ phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi quốc gia trong từng
giai đoạn lịch sử mà còn phản ánh mức độ nhất định về đặc thù truyền thống, tập
quán trong tổ chức đời sống xã hội về quản lý dân cư ở mỗi quốc gia, dân tộc
đó.
Thực tiễn quản lý hộ tịch nhà nước ta gần 60 năm qua cho thấy những yếu
tố trì trệ, bất cập của hệ thống pháp luật về quản lý hộ tịch. So sánh với các quốc
gia trong khu vực, chúng ta không thể khoanh tay đứng nhìn trước không ít các
bất cập của thực tiễn, cả về nhận thức và hành động, cả về pháp luật và năng lực
quản lý.
Ở nước ta, mặc dù hoạt động quản lý hộ tịch có nhiều phát triển trong hơn
nửa thế kỷ và đã có sự vận động tích cực trong những năm gần đây nhưng việc
quản lý đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin hộ tịch vẫn là mục tiêu đầy khó
khăn đặt ra đối với các cơ quan quản lý.
Do đó, để giải quyết bài toán đổi mới quản lý hộ tịch thì vấn đề quan
trọng hàng đầu là tiến tới xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh
một cách thống nhất, đồng bộ và đầy đủ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công
tác quản lý hộ tịch đạt hiệu quả cao trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.
Là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, giáp với nhiều
tỉnh, thành phố, Bắc Giang đang ngày càng phát triển và khẳng định được vị thế
của mình. Với dân số 1.563.468 (khảo sát tháng 4/2009) người gồm 27 dân tộc
anh em: Kinh, Tày, Nùng, Hoa, Cao Lan, Sán Chỉ, Dao…; với đơn vị hành
chính bao gồm: Thành phố Bắc Giang và các huyện: Hiệp Hoà, Yên Dũng, Yên
Thế, Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, Tân Yên, Việt Yên, Lạng Giang; Bắc
Giang có thể coi là địa bàn gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý hộ tịch.
1
Khắc phục khó khăn, phát huy thế mạnh của vùng, trong những năm gần đây,
công tác quản lý hộ tịch ở một số xã trên địa bàn tỉnh về cơ bản đã đạt được
những thành quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai nhiệm vụ
còn bộc lộ không ít những yếu kém, hạn chế cần khắc phục.
Nhận thấy sự cần thiết của việc đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quản
lý hộ tịch trên địa bàn xã, cũng như sự hạn chế về số lượng các đề tài nghiên cứu
vấn đề này và những vấn đề liên quan, nhóm sinh viên lớp Quản trị văn phòng
K1308A quyết định chọn nội dung quản lý hộ tịch làm đề tài nghiên cứu với tên
gọi: “Công tác quản lý hộ tịch ở một số xã trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai
đoạn 2012-2014”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Công tác quản lý hộ tịch ở một số xã trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: 2012 - 2014
- Không gian nghiên cứu: Khảo sát công tác quản lý hộ tịch tại một số xã
trên địa bàn huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về công tác quản lý hộ tịch.
- Tìm hiểu thực trạng công tác quản lý hộ tịch ở một số xã trên địa bàn
huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang trong thời gian qua, phân tích nguyên nhân của
những ưu điểm cũng như những hạn chế của công tác.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hộ
tịch ở Bắc Giang nói riêng và trên địa bàn các tỉnh, thành phố của cả nước nói
chung.
4. Lịch sử nghiên cứu
Có thể khẳng định rằng quản lý hộ tịch là hoạt động khó khăn và phức tạp
đòi hỏi nhà quản lý phải có tầm hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực chuyên môn và
cần thiết hơn đó là sự thông thạo về đặc điểm dân cư, tình hình phát triển nơi địa
phương cần quản lý.
2
Nói đến quản lý hộ tịch, đã có khá nhiều đề tài, công trình nghiên cứu
khoa học đề cập, vấn đề hộ tịch không chỉ thu hút các nhà lãnh đạo mà còn là
vấn đề quan tâm của cả những nhà khoa học và các nhà quản lý. Một số công
trình khoa học tiêu biểu về quản lý hộ tịch có thể nêu như sau:
- Cuốn sách “Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch” của tác giả Phạm
Trọng Cường - H: Tư pháp, 2007 đã đưa ra những cứ liệu cần thiết để khẳng
định sự phát triển của công tác quản lý hộ tịch có tiền đề và là sự tiếp nối từ
công tác quản lý đinh trong lịch sử…
- “Về quản lý hộ tịch”: Sách tham khảo / Phạm Trọng Cường. - H: Chính
trị Quốc gia, 2004.
- “Hướng dẫn đăng ký và quản lý hộ tịch” / B.soạn: Nguyễn Quốc Cường,
Lương Thị Lanh, Trần Thị Thu Hằng - H: Tư pháp, 2006, nêu lên các thủ tục
và các bước cần thiết khi đăng ký về hộ tịch như thủ tục làm giấy khai sinh, thủ
tục khai tử, hay như thủ tục nhận nuôi con nuôi…trong công tác quản lý hộ tịch.
- “Quy định mới về đăng ký và quản lý hộ tịch” - H: Chính trị Quốc gia,
2006.
