Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

đổi mới phương pháp giải toán có lời văn ở lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.35 KB, 24 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN HẢI AN
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐẰNG HẢI
===== *** =====
CHUYÊN ĐỀ
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢI TOÁN CÓ LỜI
VĂN
Ở LỚP 4 VỚI DẠNG BÀI TOÁN:
"T×m hai sè khi biÕt tæng vµ tØ sè cña hai sè ®ã"
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực
tiễn đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học
sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong
thực tiễn.
Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả
năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong
việc rèn luyện phương pháp suy nghĩa, phương pháp suy luận,
phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện,
chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập
sáng tạo, linh hoạt góp phần giáo dục ý trí nhẫn nại, ý trí vượt khó
khăn.
Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán vấn đề
đặt ra cho người dạy là làm thế nào để giờ dạy - học toán có hiệu quả
cao, học sinh được phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong
việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Vậy giáo viên phải có phương
pháp dạy học như thế nào? Để truyền đạt kiến thức và khả năng học bộ
môn này tới học sinh tiểu học.
Theo chúng tôi các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất
phát từ vị trí mục đích và nhiệm vụ mục tiêu giáo dục của môn toán ở
bài học nói chung và trong giờ dạy toán lớp 4 nói riêng. Nó không phải
là cách thức truyền thụ kiến toán học, rèn kỹ năng giải toán mà là


phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và
giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả cho học
sinh tức là dạy cách học. Vì vậy giáo viên phải đổi mới phương pháp
và các hình thức dạy học để nâng cao hiệu quả dạy - học.
2. Từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học là dễ nhớ nhưng
mau quê, sự tập trung chú ý trong giờ học toán chưa cao, trí nhớ chưa
bền vững thích học nhưng chóng chán. Vì vậy giáo viên phải làm thế
nào để khắc sâu kiến thức cho học sinh và tạo ra không khí sẵn sàng
học tập, chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức.
3. Xuất phát từ cuộc sống hiện tại. Đổi mới của nền kinh tế, xã
hội, văn hoá, thông tin đòi hỏi con người phải có bản lĩnh dám nghĩ
dám làm năng động chủ động sáng tạo có khả năng để giải quyết vấn
đề. Để đáp ứng các yêu cầu trên trong giảng dạy nói chung, trong dạy
học Toán nói riêng cần phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy
học để nâng cao hiệu quả dạy - học.
4. Hiện nay toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học
nói riêng đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tính cực của học sinh làm cho hoạt động dạy trên
lớp "nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả". Để đạt được yêu cầu đó giáo
viên phải có phương pháp và hình thức dạy học để nâng cao hiệu quả
cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi tiểu
học và trình độ nhận thức của học sinh. Để đáp ứng với công cuộc đổi
mới của đất nước nói chung và của ngành giáo dục tiểu học nói riêng.
5. Trong chương trình môn toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ
một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được
nhiều khái niệm toán học. Như các số, các phép tính, các đại lượng, các
yếu tố hình học đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong
thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng
giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã
rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con

người mới. Có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm việc có kế
hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công
việc mình làm óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo, giúp học sinh vận dụng
các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng
thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát
hiện những ưa điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy
để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt
thiếu sót.
Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở
cấp tiểu học chung và lớp 4 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi
giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất lượng học toán cho học sinh.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Thuận lợi:
Đa số học sinh thích học môn toán nhà trường trang bị tương đối
đầy đủ đồ dùng cho dạy học toán. Học sinh có đầy đủ phương tiện học
tập.
2. Khó khăn:
Học sinh: Môn toán là môn học khó khăn, học sinh dễ chán.
Trình độ nhận thức học sinh không đồng đều.
Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn
hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán dẫn tới thường
nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát
vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kĩ
năng tính nhẩm với các phép tính (hàng ngang) và kĩ năng thực hành
diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ
động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán
vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức.
Vì vậy mà qua khảo sát chất lượng đầu năm vào thời điểm tháng
10/2004 (năm học 2004 - 2005) về giải bài toán: Tổng số là 114 học
sinh của khối lớp 4 là như sau:

Tóm tắt bài toán
Chọn và thực
hiện đúng phép
tính
Lời giải và đáp số
Đạt Chưa đạt Đúng Sai Đúng Sai
35 em =
31%
79 em =
69%
62em =
54%
52em =
46%
68 em =
60%
46 em =
40%
Qua kết quả khảo sát cho thấy kĩ năng giải các bài toán có lời văn
của các em còn rất nhiều hạn chế. Chính vì thực trạng này đặt ra cho
mỗi người giáo viên lớp 4 chúng tôi là dạy giải toán có lời văn như thế
nào để nâng cao chất lượng dạy - học.
Với những lí do trên tổ 4 chúng tôi mạnh dạng chọn chuyên đề:
"Đổi mới phương pháp dạy giải toán có lời văn ở lớp 4"
Với dạng bài toán: "Tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số
đó".
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. NỘI DUNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH SÁCH GIÁO KHOA
TIỂU HỌC ĐỐI VỚI VIỆC DẠY TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở TẤT CẢ
CÁC KHỐI LƠP:

Chúng tôi nhận thấy rằng việc "Đổi mới phương pháp dạy giải
toán có lời văn ở lớp 4" đạt được kết quả tốt thì giáo viên phải nắm
được nội dung chương trình dạy toán có lời văn ở tất cả các khối lớp
1,2,3 (Khối đã thay sách) và khối lớp 5 (chưa thay sách). Từ đó mới
định hướng cách dạy cho mình sao cho có sự kế thừa và phát huy được
hiệu quả của việc đổi mới phương pháp
* Đối với khối lớp 1:
Nhận biết thế nào là một bài toán có lời văn.
Biết giải và trình bày giải các bài toán đơn bằng một phép tính
cộng (hoặc trừ) trong đó óc bài toán về thêm bớt một số đơn vị.
Mục đích: Bước đầu phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp
giải toán và kĩ năng diễn đạt vấn đề, giải quyết vấn đề, trình bày vấn đề
bằng ngôn ngữ nói - viết.
Phương pháp dạy: Với mục tiêu như vậy nên đòi hỏi mỗi giáo
viên lớp 1 phải bám sát trình độ chuẩn và quán triệt những định hướng
đổi mới dạy cho học sinh phương pháp giải toán, tạo cơ hội để học
sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức và phát
huy năng lực cá nhân.
Giáo viên không nói nhiều, không làm thay mà là người tổ chức
các hoạt động học tập cho học sinh và hướng dẫn cho học sinh hoạt
động cần tăng cường kĩ năng giải toán, thực hành luyện tập với những
bài toán có tính cập nhật, gắn với thực tiễn, khuyến khích học sinh làm
quen, từng bước tự mình tìm ra cách giải bài toán.
* Đối với khối lớp 2:
Học sinh: Giải và trình bày giải các bài toán đơn về cộng, trừ.
Trong đó có bài toán về nhiều hơn, ít hơn, các bài toán về nhân, chia
trong phạm vi bàng nhân, chia bảng 2,3,4,5. Làm quen bài toán có nội
dung hình học.
- Tự đặt được đề toán theo điều kiện cho trước.
- Chương trình được xen kẽ vơ3í các mạch kiến thức khác.