- “151 Câu Trả Lời Về Hộ Tịch, Hộ Khẩu, Chứng Minh Nhân Dân Và
Công Chứng, Chứng Thực” / L.G: Trần Huyền Nga. – H: NXB Thành phố Hồ
Chí Minh, 2005, được biên soạn nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật về
đăng ký hộ tịch, đăng ký và quản lý hộ khẩu, về giấy Chứng minh nhân dân và
công tác công chứng, chứng thực. “151 câu trả lời về hộ tịch, hộ khẩu, chứng
minh nhân dân và công chứng, chứng thực”.
- “Hướng dẫn nghiệp vụ đăng ký và quản lý hộ tịch” - H: NXB Tư Pháp,
2006.
- “Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch” - H: NXB Tư Pháp, 2007.
- Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về “Đăng ký và quản lý hộ tịch
Văn bản pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch”. - H: Chính trị Quốc gia, 2008.
Là một tỉnh đầy tiềm năng ở miền núi trung du phía Bắc, công tác quản lý
hộ tịch ở huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đang ngày càng phát triển theo hướng
hiện đại và mang lại hiệu quả tích cực. Thông qua báo cáo của các cơ quan quản
3
lý công tác này chúng ta đã có cái nhìn tổng quát hơn, toàn diện hơn về quản lý
hộ tịch trên toàn tỉnh nói chung và trên các địa bàn xã nói riêng. Đạt được hiệu
quả cao ở cơ sở sẽ là tiền đề quan trọng cho hoạt động quản lý dân cư mang tầm
quy mô, hiện đại của toàn tỉnh.
Những tài liệu trên là những gợi ý quý báu có giá trị tham khảo, kế thừa
giúp nhóm chúng tôi tiến hành nghiên cứu Đề tài “Công tác quản lý hộ tịch ở
một số xã trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2012-2014”.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin trực tiếp: quan sát;
- Phương pháp thu thập thông tin gián tiếp: phân tích và tổng hợp số liệu;
+ Nghiên cứu tài liệu, tư liệu tham khảo;
+ Nguồn tin từ mạng Internet;
+ Thông tin từ báo cáo định kỳ của Ủy ban nhân dân các xã trên địa bàn
huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang…
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài nghiên cứu góp phần chuẩn hóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong
công tác quản lý hộ tịch ở một số xã trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Kết quả đạt được của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho cán bộ làm công tác quản lý hộ tịch ở xã.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết thúc và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
chia làm 03 chương:
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH
1.1. Khái niệm hộ tịch
1.1.1. Khía cạnh ngôn ngữ
Hộ tịch là một từ ngoại lai được du nhập vào ngôn ngữ Tiếng Việt nhưng
rất khó xác định thời điểm xuất hiện. Theo Đại Nam Quốc âm tự vị”, cuốn từ
điển của tác giả Huỳnh Tịnh Paulus Của được biên soạn vào năm 1895 với
phương pháp “tham dụng chữ Nho và lấy 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ”
thì trong bộ chữ “Hộ” chưa có từ “hộ tịch”. Xét từ góc độ ngôn ngữ học, “hộ
tịch” là một từ ghép gốc Hán chính phụ, được ghép bởi hai thành tố chính. Xét
về mặt từ loại thì đây là một danh từ thuộc nhóm danh từ chỉ khái niệm trừu
tượng.
Nếu tìm hiểu riêng từng thành tố thì có thể thấy các từ điển Tiếng Việt hiện nay
khá thống nhất trong cách hiểu về từ đơn này. Theo đó từ “hộ”-khi sử dụng là
danh từ có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trong đó có một nghĩa trực tiếp là “dân
cư” hoặc “nhà ở”, hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý dân số, gồm những người
cùng ăn ở với nhau”. Tương tự từ “tịch” có nghĩa là “sổ sách” hoặc là “sổ sách
đăng ký quan hệ lệ thuộc”. Tuy nhiên, việc tổ hợp hai từ đơn này thành danh từ
“hộ tịch” lại là một trường hợp rất đặc biệt về mặt ngôn ngữ và được sử dụng
với thuộc tính kết hợp hạn chế (hạn chế về việc sử dụng và khả năng tổ hợp của
từ ngữ). Chính do tính chất đặc biệt ấy nên khảo cứu qua các từ điển Tiếng Việt
thì thấy có nhiều cách giải nghĩa từ “hộ tịch” rất khác nhau.
Như vậy nghĩa của từ “hộ tịch” xét về góc độ ngôn ngữ còn tồn tại nhiều
cách hiểu khác nhau, thậm chí có cuốn từ điển giải nghĩa còn thể hiện sự nhầm
lẫn cơ bản giữa hai khái niệm “hộ tịch” và “hộ khẩu”. Điều này phản ánh một
thực tế là sự nhầm lẫn giữa hai khái niệm này trong nhận thức xã hội là khá phổ
biến.
1.1.2. Về khía cạnh pháp lý
Xét từ khía cạnh là một khái niệm pháp lý, khái niệm “hộ tịch” cũng là
một trường hợp đặc biệt trong hệ thống khái niệm pháp lý tiếng Việt. Bản thân
5
khái niệm này hoàn toàn không dễ định nghĩa, điều đó cũng có nghĩa là việc sử
dụng nó không thuận tiện theo nguyên tắc sử dụng ngôn ngữ khi xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật. Trên thực tế, đã từng có những cuộc thảo luận trong
giới chuyên môn về việc thay thế khái niệm này bằng một khái niệm khác thông
dụng hơn, dễ hiểu hơn. Mặc dù vậy, do khái niệm “hộ tịch” có chứa đựng yếu tố
truyền thống, lịch sử và đã là khái niệm có tính chất phổ thông, ăn sâu trong
nhận thức nhân dân nên giải pháp đi tìm khái niệm Việt hóa thay thế không được
lựa chọn, thay vào đó các nhà xây dựng pháp luật đã sử dụng khái niệm này với
tư cách là một thuật ngữ chuyên môn và định nghĩa trong văn bản. Tuy nhiên chỉ
có thể xây dựng một định nghĩa mới về “hộ tịch” và định nghĩa này chỉ được
chấp nhận khi nó tiếp thu, phản ánh được những khía cạnh truyền thống, đồng
thời cũng tiệm cận với những quan điểm xu hướng của khoa học pháp lý hiện
đại.
1.1.3. Phân biệt giữa “quản lý hộ tịch” và “quản lý hộ khẩu”
Việc làm rõ các dấu hiệu phân biệt giữa quản lý hộ tịch và quản lý hộ khẩu
là rất cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Thực tế cho thấy, hiện nay sự nhầm lẫn
giữa khái niệm “hộ tịch” và “hộ khẩu”, cũng như sự nhầm lẫn về hoạt động quản
lý hộ tịch và hoạt động quản lý hộ khẩu trong nhận thức xã hội còn khá phổ
biến.
Ví dụ: trong đời sống hàng ngày, khi phải giải quyết các việc về hộ tịch, người
dân thường hay gọi cán bộ tư pháp có nhiệm vụ giải quyết là “Công an hộ
tịch”.
Điều này cho thấy căn nguyên từ chính mô hình quản lý hộ tịch, hộ khẩu
của nước ta trong suốt một thời gian dài trước năm 1987, khi cả hoạt động quản
lý hộ tịch và hộ khẩu đều do ngành Nội vụ (nay là ngành Công an) thực hiện.
Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 51/CP ngày 10.5.1997 của Chính
phủ về quản lý hộ khẩu thì “Đăng ký và quản lý hộ khẩu là biện pháp hành
chính của Nhà nước nhằm xác định việc cư trú của công dân”. Như vậy hoạt
động quản lý hộ tịch và quản lý hộ khẩu đều nằm trong phạm trù quản lý dân cư.
Tuy nhiên hai khái niệm này được phân biệt ở hai điểm cơ bản sau:
6
Về đối tượng quản lý, đối tượng quản lý hộ khẩu chỉ là đặc điểm về nơi cư trú
của cá nhân, trong khi đối tượng của quản lý hộ tịch bao gồm tổng thể rất nhiều
đặc điểm nhân thân của cá nhân từ khi sỉnh ra đến khi chết: ngày, tháng, năm
sinh, dân tộc, quốc tịch, nơi sinh, quê quán, quan hệ gia đình, quan hệ hôn
nhân…Xét về tính chất có thể thấy quan hệ hộ tịch quan tâm tới các đặc điểm
nhân thân có tính bền vững của cá nhân, những đặc điểm này có thể được thay
đổi trong những trường hợp đặc biệt, theo một thủ tục pháp lý chặt chẽ. Trong
khi đó, đặc điểm về nơi cư trú của cá nhân – đối tượng quản lý của hộ khẩu - là
đặc điểm cá nhân có tính chất “động” dễ bị thay đổi.
Xét về phương diện bảo vệ quyền nhân thân thì quản lý hộ khẩu chỉ là
biện pháp bảo vệ quyền tự do cư trú hợp pháp của cá nhân, còn quản lý hộ tịch
là phương tiện để mỗi cá nhân thực hiện tổng thể rất nhiều quyền nhân thân cơ
bản của mình.
Đơn vị “hộ” được dùng làm đơn vị quản lý dân cư của cả quản lý hộ tịch
và quản lý hộ khẩu, nhưng trong quản lý hộ tịch mối quan hệ giữa các thành
viên trong hộ chỉ có thể là mối quan hệ gia đình hình thành trên cơ sở hôn nhân,
huyết thống hoặc nuôi dưỡng; còn trong quản lý hộ khẩu không nhất thiết các
thành viên trong một đơn vị hộ khẩu phải có quan hệ gia đình với nhau mà chỉ
cần ở chung một nhà cũng có thể đăng ký theo một đơn vị hộ khẩu.
Ví dụ: Điều 5 Nghị định 51/CP về quản lý hộ khẩu quy định: “Những
người đang làm việc trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội
sống độc thân tại nhà ở tập thể của cơ quan thì đăng ký nhân khẩu tập thể”.
Hoặc một đơn vị hộ khẩu tập thể quân nhân hoặc hộ khẩu tập thể công an
nhân dân bao gồm những người cùng công tác trong một đơn vị.