Phương pháp
Khi dạy toán có lời văn. Giáo viên giúp học sinh biết cách giải
toán. Học sinh tự tìm cách giải toán qua 3 bước:
- Tóm tắt bài toán.
- Tìm cách giải, thiết lập mối quan hệ.
- Trình bày bài giải.
+ Về phần tóm tắt bài toán có thể tóm tắt bằng lời, bằng sơ đồ.
+ Về trình bày bài giải: Giáo viên kiên trì để học sinh tự diễn đạt
câu trả lời bằng lời. Giáo viên cần cho thời gian luyện nhiều.
* Đối với khối lớp 3:
1. Các bài toán đơn:
- Tìm một trong các phần bằng nhau của đơn vị.
- Gấp một số lên nhiều, giảm đi một số lần.
- So sánh gấp (bé) một số lần.
Tất cả các bài toán đơn như ở lớp 1,2 nhưng mức độ cao hơn.
2. Giải bài toán hợp có hai phép tính (hoặc hai bước tính)
Phương pháp:
- Đọc kỹ đề bài toán
- Tóm tắt bài toán bằng lời hoặc sơ đồ (không trình bày trong bài
giải nếu không cần thiết).
- Nêu bài giải đầy đủ hai bước tính (trình bày trong vở ghi).
Các dạng bài tập:
Bài toán đơn, đề hoàn chỉnh (kèm minh hoạ sơ đồ hoặc không
minh hoạ) lớp 2.
Bài toán giải bằng hai phép tính.
* Đối với khối lớp 5: (khối chưa thay sách)
Ngoài 7 dạng toán điểu hình ở lớp 4 còn có thêm 3 dạng toán
nữa, đó là:
Tỉ số phần trăm.
Toán chuyển động đều.

Bài toán có nội dung hình học (diện tích xung quanh, diện tích
toàn phần, thể tích các hình).
Mức độ yêu cầu: Biết giải và trình bày giải các bài toán với phân
số, số thập phân, củng cố các dạng toán điển hình đã học ở lớp 4.
Biết giải các bài toán có nội dung hình học, diện tích, thể tích các
hình đã học và mới học, biết giải các bài toán đơn về chuyển động đều.
Phương pháp dạy: Giáo viên cần:
- Giúp học sinh nắm chắc được các bước trong quá trình giải
toán.
- Tổ chức cho học sinh nắm vững được các dạng toán và đặc biệt
rèn luyện kỹ năng phân tích đề bài. Từ đó giúp học sinh lựa chọn giải
và lập kế hoạch giải một cách chính xác.
II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TOÁN CÓ LỜI VĂN TRONG
CHƯƠNG TRÌNH TOÁN LỚP 4:
Toán có lời văn giữ một vị trí quan trọng trong chương trình toán
4:
Góp phần hệ thống hoá về củng cố có kiến thức, kỹ năng về số tự
nhiên, phân số, yếu tố hình học và 4 phép tính (+, - , x, : ) với các số đã
học làm cơ sở để học tiếp ở lớp 5 và nó đặt nền móng cho quá trình đào
tạo tiếp theo ở các cấp học cao hơn, nó hình thành kỹ năng tính toán,
giúp học sinh nhận biết được những mối quan hệ về số lượng, hình
dạng không gian của thế giới hiện thực, hình thành phát triển hứng thú
học tập và năng lực phẩm chấta trí tuệ của học sinh ngay từ góp phần
phát triển trí thông minh, óc suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo.
Kế thừa giải toán ở lớp 1, lớp 2, lớp 3, mở rộng, phát triển nội
dung giải toán phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 4.
III. NỘI DUNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 4:
Toán có lời văn giữ một vị trí đặc biệt trong chương trình toán 4
bao gồm các dạng toán điển hình:
- Tìm số trung bình cộng

- Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó
- Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó.
- Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó.
- Tìm 2 số khi biết hiệu và tỉ số của 2 số đó.
- Bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận
- Bài toán về đại lượng tỉ lệ nghịch
- Bài toán có nội dung hình học (chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình
vuông)
Nội dung giải toán được sắp xếp hợp lý đan xen với nội dung
hình học (diện tích, chu vi hình vuông, hình chữ nhật ) và các đơn vị
đo lường, đo diện tích nhằm đáp ứng với mục tiêu của chương trình
toán 4.
Ngoài ra nội dung các bài toán ở lớp 4 đã chú ý đến tính cập nhật,
gắn liền với tình huống trong đời sống, gần gũi với trẻ, đã tăng cường
tính giáo dục cho học sinh.
Cần có dẫn chứng minh hoạ.
IV. MỤC TIÊU DẠY GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 4:
- Học sinh biết giải các bài toán hợp không quá 4 bước tính liên
quan đến các dạng toán điển hình.
- Biết trình bày bài giải đầy đủ gồm các câu lời giải (mỗi phép
tính đều có lời văn) và đáp số theo đúng yêu cầu của bài toán.
- Đối với học sinh khá giỏi phải tìm được nhiều cách giải một bài
toán nếu có.
V. YÊU CẦU DẠY GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 4:
1. Yêu cầu 1: Học sinh phải tham gia vào các hoạt động học tập
một cách tích cực, hứng thú, tự nhiên và tự tin. Trách nhiệm của học
sinh là phát hiện, chiếm lĩnh và vận dụng.
2. Yêu cầu 2: Giáo viên phải lập kế hoạch, tổ chức hướng dẫn nhẹ
nhàng, hợp tác giúp học sinh phát triển năng lực cá nhân của học sinh.
Giáo viên và học sinh ảnh hưởng nhau, thích nghi và hỗ trợ nhau.

3. Yêu cầu 3: Tạo điều kiện để học sinh hứng thú, tự tin trong
học tập.
VI. TỰ HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU ĐỂ NẮM VỮNG
ĐƯỢC TÁC DỤNG CŨNG NHƯ VIỆC TIẾN HÀNH THỰC
HÀNH ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP TRONG GIẢNG DẠY:
Tôi thấy đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới
phương pháp dạy giải toán nói riêng là nhằm tìm ra đựơc phương pháp
logic cho từng nội dung của từng môn, từng bài để nhằm đạt được chất
lượng cao nhất trong giảng dạy. Đổi mới phương pháp dạy học trong
giai đoạn hiện nay chính là để phát hiện, lựa chọn phương pháp cụ thể
phù hợp với quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm và phù hợp
với nội dung giáo dục cụ thể. Vì vậy chúng tôi thường xuyên sinh hoạt
thăm lớp dự giờ của đồng nghiệp để học tập và xây dựng thống nhất
cách thực hiện phương pháp đổi mới giảng dạy cho tất cả các môn học
cho phù hợp để tìm ra con đường chuyển tải chính thức tới học sinh
bằng con đường nhanh nhất, ngắn gọn nhất. Cần nghiên cứu, tìm hiểu
để nắm được yêu câu của việc dạy toán nói chung và loại giải toán:
"Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó" nói riêng. Đồng thời nắm
được những thiếu sót của học sinh trong giải toán có lời văn.
VII. CHUẨN BỊ CHO GIỜ DẠY GIẢI TOÁN THEO
PHƯƠNG PHÁP ĐỔI MỚI ĐẠT KÉT QUẢ.
Để có được giờ dạy giải toán theo phương pháp đổi mới đạt kết
quả tốt, phát huy được tính tích cực của học sinh thì giáo viên phải có
thiết kế cụ thể rõ ràng, nó sẽ quyết định lớn đến chất lượng giờ dạy và
đồng thời giáo viên cũng là người tổ chức, hướng dẫn thiết kế cho từng
học sinh. Mọi học sinh đều chủ động học tập và phát triển cao nhất,
chính vì lẽ đó cả 2 đối tượng thầy và trò đều phải có sự chuẩn bị chu
đáo.
1. Sự chuẩn bị của giáo viên:
Trước khi dạy bất cứ một loại giải nào, trong tổ chúng tôi đều