Theo pháp luật hiện hành của người Việt Nam thì nhiệm vụ quản lý hộ tịch
là hoạt động chuyên môn của ngành Tư pháp, còn quản lý hộ khẩu là hoạt động
chuyên môn của ngành Công an. Điểm phân biệt này chỉ đúng với pháp luật
thực định của Việt Nam hiện nay, còn trước năm 1987 ngành Nội vụ (Công an
hiện nay) thống nhất quản lý hộ tịch và quản lý hộ khẩu. Mô hình này vẫn được
7
duy trì trong hoạt động quản lý dân cư của một số nước trong khu vực như
Trung Quốc, Đài Loan.
Mặc dù có sự phân biệt khá rõ ràng như trên, nhưng trong thực tế cuộc sống
của mỗi cá nhân, các vấn đề về hộ tịch và hộ khẩu có mối quan hệ hết sức mật
thiết. Trong đó hoạt động đăng ký hộ tịch luôn là cơ sở, căn cứ làm phát sinh
hoạt động đăng ký hộ khẩu. Có thể xem xét một số vấn đề cụ thể sau đây:
Ví dụ 1: một đứa trẻ chỉ có thể được đăng ký tên vào sổ hộ khẩu gia đình sau
khi đã được cha mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh;
Ví dụ 2: sau khi đã kết hôn, người vợ muốn chuyển hộ khẩu về nơi cư trú của
chồng thì một trong những giấy tờ cần có làm căn cứ thực hiện việc chuyển hộ
khẩu là giấy chứng nhận kết hôn;
Ngược lại, trong thủ tục đăng ký hộ tịch (khai sinh, khai tử, kết hôn, nuôi
con nuôi…) các giấy tờ về hộ khẩu (Sổ hộ khẩu hoặc Giấy chứng nhận tạm trú
có thời hạn) luôn là loại giấy tờ quan trọng cần có trong hồ sơ đăng ký hộ tịch.
Vai trò quan trọng của giấy tờ hộ khẩu trong hoạt động đăng ký hộ tịch thể hiện
ở chỗ nó là căn cứ để xác định chính quyền có thẩm quyền đăng ký hộ tịch theo
quy định của pháp luật.
1.2. Vị trí, vai trò của quản lý hộ tịch.
Trong xã hội hiện đại, khi mà khái niệm quyền con người được nhận thức như
một giá trị chung của nhân loại thì cùng với nó, hầu như tất cả các quốc gia đều
nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc quản lý hộ tịch. Nếu như hoạt
động quản lý dân cư được coi là nội dung quan trọng hàng đầu trong tổng thể
quản lý xã hội thì quản lý hộ tịch, với các lợi ích, giá trị tiềm tàng của nó , được
coi là mắt khâu nằm ở vị trí trung tâm của hoạt động quản lý dân cư.
Về mặt lý luận, hoạt động quản lý hộ tịch là lĩnh vực thể hiện sâu sắc chức
năng xã hội của Nhà nước trên ba phương diện cơ bản sau:
Thứ nhất, quản lý hộ tịch là cơ sở để Nhà nước hoạch định chính sách phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng,…và tổ chức thực hiện có
hiệu quả các chính sách đó. Một hệ thống quản lý dữ liệu hộ tịch đầy đủ, chính
xác, được cập nhật kịp thời, thường xuyên sẽ là nguồn tài sản thông tin hết sức
8
quý giá luôn sẵn sàng hỗ trợ đắc lực cho việc hoạch định các chính sách xã hội
một cách chính xác, có tính khả thi, tiết kiệm chi phí xã hội.
Ví dụ: trên địa bàn một đơn vị cấp xã, khi cần triển khai các chính sách cộng
đồng liên quan đến dân cư: bảo vệ sức khỏe nhân dân, chăm sóc y tế đối với bà
mẹ và trẻ em, phổ cập giáo dục, hôn nhân và gia đình… chính quyền thường
căn cứ vào sổ hộ tịch đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn…để xác định đối tượng
và triển khai các biện pháp phù hợp với đặc điểm dân cư trong xã. Tuy nhiên
kết quả tại các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa đạt được kết quả thấp hơn. Một
nguyên nhân dẫn đến vấn đề này là do từ chính hoạt động quản lý hộ tịch bị
buông lỏng, hệ thống sổ hộ khẩu khai sinh, khai tử kết hôn không phản ánh
chính xác tình hình dân cư; do đó, việc thực hiện các chính sách xã hội gặp rất
nhiều khó khăn, hiệu quả thấp.
Thứ hai, hoạt động quản lý hộ tịch và đăng ký hộ tịch thể hiện tập trung nhất,
sinh động nhất sự tôn trọng của Nhà nước đối với việc thực hiện một số quyền
nhân thân cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong hiến pháp năm 1992 và
Bộ luật Dân sự, ví dụ quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên, quyền xác
định dân tộc, quyền đối với quốc tịch, quyền kết hôn, quyền được nuôi con nuôi
và được nhận làm con nuôi,…Ở phương diện này, đăng ký hộ tịch chính là
phương tiện để người dân thực hiện, hưởng thụ các quyền nhân thân đó. Các dữ
liệu về căn cước của mỗi cá nhân thể hiện trên chứng thư hộ tịch (giấy khai sinh,
giấy chứng nhận kết hôn…) là sự khẳng định có giá trị pháp lý về đặc điểm nhân
thân của mỗi người, mà qua đó, các cơ quan, tổ chức cá nhân khác có thể đánh
giá người đó có khả năng, điều kiện để tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất
định hay không.
Thứ ba, quản lý hộ tịch có vai trò to lớn đối với việc bảo đảm trật tự xã hội. Hệ
thống sổ hộ tịch có thể giúp việc truy nguyên nguồn gốc của cá nhân một cách
dễ dàng. Các chứng thư hộ tịch do người có thẩm quyền lập theo thủ tục chặt
chẽ có giá trị là sự khẳng định chính thức của Nhà nước về vị trí của một cá
nhân trong gia đình và xã hội.
9
Trong lĩnh vực hoạt động Tư pháp, khi cần đánh giá năng lực chủ thể của
một cá nhân, các cơ quan tiến hành tố tụng luôn cần đến giấy khai sinh của cá
nhân đó. Giấy khai sinh chứa đựng những dữ liệu gốc về nhân thân của cá nhân
đó như ngày tháng năm sinh, nơi sinh, dân tộc, quốc tịch, họ tên cha, mẹ…do
đó, khi được sử dụng với tính cách là chứng cứ, các thông tin thể hiện trên giấy
khai sinh có thể giúp cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá nhiều vấn đề trong các
vụ án hình sự, dân sự, lao động,…
Bởi những ý nghĩa quan trọng như vậy, nên trong sự phát triển của mỗi quốc
gia, vấn đề xây dựng hệ thống quản lý hộ tịch và khai thác hiệu quả của nó phục
vụ cho công tác quản lý nhà nước luôn được quan tâm.
10
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HỘ TỊCH Ở MỘT SỐ XÃ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC GIANG
2.1. Lịch sử quản lý dân cư của nước ta qua các thời kỳ
2.1.1. Chế độ quản lý đinh, quản lý hộ tịch trong thời kỳ phong kiến
Ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến, các gia đình chủ yếu điều hành theo
chế độ gia trưởng, do đó sự tổ chức hộ tịch là không cần thiết. Tuy nhiên, việc
quản lý dân cư của Nhà nước trung ương trong thời kỳ phong kiến chỉ thuần túy
là hoạt động quản lý đinh và sử dụng việc ghi gia phả. Trải qua các triều đại
phong kiến, ta thấy việc quản lý dân cư có sự khác nhau.
Năm 939, sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng Vương lập nên triều
đại nhà Ngô, khép lại hơn 1000 năm Bắc thuộc và mở ra thời kỳ độc lập tự chủ
của dân tộc. Triều đại nhà Ngô chỉ tồn tại vẻn vẹn có 15 năm với bối cảnh lịch
sử đầy rối ren, do đó trong thời kỳ này bộ máy chính quyền và quản lý nhà nước
không được chăm lo.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân và lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà
Đinh, hình thành lên bộ máy quân chủ trung ương tập quyền tương đối vững
chắc. Trong bối cảnh đấy, dưới triều Ngô, Đinh và Tiền Lê chưa có quy định về
quản lý đinh.
Bắt đầu từ triều đại nhà Lý (1009-1225), khi nhà nước Đại Việt được củng cố
và phát triển ổn định thì việc kiểm soát số đinh rất được coi trọng, nhằm phục vụ
cho hai mục đích: củng cố sức mạnh quân sự chống giặc ngoại xâm và thu thuế.
Tuy nhiên, việc quản lý đinh dưới triều vua Lý còn rất đơn giản. Dân đinh nào
đến 18 tuổi thì gọi là hoàng nam, biên vào sổ bìa vàng; đến 20 tuổi thì gọi là đại
nam. Đến đời Lý Nhân Tông, năm Thái Ninh thứ 8 thực hiện việc kiểm soát lại
số hoàng nam, chia làm 3 bậc : đại hoàng nam, hoàng nam và tiểu hoàng nam.
Sau khi vương triều nhà Lý khép lại, Trần Thái Tông - vị vua mở đầu của nhà
Trần đã đưa việc quản lý đinh đi vào quy củ, bắt đầu từ việc duyệt định lại số
dân đinh của phủ Thanh Hóa qua trướng tịch (sổ hộ khẩu) vào năm 1228. Noi
theo lệ cũ của nhà Lý, nhà Trần vẫn tiếp tục duy trì việc các quan xã phải khai
11
báo nhân khẩu trong xã mỗi năm một lần vào đầu xuân. Trong những năm đầu
thời Trần, việc quản lý Đinh là các nội dung kê khai trong trướng tịch đã phức
tạp hơn hẳn nhà Lý với các yêu cầu sau:
Phân loại cư dân theo địa vị xã hội;
Phân loại theo độ tuổi, sức khỏe: hòang nam, long lão (người già yếu), bất cụ
(người tàn tật);
Phân loại theo tính chất cư trú: người bản địa, dân ngụ cư (phụ tịch), dân
phiêu tán từ nơi khác đến (xiêu dạt).
Trên nền tảng chế độ quản lý đinh dưới triều Trần Thái Tông, các triều Trần
Nhân Tông, Trần Minh Tông, Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông tiếp tục củng cố
việc tra xét nhân khẩu.