thống nhất là dành thời gian kĩ lưỡng về tất cả các bài tập của dạng
toán đó, từ bài giảng đến bài luyện, từ bài trong sách giáo khoa đến bài
trong vở bài tập để thấy được phương pháp giảng dạy phù hợp, ngắn
gọn, học sinh dễ tiếp thu, giáo viên nói ít và chọn được những bài thêm
để nâng cao kiến thức đối với đối tượng học sinh khá, giỏi dạy. Đồng
thời cũng lường trước được chỗ học sinh hay vướng mắc trong khi thực
hành giải loại toán đó mà giáo viên lưu ý trong giảng dạy.
- Khi dạy loại: "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai
số đó". Học sinh được học 2 tiết bài mới (đó là tiết 1: "Tỉ số ở dưới
dạng số tự nhiên", có nghĩa là so sánh giữa giá trị của số lớn với giá trị
của số bé. Tiết 2: "Tỉ số ở dưới dạng phân số", có nghĩa ). Thì học
sinh thường mắc ở dạng tỉ số là phân số nên giáo viên dạy cần lưu ý
nhấn mạnh để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Từ mối quan hệ tỉ số là hai số
trong bài giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra sự biểu diễn trên sơ đồ
tóm tắt bài toán. Đây là loại toán giải khó đối với học sinh lớp 4 nên
giáo viên phải giúp học sinh:
+ Xác định được tổng, tỉ số đã cho
+ Xác định được hai số phải tìm là số nào?
Từ đó hướng tới phương pháp giải chung là ( phương pháp giải
bài toán):
Tìm tổng số phần bằng nhau
Tìm giá trị của một phân bằng lấy tổng của hai số chia cho tổng
số phần bằng nhau, rồi dựa vào mối quan hệ giữa tỉ số của hai số của
hai số mà tìm ra giá trị của mỗi số phải tìm.
Trên cơ sở đó học sinh sẽ nắm cách giải đặc trưng của loại toán
này. Để củng cố được kĩ năng và kiến thức của loại toán này, tôi cho
các em tự đặt đề toán theo loại toán đó đồng thời chọn các bài toán khó
cho học sinh khá, giỏi (áp dụng vào tiết luyện tập hay buổi dạy riêng
biệt đối với học sinh khá, giỏi).
Tất cả sự chuẩn bị trên của giáo viên đều được thể hiện cụ thể

trên bài soạn đủ các bước, đủ các yêu cầu và thể hiện được công việc
của thầy và trò trong giờ giải toán.
2. Sự chuẩn bị của học sinh:
Đối với học sinh đã đạt được giáo dục và bồi dưỡng ý thức thích
học toán, có thú vị, hào hứng trong hoạt động học toán, có phương
pháp học bộ môn toán, có thao tác về giải toán phải có đầy đủ các dụng
cụ học toán và chuẩn bị đầy đủ cho phù hợp với từng tiết học. Đối vưói
học sinh khá, giỏi trong những buổi bồi dưỡng riêng biệt cần có thêm
sách giáo khoa về luyện giải, sách giáo khoa nâng cao
Song không thể thiếu được những kiến thức về toán học có hệ
thống logic từ lớp dưới, từ bài học trước phải chắc chắn làm cơ sở, nền
tảng giúp học sinh tự tin trong hoạt động thực hanh, trong việc tiếp thu
kiến thức. Ví dụ như khi học giải toán vê "Bài toán tìm hai số khi biết
tổng và tỉ số của hai số đó" thì các em đã được học bài trước là "Tỉ
số"
Chính vì sự liên quan hệ thống giữa kiến thức đã học với kiến
thức mới nên học sinh phải làm hết và đầy đủ các bài tập, học thuộc các
quy tắc, công thức toán. Để học sinh cso thói quen học bài, làm bài đầy
đủ chúng tôi đã thống nhất với giáo viên trong tổ là bố trí mỗi bàn có
một bàn trưởng là học sinh khá toán, thường xuyên kiểm tra bài học,
bài làm ở nhà của các bạn trong bàn vào giờ ôn bai, soát bài và chỉ ra
chỗ đúng sai trong bài tập của bạn giúp bạn cùng tiến bộ (xây dựng đôi
bạn thân )
VIII. QUY TRÌNH THỰC HIỆN KHI DẠY GIẢI TOÁN CÓ
LỜI VĂN:
- Giải toán đối với học sinh là một hoạt động trí tuệ khó khăn,
phức tạp. Việc hình thành kỹ năng giải toán hơn nhiều so với kĩ năng
tính vì bài toán giải là sự kết hợp đa dạng hoá nhiều khái niệm quan hệ
toán học, chính vì vậy đặc trưng đó mà giáo viên cần phải hướng dẫn
cho học sinh có được thao tác chung trong quá trình giải toán sau:

Bước 1: Đọc kỹ đề bài: Có đọc kỹ đề bài học sinh mới tập trung
suy nghĩ về ý nghĩa nội dung của bàit oán và đặc biệt chú ý đến câu hỏi
bài toán. Chúng tôi có rèn cho học sinh thói quen chưa hiểu đề toán thì
chưa tìm cách giải. Khi giải bài toán ít nhất đọc từ 2 đến 3 lần.
Bước 2: Phân tích tóm tắt đề toán.
Để biết bài toán cho biết gì? Hỏi gì? (tức là yêu cầu gì?)
Đây chính là trình bày lại một cách ngắn gọn, cô đọng phần đã
cho và phần phải tìm của bài toán để làm rõ nổi bật trọng tâm, thể hiện
bản chất toán học của bài toán, được thể hiện dưới dạng câu văn ngắn
gọn hoặc dưới dạng các sơ đồ đoạn thẳng.
Bước 3: Tìm cách giải bài toán: Thiết lập trình tự giải, lựa chọn
phép tính thích hợp.
Bước 4: Trình bày bài giải: Trình bày lời giải (nói - viết) phép
tính tương ứng, đáp số, kiểm tra lời giải (giải xong bài toán cần thử
xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp
với các điều kiện của bài toán không? (trong một số trường hợp nên thử
xem có cách giải khác gọn hơn, hay hơn không?
IX. PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI TOÁN" TÌM HAI
SỐ KHI BIẾT TỔNG VÀ TỈ SỐ CỦA HAI SỐ ĐÓ" Ở LỚP 4:
Đối với dạng toán này thì có các dạng bài nổi bật sau:
Dạng bài tỉ số của hai số là một số tự nhiên (có nghĩa là so sánh
giá trị của số lớn với giá trị của số bé).
Ví dụ 1: Có 45 tấn thóc chứa trong hai kho. Kho lớn chứa gấp 4
lần kho nhỏ. Hỏi số thóc chứa trong mỗi kho là bao nhiêu tấn?
Bước 1: 2 học sinh đọc to đề toán (cả l ớp đọc thầm theo bạn và
gạch chân = bút chì dưới từ gấp 4 lần)
Bước 2: Phân tích - tóm tắt bài toán.
Cho học sinh phân tích bài toán bằng 3 câu hỏi:
1. Bài toán cho biết gì? (tổng số thóc ở hai kho là 45 tấn. Kho lớn
gấp 4 lần kho nhỏ) "tỷ số của bài toán chính là điều kiện của bài toán".

2. Bài toán hỏi gì? (số thóc ở mỗi kho) "tức là số thóc ở kho nhỏ
và số thóc ở kho lớn".
3. Bài toán thuộc dạng toán gì? (bài toán tìm hai số khi biết tổng
và tỷ số của hai số đó)
Từ cách trả lời trên học sinh sẽ biết cách vẽ sơ đồ tóm tắt bài
toán, thiết lập được mối quan hệ giữa cái đã cho trong bài bằng ngôn
ngữ toán học ghi kí hiệu ngắn gọn bằng cách ghi tóm tắt đề toán. Đối
với dạng toán này, thì học sinh chủ yếu phải minh hoạ bằng sơ đồ hình
vẽ, tức là biểu thị một cách trực quan các mối quan hệ giữa các đại
lượng của bài toán.
Tóm tắt:
Kho nhỏ:
Kho lớn:
Bước 3: Tìm cách giải bài toán:
Trình bày bài giải:
Dựa vào kế hoạch giải bài toán ở trên mà học sinh sẽ tiến hành giải
như sau:
Tổng số phần bằng nhau là:
1 + 4 = 5 (phần)
Số thóc ở kho nhỏ là:
45 : 5 = 9 (tấn)
Số thóc ở kho lớn là:
9 x 4 = 36 (tấn)
Hỏi còn cách giải nào khác?
T số thóc - kho nhỏ = số thóc kho lớn
[hay 45 - 9 = 36 (tấn)]
Thử lại: Là quá trình kiểm tra việc thực hiện phép tính độ chính
xác của quá trình lập luận.
9 + 36 = 45 (tấn) tổng số thóc.
Hay có thể 36 : 9 = 4 (lần) tỉ số