Tháng 2-1400, sau khi đoạt ngôi của nhà Trần bằng việc phế Trần Thiếu Đế
và đổi sang họ Hồ, Hồ Quý Ly lập nên nhà Hồ, ông ở ngôi vua một năm thì
nhường ngôi cho con trai là Hồ Hán Thương để làm Thái Thượng Hoàng.
Để có trăm vạn quân chống giặc phương Bắc, Hồ Quý Ly đã tổ chức làm gộp
hộ tịch trong cả nước, nhưng không theo phép cũ mà mở rộng việc biên chép tất
cả những người từ 2 tuổi trở lên, đồng thời cho yết thị khắp nơi buộc dân ngụ cư
hoặc dân xiêu tán ở các nơi khác phải về nguyên quán, người nào ẩn lậu thì bị
phạt. Kết quả của việc áp dụng kế sách trên là sau khi sổ hộ tịch làm xong, kiểm
điểm số nhân khẩu từ 15 đến 60 tuổi được đăng tịch tăng lên gấp bội, từ đó, số
quân thêm ra được nhiều.
Năm 1428, sau chiến thắng giặc Minh, Lê Lợi hết sức quan tâm tới việc chấn
chỉnh hệ thống hành chính cơ sở. Tháng 11.1428, Lê Thái Tổ xuống chỉ truyền
cho các phủ, huyện, trấn, lộ làm sổ hộ tịch, hạn đến tháng 12 năm sau phải nộp
đầy đủ. Khi đến kỳ làm sổ, các quan phủ, huyện đòi họp các xã quan đem sổ hộ
khẩu của xã mình lên kinh đô để đối chiếu. Dưới triều Lê Thánh Tông, việc
quản lý đinh có những bước phát triển về cả yếu tố kỹ thuật và việc tổ chức thực
hiện.
Đến năm 1428, việc khai hộ tịch lại bổ sung thêm yêu cầu các xã trưởng phải
ghi chú rõ phẩm hàm cao thấp của các quan viên, tư cấp nhiều ít.
12
Việc kiểm soát của nhà nước trung ương, đối với việc lập hộ tịch trong thời kỳ
này rất được chặt chẽ, quy củ. Vào dịp làm sổ hộ tịch nhà vua sai các quan phụ
trách đi các xã, mỗi nơi gồm một quan văn và một quan võ, một hoạn quan.
Những người mang mệnh vua ban khi đến các nơi, được các xã tùy theo các cấp
hạng lớn, nhỏ mà chia bổ số tiền gạo cung đốn cho các quan lại tra xét hộ tịch
trong thời gian làm việc tại địa phương đó. Đời vua Lê Thần Tông lên ngôi lần
thứ 2 (1649-1662), năm 1658 định ra phép duyệt dân tuyển binh. Đây là thời kỳ
diễn ra cuộc giao tranh giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn.
Sau khi việc tuyển duyệt được thực hiện ba năm, năm 1660 vua Lê Thần Tông
lại xuống chiếu làm hộ tịch. Lần làm hộ tịch này được đánh dấu bởi nhiều điểm
cải cách:
Về thẩm quyền: người ở xã nào duyệt tuyển theo sổ của xã đó, người nào ở
xã khác cách xa bản quán thì cho duyệt tuyệt vào sổ của xã tại nơi đang cư trú,
nếu chỗ ở gần bản quán thì phải về ứng duyệt tại bản quán.
Về đối tượng quản lý: lần đầu tiên việc khai báo hộ tịch mở rộng tới đối
tượng phụ nữ. Độ tuổi khai báo hộ tịch cũng hạ xuống, xã trưởng có nhiệm vụ
phải kê khai đầy đủ mọi nhân khẩu trong các hộ đến 10 tuổi.
Về phương thức lập sổ hộ tịch: sổ hộ tịch được lập thành sáu bản, một bản lưu
ở xã, một bản lưu ở huyện, một bản lưu ở Thừa ty, một bản lưu ở Hồ bộ, một
bản lưu ở Hộ Khoa, một bản phải trình Chúa Trịnh và được lưu ở phủ Chúa.
Về việc ràng buộc trách nhiệm khai báo hộ tịch của người dân và việc lập sổ
của các cơ quan có trách nhiệm: những nhân khẩu không khai báo hộ tịch
không có tên trong sổ hộ tịch mà đi kiện thì nha môn không giải quyết. Xã
trưởng ẩn lậu hộ tịch mà quan huyện không xét ra thì xã trưởng và huyện quan
đều bị trị tội.
Đến đời vua Lê Huyền Tông, năm 1664 chế độ duyệt tuyển hộ tịch đã duy trì
từ thời Lê Trung Hưng được thay đổi bằng phép “bình lệ”. Theo phương pháp
này, việc khai báo hộ tịch trong mỗi xã được thực hiện một lần nhất định. Sau đó
số người sinh thêm cũng không cộng vào, số người chết đi cũng không trừ đi,
mỗi xã luôn phải đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ đối với triều đình theo số đinh
13
đã ấn định khi khai báo hộ tịch ban đầu. Phép “bình lệ” được áp dụng để kiểm
soát dân số từ đời vua Lê Huyền Tông đến đời Lê Đế Duy Phương, năm 1730
thì chấm dứt, việc lập sổ hộ tịch quay trở về thể thức theo phép duyệt tuyển đã
định ra từ đời Lê Thần Tông năm 1658.