Qua các thao tác giải trên chúng tôi đã hình thành dần dần cho
học sinh trong các giờ dạy toán dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo
viên đối với tất cả các dạng bài.
Từ phương pháp dạy như trên giáo viên có thể áp dụng với tất cả
những loại bài như sau:
45 tấn
? tấn
? tấn
* Tương tực đối với dạng "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ
số của hai số đó". Với tỉ số là một phân số (tức là so sánh giá trị của số
bé với giá trị của số lớn).
Ví dụ 2: Mẹ mua 20 kg gạo trong đó khối lượng gạo nếp bằng
2/3 khối lượng gạo tẻ. Tính số kg gạo mỗi loại?
2/3 cho ta biết. Nếu gạo tẻ được chia làm 3 phần bằng nhau thì số
gạo nếp sẽ chiếm 2 phần và học sinh tóm tắt như sau:
Số gạo tẻ:
Số gạo nếp:
* Đối với loại bài: Đặt đề toán theo sơ đồ rồi giải bài toán đó.
Ví dụ 3: Vải trắng:
Vải hoa:
1. Học sinh dựa vào sơ đồ để xác định được dạng toán.
2. Đặt đề toán
3. Giải bài toán
* Dạng toán này còn có những bài toán nâng cao lên thành "Tìm
ba số khi biết tổng và tỉ số của ba số đó".
Ví dụ 4: Lớp 4E nhận chăm sóc 180 cây trồng ở ba khu vực. Số
cây ở khu vực hai gấp 2 lần số cây ở khu vực một, số cây ở khu vực
một bằng 1/3 số cây ở khu vực ba. Tính số cây ở mỗi khu vực.
Đối với bài tập này thì giáo viên sẽ hướng dẫn gợi ý học sinh dựa
vào mối quan hệ giữa các tỉ số của 3 số đó trong bài để biểu diễn trên

sơ đồ tóm tắt bài toán.
Số cây ở khu vực I:
Số cây ở khu vực II:
? kg
20 kg
? kg
? cây
? cây
180 cây
? cây
Số cây ở khu vực III:
Bài tập này học sinh sẽ tiến hành làm tương tực như "Bài toán tìm
hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số"
Nhìn vào sơ đồ tóm tắt học sinh sẽ tìm ra cách giải và giải bài
toán
* Ở dạng toán "Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó"
còn ở dưới dạng ẩn:
Ví dụ 5: Một hình chữ nhật có P = 270m. Số đo chiều rộng bằng
1/4 số đo chiều dài. Tính diện tích hình chữ nhật đó.
(Giáo viên hướng dẫn học sinh bằng hệ thống câu hỏi gợi ý để
học sinh tìm ra cách giải và giải bài toán)
Đối với ví dụ này là sự kết hợp với các yếu tố hình học, từ đó
củng cố kiến thức nhiều mặt cho học sinh.
Như vậy, dù bài toán "Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số
đó" hay bất kì ở dạng toán nào thì đều quan trọng đối với học sinh là
phải biết cách tóm tắt đề toán. Nhìn vào tóm tắt xác định đúng dạng
toán để tìm chọn phép tính cho phù hợp và trình bày giải đúng.
Tất cả những việc làm trên của giáo viên đều nhằm thực hiện tiết
dạy giải toán theo phương pháp đổi mới và rèn kĩ năng cho học sinh
khi giải bất kì loại toán nào các em cũng được vận dụng.

PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
I. KẾT QUẢ:
Trong nhiều năm phương pháp dạy học của giáo viên nói chung
và của các đồng chí trong tổ nhóm chúng tôi nói riêng còn nhiều hạn
chế trong việc phát huy tiềm ẩn trong mỗi học sinh. Do vậy khắc phục
yếu kém cho học sinh trong môn toán nói chung và việc giải toán có lời
văn nói riêng chính là việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
thầy thiết kế trò thi công, thầy chỉ giữ vai trò tổ chức điều khiển và
hướng dẫn học sinh trong quá trình tìm ra tri thức mới. Học sinh quá
trình tìm ra tri thức mới. Học sinh thực hành và tự đúc kết ra kinh
nghiệm cho bản thân. Với việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời
văn như trên chúng tôi tự đánh giá khẳng định đã đạt được kết quả như
sau:
Đối với giáo viên: Đã tự học tập và có kinh nghiệm trong dạy
toán nói chung và trong việc dạy giải toán rói riêng, đồng thời giúp cho
bản thân nâng cao được tay nghề và đã áp dụng được các phương pháp
đổi mới cho tất cả các môn học khác.
Đối với học sinh: Các em đã nắm chắc được từng dạng bài, biết
cách tóm tắt, biết cách phân tícah đề, lập kế hoạch giải, phân tích kiểm
tra bài giải. Vì thế nên kết quả môn toán của các em có nhiều tiến bộ.
Giờ học toán là giờ học sôi nổi nhất.
Cụ thể kết quả kiểm tra môn toán cuối học kỳ I là:
Tóm tắt bài toán
Chọn và thực hiện
phép tính đúng
Lời giải và đáp số
Đạt Chưa đạt Đúng Sai Đúng Sai
96 em = 18 em = 16% 98 em = 16em = 102 em = 12 em =
84% 85% 15% 89% 11%
Như vậy rèn cho các em có phương pháp học là biện pháp tốt

nhất của người làm công tác giáo dục
II. KẾT LUẬN:
Để có kết quả giảng dạy tốt đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt
tình và có phương pháp giảng dạy tốt.
Có một phương pháp giảng dạy tốt là một quá trình tìm tòi, học
hỏi và tích lũy kiến thức, kinh nghiệm của bản thân mỗi người.
Là người giáo viên được phân công giảng dạy khối lớp 4. Chúng
tôi nhận thấy việc tích luỹ kiến thức cho các em là cần thiết, nó tạo tiền
đề cho sự phát triển trí thức của các em "cái móng" chắc sẽ tạo bàn đạp
và đà để tiếp tục học lên lớp trên và hỗ trợ các môn học khác.
Trước thực trạng học toán của học sinh lớp 4 những năm giảng
dạy, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số ý kiến trên, nhằm mong sự góp
ý của đồng nghiệp.
Khi làm một việc có kết quả như mình mong muốn phải có sự
kiên trì và thời gian không phải một tuần, hai tuần là học sinh sẽ có khả
năng giải toán tốt, mà đòi hỏi phải tập luyện trong một thời gian dài
trong suốt cả quá trình học tập của các em. Giáo viên chỉ là người
hướng dẫn, đưa ra phương pháp, còn học sinh sẽ là người đóng vai trò
hoạt động tích cực tìm ra tri thức và lĩnh hội nó và biến nó là vốn tri
thức của bản thân.
Những ý kiến của tôi đưa ra có thể còn nhiều hạn chế. Rất mong
sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để phương pháp giảng dạy của
chúng tôi được nâng cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của các đồng
nghiệp.
Hải Phòng, ngày 26 tháng 3 năm 2005
Người viết
Nguyễn Thị Thanh

×