Sau khi đại phá quân Thanh, Quang Trung Nguyễn Huệ lên ngôi vua, để ngăn
ngừa tình trạng ẩn lậu dân đinh xảy ra rất phổ biến trước đó, triều đình đã thực
hiện việc chấn chỉnh địa phương bằng cách đặt thêm một cấp trung gian giữa xã
và huyện, gọi là tổng. Người đứng đầu tổng là tổng trưởng phải chịu trách nhiệm
liên đới với các xã trưởng trong quán hạt của tổng mình về việc kê khai sổ đinh.
Đến triều đình phong kiến nhà Nguyễn, trong chế độ quân chủ chuyên chế
cực đoan của mình đã dùng mọi phương cách để tận dụng tối đa sức lực của
người dân. Vấn đề kiểm soát dân đinh được thực hiện hết sức gắt gao. Phép bình
lệ vẫn được duy trì, sổ đinh được làm thành 3 bản: giáp, ất, bính. Ghi rõ họ, tên,
tuổi của tất cả đinh khẩu từ 18 đến 59 tuổi. Thể thức làm sổ do Bộ hộ thống kê
quy định.
Qua các triều đại phong kiến, ta thấy rằng bản chất hoạt động quản lý dân cư
trong thời kỳ phong kiến thuần túy chỉ là hoạt động quản lý đinh. Mặc dù các tài
liệu lịch sử có sử dụng các thuật ngữ “hộ tịch”, “hộ khẩu”,…nhưng trong thời kỳ
phong kiến, hoạt động quản lý hộ tịch với ý nghĩa là việc quản lý các việc sinh,
tử, giá thú đối với mỗi cư dân từ khi sinh ra đến khi chết. Các triều đình phong
kiến kiểm soát rất chặt chẽ, nghiêm ngặt việc chấp hành chế độ khai báo dân
đinh của các đơn vị hành chính.
2.1.2. Quản lý hộ tịch thời kỳ Pháp thuộc và ở miền Nam Việt Nam trước năm
1975
Thực dân Pháp sau khi thiết lập chế độ thuộc địa ở miền Nam Việt Nam và chế
độ bảo hộ ở miền Bắc và miền Trung, một trong những vấn đề quan tâm hàng
đầu của chính phủ bảo hộ là việc kiểm soát chặt chẽ dân cư. Cùng với việc thay
thế toàn bộ hệ thống pháp luật của triều Nguyễn, thực dân Pháp đã áp dụng ở
Nam kỳ chế độ quản lý hộ tịch theo mô hình của nước Pháp.
14
Ngày 03.10.1883, Chính phủ Pháp ban hành Sắc lệnh ngày 03.10.1883 được
coi là nền tảng thiết lập chế độ quản lý hộ tịch ở Việt Nam. Thực chất là sự du
nhập mô hình quản lý hộ tịch của dân luật Pháp. Bởi vậy sắc lệnh này còn được
gọi là “bộ dân luật giản yếu”. Sắc lệnh này được duy trì trong một thời gian dài,
chỉ được sửa đổi hai lần bởi sắc lệnh ngày 10.02.1893 và sắc lệnh ngày
23.7.1931.
Ở miền Bắc và miền Trung, sau khi thực dân Pháp thiết lập chế độ bảo hộ đối
với triều đình phong kiến bù nhìn tay sai thì việc quản lý hộ tịch cũng được triển
khai. Tại miền Bắc, việc quản lý hộ tịch được thực hiện theo quy định từ Điều
18 đến Điều 48 “Bộ dân luật Bắc kỳ” ngày 03.3.1931. Tại miền Trung, việc quản
lý hộ tịch được thực hiện theo quy định từ Điều 18 đến Điều 50 “Bộ Hoàng Việt
Trung Hộ Luật” do triều đình nhà Nguyễn ban hành ngày 13.7.1936.
Đặc điểm nổi bật của việc quản lý hộ tịch thời kỳ Pháp thuộc là do ảnh hưởng
sâu sắc bởi hệ thống pháp luật Pháp nên các vấn đề về quản lý hộ tịch luôn được
coi là một chế định cơ bản của dân luật. Chế độ quản lý hộ tịch được thiết lập ở
miền Nam sớm hơn ở miền Bắc và miền Trung hàng chục năm và được thực
hiện hết sức chặt chẽ nhằm phục vụ cho mục tiêu củng cố chính quyền thuộc
địa. Nội dung quản lý chỉ bao gồm ba loại việc hộ tịch cơ bản : sinh, tử, giá thú.
Phương thức quản lý bằng sổ bộ hộ tịch và “chứng thư hộ tịch” được thực hiện
hết sức nghiêm ngặt, nhằm bảo đảm mục đích ưu tiên hàng đầu là tính chính xác
của các thông tin về hộ tịch. Hiệu quả quản lý hộ tịch được đảm bảo bằng việc
quy định trách nhiệm pháp lý của Hộ lại hết sức nặng nề.
Quản lý hộ tịch được chính quyền thuộc địa sử dụng như một công cụ quan
trọng để “kiểm soát an ninh xã hội”. Đây là mục đích hàng đầu của hoạt động
quản lý hộ tịch ở miền Nam thời kỳ thuộc Pháp. Sau khi Pháp rút khỏi miền
Nam, đế quốc Mỹ thế chân dựng nên thể chế bù nhìn thì chế độ quản lý hộ tịch
cũ vẫn được chính phủ ngụy quyền Sài Gòn duy trì và sử dụng. Dưới chế độ
thực dân mới, chính quyền Ngụy ban hành số lượng rất lớn văn bản pháp luật
quy định chi tiết các vấn đề liên quan đến hộ tịch. Theo thống kê chưa đầy đủ,
chỉ riêng trong hai năm 1964-1965, tổng trưởng bộ tư pháp của chính phủ ngụy
15
quyền Sài Gòn đã ban hành 16 thông tư hướng dẫn các vấn đề về hộ tịch. Ví dụ:
thông tư số 486-B/BNV/HC/12 ngày 20.1.1964 về việc lập khai sinh cho các trẻ
em nông thôn chưa khai sinh hợp lệ,
2.1.3. Chế độ quản lý hộ tịch của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, chính phủ lâm thời của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã rất quan
tâm đến việc xây dựng nền hành chính. Ngày 10.10.1945, sau khi thảo luận
thống nhất trong Hội đồng Chính phủ tại phiên họp ngày 04.10.1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc lệnh cho phép tạm thời duy trì hiệu lực các luật
lệ của chế độ cũ theo nguyên tắc các luật lệ này chỉ có giá trị thi hành nếu
“không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”.
(Điều 12 Sắc lệnh ngày 10.10.1945 của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ
cộng hòa)
Theo nguyên tắc chung đó, thể lệ đăng ký hộ tịch đã được quy định trong bộ
Dân luật giản yếu (áp dụng ở Nam kỳ), Hoàng Việt hộ luật (áp dụng ở Trung
kỳ), Dân luật Bắc kỳ (áp dụng ở miền Bắc) vẫn tiếp tục được thi hành trong suốt
thời gian hơn 10 năm sau đó.
Sự điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch của Nhà nước ta được đánh dấu
bằng bản Điều lệ đăng ký hộ tịch đầu tiên được ban hành kèm theo Nghị định số
764/TTg ngày 8.5.1956 của Thủ tướng Chính phủ. Bản điều lệ này bao gồm 34
điều quy định các vấn đề cơ bản về việc đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn,
đăng ký khai tử, việc ghi chú và thay đổi về hộ tịch, việc công nhận và đăng ký
hộ tịch đối với ngoại kiều và Việt kiều về cư trú ở trong nước. Các quy định của
bản Điều lệ đăng ký hộ tịch này được thay thế toàn bộ các thể lệ đăng ký hộ tịch
của chế độ cũ vẫn được áp dụng trước đó. Việc quản lý nhà nước về hộ tịch
trong thời gian này do Bộ Nội vụ và Ủy ban hành chính các cấp thực hiện.
Bản điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1956 thi hành được năm năm thì bị bãi bỏ và
thay thế bằng bản điều lệ mới ban hành ngày 16.01.1961 kèm theo Nghị định số
04/CP của Hội đồng Chính phủ. Bản điều lệ đăng ký hộ tịch này được áp dụng
16
thi hành từ ngày 01.4.1961 và hiệu lực của nó được duy trì trong suốt gần 40
năm sau, cho đến khi bị bãi bỏ bởi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày
10.10.1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch hiện hành.
Từ năm 1987, nhiệm vụ quản lý nhà nước về hộ tịch được chuyển giao từ Bộ
Nội vụ sang Bộ Tư pháp và Uỷ ban nhân dân các cấp trên cơ sở Nghị định số
219/HĐBT ngày 20.11.1987 của Hội Đồng Bộ Trưởng. Từ thời điểm này, Bộ Tư
pháp được giao nhiệm vụ chỉ đạo, tổ chức quản lý về hộ tịch thống nhất trên cả
nước, còn nghành Nội vụ (nay là Công an) tiếp tục duy trì chức năng quản lý hộ
khẩu.
Ngày 30.11.1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 184/CP quy định thủ tục
đăng ký kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài.
Ngày 10.10.1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 83/1998/NĐ-CP về đăng
ký hộ tịch. Nghị định này đã chấm dứt thời kỳ gần 40 năm tồn tại của điều lệ
đăng ký hộ tịch được ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP ngày 16.01.1961.
Đây là một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của công tác quản lý hộ tịch
ở nước ta. Trên cơ sở văn bản pháp luật có vai trò là “nguồn chủ đạo” của pháp
luật về quản lý hộ tịch thực sự chuyển biến một cách rõ rệt, và thể hiện nhiều sắc
thái mới tích cực.
Ngày 10.7.2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định số
184/CP là Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều
của luật hôn nhân và gia đình năm 2000, nhưng thực chất là chứa đựng phần lớn
các quy phạm pháp luật làm căn cứ để giải quyết các việc hộ tịch có yếu tố nước
ngoài, bao gồm:
- Việc đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi, đăng ký nhận cha, mẹ, con
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài thường
trú tại Việt Nam với nhau.
- Công nhận việc kết hôn, ly hôn, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi giữa công
dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được tiến hành tại cơ quan
có thẩm quyền của nước ngoài.
17